So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
Sơ lược về lịch sử Hà Nội
Dải đất nay là Hà Nội có dân cư từ vài ngàn năm trước nhưng cái tên gọi Hà Nội
thì chỉ có từ năm 1831. Nguyên là từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô ra thành Đại La,
đổi gọi thành này là kinh đô Thăng Long. Kinh đô ngày ấy ứng với quận Hoàn Kiếm và
một phần của hai quận Đống Đa, Hai Bà Trưng ngày nay. Sau đó địa giới Thăng Long dần
mở rộng và tới cuối thế kỷ 18 thì tương ứng với năm quận nội thành bây giờ. Năm 1802,
nhà Nguyễn lên ngôi dời đô về Huế, Thăng Long không còn là Kinh đô nữa và ít lâu sau bị
đổi gọi là phủ Hoài Đức.
Năm 1831, có một cuộc cải cách hành chính lớn: xoá bỏ các trấn, thành lập các
tỉnh. Từ đó ra đời tỉnh Hà Nội. Sở dĩ có tên gọi này vì tỉnh mới nằm trong (nội) hai con
sông (hà) là sông Hồng và sông Đáy, gồm có 4 phủ, 15 huyện. Tỉnh lị đặt tại thành Thăng
Long cũ, do vậy Thăng Long được gọi là tỉnh thành Hà Nội rồi nói gọn lại là Hà Nội.
Năm 1883, Pháp chiếm đóng Hà Nội. Năm 1886 họ thành lập "thành phố Hà Nội",
ban đầu chỉ có 3 km2, đến năm 1939 là 12 km2 với số dân là 30 vạn.
Trở lại cái ngày Lý Thái Tổ định đô mới, truyền thuyết có kể rằng khi vua Lý tới
bến sông Cái (một tên gọi khác của sông Hồng), thì có con rồng vàng hiện trên sông rồi
bay lên cao. Vua cho là điềm lành, đặt tên kinh đô mới là Thăng Long (Rồng bay lên). Câu
chuyện "Rồng bay lên" đó nói lên khí thế vươn mình của thủ đô mới đang bước lên vũ đài
lịch sử, gánh vác sứ mệnh làm trái tim của một quốc gia đã có mấy nghìn năm dựng nước.
Cũng từ đây Thăng Long ghi nhiều chiến công hiển hách!
Thế kỷ 13, Thăng Long ba lần "thành không nhà trống" dồn quân xâm lược nhà
Nguyên vào thế bị đói, bị động, để rồi bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.
Tới đầu thế kỷ 15, đất nước lại một phên chao đảo. Thăng Long lại trở thành điểm
quyết chiến tối hậu chống quân xâm lược. Sau mười năm khởi nghĩa, năm 1427 Lê Lợi
đưa đại quân về Thăng Long vây chặt quân Minh xâm lược. Bị áp đảo trước khí thế và sức
mạnh của nghĩa quân, binh tướng nhà Minh phải thề ở cổng thành phía Nam, xin đầu hàng
và được phép rút toàn bộ quân sĩ về nước.
Tới cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, lại chính Thăng Long là nơi người anh hùng "áo vải
cờ đào" Nguyễn Huệ ghi nhiều chiến công, mà hiển hách nhất là chiến thắng Đống Đa năm
1789. Với cuộc hành quân thần tốc, mùng 5 Tết năm ấy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan
30 vạn quân lính Mãn Thanh xâm lược. Và trong chiến thắng đó có phần đóng góp của
người dân Thăng Long.
Sang đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn (từ năm 1802 - 1945) đóng đô ở Huế. Thăng Long
trở thành trụ sở của tỉnh Hà Nội. Nhưng Hà Nội vẫn là nơi văn vật nhất nước, là thành phố
đứng đầu cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về văn hóa. . . Tóm
lại, đây chính là trái tim của cả dân tộc.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, chính ở Thành Hà Nội, giặc Pháp đã vấp
phải sức phản kháng mạnh mẽ nhất. Ngưòi Hà Nội liên tiếp đứng lên chống lại ách đô hộ.
đỉnh cao của phong trào chính là ngày 19/8/1945, Hà Nội khởi nghĩa lập chính quyền cách
mạng, mở đầu cho tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Nửa tháng sau, ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, chính thức
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhưng thực dân Pháp lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Thế là ngày 19/12/1946
quân và dân Hà Nội nhất tề đứng lên đánh Pháp mở đầu cho giai đoạn toàn quốc kháng
chiến dài tới 9 năm. Ngày 7/5/1954 chiến thắng Điện Biên Phủ, quân Pháp hoàn toàn thất
bại. Năm tháng sau, 10/10/1954 Hà Nội được giải phóng và Hà Nội vẫn là trái tim của đất
Tu lieu LS_Tham khao 1
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
nước Việt Nam và Hà Nội đã chi viện hết sức mình cho miền Nam đánh Mỹ, trong khi đó
vẫn không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng trực tiếp chống
Mỹ khi Mỹ thực hiện kế hoạch leo thang ra miền Bắc.
Năm 1965, Hà Nội quyết liệt đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ bằng
không quân. Đặc biệt 12 ngày đêm cuối năm 1972, Hà Nội đã đập tan cuộc tập kích chiến
lược bằng không quân lớn nhất của đế quốc Mỹ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không"
lừng lẫy, và cùng với cả nước buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt
Nam.
Đến năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất toàn vẹn. Tháng 7/1976 tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội khoá VI,
Quốc hội thống nhất quyết định lấy Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
(Theo Người Hà Nội)
Tu lieu LS_Tham khao 2
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
Tu lieu LS_Tham khao 3
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÀ NỘI
Dải đất nay là Hà Nội có dân cư từ vài ngàn năm trước nhưng cái tên gọi Hà Nội
thì chỉ có từ năm 1831. Nguyên là từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô ra thành Ðại La,
đổi gọi thành này là kinh đô Thăng Long. Kinh đô ngày ấy ứng với quận Hoàn Kiếm và
một phần của hai quận Ðống Ða, Hai Bà Trưng ngày nay. Sau đó địa giới Thăng Long dần
mở rộng và tới cuối thế kỷ 18 thì tương ứng với năm quận nội thành bây giờ. Năm 1802,
nhà Nguyễn lên ngôi dời đô về Huế, Thăng Long không còn là Kinh đô nữa và ít lâu sau bị
đổi gọi là phủ Hoài Ðức.
Năm 1831, có một cuộc cải cách hành chính lớn: xoá bỏ các trấn, thành lập các
tỉnh. Từ đó ra đời tỉnh Hà Nội. Sở dĩ có tên gọi này vì tỉnh mới nằm trong (nội) hai con
sông (hà) là sông Hồng và sông Ðáy, gồm có 4 phủ, 15 huyện. Tỉnh lị đặt tại thành Thăng
Long cũ, do vậy Thăng Long được gọi là tỉnh thành Hà Nội rồi nói gọn lại là Hà Nội.
Năm 1883, Pháp chiếm đóng Hà Nội. Năm 1886 họ thành lập "thành phố Hà Nội",
ban đầu chỉ có 3 km2, đến năm 1939 là 12 km2 với số dân là 30 vạn.
Trở lại cái ngày Lý Thái Tổ định đô mới, truyền thuyết có kể rằng khi vua Lý tới
bến sông Cái (một tên gọi khác của sônh Hồng), thì có con rồng vàng hiện trên sông rồi
bay lên cao. Vua cho là điềm lành, đặt tên kinh đô mới là Thăng Long (Rồng lên). Câu
chuyện "Rồng lên" đó nói lên khí thế vươn mình của thủ đô mới đang bước lên vũ đài lịch
sử, gánh vác sứ mệnh làm trái tim của một quốc gia đã có mấy nghìn năm dựng nước.
Cũng từ đây Thăng Long ghi nhiều chiến công hiển hách!
Thế kỷ 13, Thăng Long ba lần "thành không nhà trống" dồn quân xâm lược nhà
Nguyên vào thế bị đói, bị động, để rồi bị quét sạch ra khỏi bờ cõi.
Tới đầu thế kỷ 15, đất nước lại một phên chao đảo. Thăng Long lại trở thành điểm
quyết chiến tối hậu chống quân xâm lược. Sau mười năm khởi nghĩa, năm 1427 Lê Lợi
đưa đại quân về Thăng Long vây chặt quân Minh xâm lược. Bị áp đảo trước khí thế và sức
mạnh của nghĩa quân, binh tướng nhà Minh phải thề ở cổng thành phía Nam, xin đầu hàng
và được phép rút toàn bộ quân sĩ về nước.
Tới cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, lại chính Thăng Long là nơi người anh hùng "áo vải
cờ đào" Nguyễn Huệ ghi nhiều chiến công, mà hiển hách nhất là chiến thắng Ðống Ða năm
1789. Với cuộc hành quân thần tốc, mùng 5 Tết năm ấy, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh tan
30 vạn quân lính Mãn Thanh xâm lược. Và trong chiến thắng đó có phần đóng góp của
người dân Thăng Long.
Sang đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn (từ năm 1802 - 1945) đóng đô ở Huế. Thăng Long
trở thành lỵ sở của tỉnh Hà Nội. Nhưng Hà Nội vẫn là nơi văn vật nhất nước, là thành phố
đứng đầu cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về văn hóa. . . Tóm
lại, đây chính là trái tim của cả dân tộc.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, chính ở Thành Hà Nội, giặc Pháp đã vấp
phải sức phản kháng mạnh mẽ nhất. Ngưòi Hà Nội liên tiếp đứng lên chống lại ách đô hộ.
Ðỉnh cao của phong trào chính là ngày 19/8/1945, Hà Nội khởi nghĩa lập chính quyền cách
mạng, mở đầu cho tổng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc. Nửa tháng sau, ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Ðình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, chính thức
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhưng thực dân Pháp lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Thế là ngày 19/12/1946
quân và dân Hà Nội nhất tề đứng lên đánh Pháp mở đầu cho giai đoạn toàn quốc kháng
chiến dài tới 9 năm. Ngày 7/5/1954 chiến thắng Ðiện Biên Phủ, quân Pháp hoàn toàn thất
Tu lieu LS_Tham khao 4
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
bại. Năm tháng sau, 10/10/1954 Hà Nội được giải phóng và Hà Nội vẫn là trái tim của đất
nước Việt Nam và Hà Nội đã chi viện hết sức mình cho miền Nam đánh Mỹ, trong khi đó
vẫn không ngừng đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và cũng trực tiếp chống
Mỹ khi Mỹ thực hiện kế hoạch leo thang ra miền Bắc.
Năm 1965, Hà Nội quyết liệt đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ bằng
không quân. Ðặc biệt 12 ngày đêm cuối năm 1972, Hà Nội đã đập tan cuộc tập kích chiến
lược bằng không quân lớn nhất của đế quốc Mỹ, làm nên trận "Ðiện Biên Phủ trên không"
lừng lẫy, và cùng với cả nước buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt
Nam.
Ðến năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, miền Nam hoàn toàn giải
phóng, đất nước thống nhất toàn vẹn. Tháng 7/1976 tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội khoá VI,
Quốc hội thống nhất quyết định lấy Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Tu lieu LS_Tham khao 5
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
LỊCH SỬ THĂNG LONG - HÀ NỘI
Kể từ khi Thái tổ Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra thành Ðại La để thánh địa ấy
mang cái tên mới Thăng Long đã sắp trọn một thiên kỷ. Hà Nội là kinh đô của ba vương
triều hiển hách Lý - Trần - Lê và nay là thủ đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Trải qua bao thăng trầm, binh lửa và xây dựng, Thăng Long - Hà Nội ngày càng lớn
cao với vị trí thiêng liêng của nó - trái tim của nước Việt Nam hôm qua và mãi mãi.
THĂNG LONG THỜI LÝ
Khi nhà Đinh, nhà Tiền Lê làm tròn nhiệm vụ lịch sử của mình (củng cố độc lập
dân tộc, khôi phục thống nhất quốc gia) thì Hoa Lư cũng vừa xong sứ mệnh lịch sử của
một Thủ đô thời kỳ đầu khi đất nước giành lại độc lập. Độc lập tổ quốc đã được thử thách
và vững vàng hơn. Những tiền đề cần thiết cho bước nhảy vọt về kinh tế, phát triển huy
hoàng về văn hoá đã được chuẩn bị qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân
tộc. Với nhãn quan chính trị xuất sắc của mình, nhà vua đã nhận ra vị thế đắc địa của thành
Đại La.
Mùa thu tháng bảy năm Canh Tuất (1010), vua đầu triều Lý quyết định dời đô.
Mùa nước rẫy, thuyền ngự với chiến thuyền và văn võ bá quan hộ tống từ Hoa Lư ngược
dòng cập bến Đại La. Tại vùng đất mới, nhà vua đổi tên là thành Thăng Long.
Kinh thành mới đại thể được giới hạn bằng 3 con sông: Phía Đông là sông Hồng, phía Bắc
và phía Tây là sông Tô, phía Nam là sông Kim Ngu và chia làm hai phần: Hoàng thành và
kinh thành. Hoàng thành nằm trong lòng Kinh thành, vị trí gần Hồ Tây, nơi có các cung
điện hoàng gia, đồng thời là nơi thiết triều. Trong Hoàng thành còn ngăn ra một khu vực
nữa gọi là Cấm thành. Đây là nơi ở của hoàng gia, gọi là Long thành. Những cung điện
chính còn ghi chép trong sử sách như: Điện Kiền Nguyên là điện chính, nơi vua làm việc,
hai bên tả hữu là điện Tập Hiền và Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông với cung
Nghinh Xuân; bên phái mở cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn; chính Bắc dựng điện
Cao Minh, đằng sau dựng điện Long An và Long Thuỵ để vua nghỉ ngơi, tiếp sau là cung
Thuý Hoa và các cung khác để các phi tần ở,v.v...
Năm 1029 vua Lý Thái Tôn cho xây dựng lại Cấm thành. Trên nền cũ của điện
Kiền Nguyên dựng điện Thiên An làm chính, hai bên tả hữu là điện Tuyên Đức và Diên
Phúc. Đằng trớc Thiên An là sân rồng, hai bên tả hữu sân rồng dựng gác chuông, xung
quanh bốn bề đều dựng hành lang và dải vũ. Chếch về phía Đông là điện Văn Minh và
điện Quảng vũ. Phía trớc sân rồng là điện Phụng Tiên, trên điện có lầu Chính Dơng nơi đặt
đồng hồ và báo canh. Đằng sau điện Thiên An là điện Thiên Khánh hình bát giác, nối liền
Thiên Khánh với điện Trờng Xuân phía sau là các cầu Phượng Hoàng, trên điện Trường
Xuân có gác Long Đồ.
Năm 1203 lại thêm đợt xây dựng mới. Vua Lý Cao Tôn cho dựng thêm cung điện ở
phía Tây tẩm điện: Chính giữa đặt điện Thiên Thuỵ, bên trái dựng điện Dương Minh, bên
phải dựng điện Thiềm Quang, đằng trước xây điện Chính Nghi, phía trên dựng điện Kính
Thiên. Chính giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm, bên phải mở cửa Việt Thành, thềm gọi là Ngân
Hồng. Đằng sau mở điện Thắng Thọ, trên có dựng gác. Bên trái xây gác Nhật Kim, bên
phải xây gác Nguyệt Bảo, xung quanh đều dựng nhà hành lang. Phía trái gác Nguyệt Bảo
dựng toà Lơng Thạch, phía Tây gác xây Dục Đờng (nhà tắm). Ngoài ra còn rất nhiều công
trình khác như gác Phú Quốc, thềm Phượng Tiêu, cửa Thấu Viên, ao Dưỡng Ngư, đình
Tu lieu LS_Tham khao 6
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
Ngoạn Y. Tất cả các công trình này đều có trồng hoa thơm cỏ lạ, “cách chạm trổ trang sức
khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ xưa chưa từng có vậy”(việt sử lược T .14). Bao bọc
các cung điện là một bức tường thành bảo vệ gọi là Long Thành với 10 vệ cấm quân ngày
đêm canh gác.
Ngoài các cung điện, nhà Lý còn xây dựng khá nhiều các đền miếu, chùa tháp, hồ,
vườn cảnh để phục vụ cho nhu cầu du ngoạn và tâm linh của hoàng tộc như chùa Vạn Tuế,
chùa Hưng Thiên Ngự, chùa Chân Giáo, đền Quán Thánh và hàng loạt lầu các, đài tạ rất
đẹp như: đài Chúng Tiên dựng năm 1161 tầng trên lợp ngói vàng, tầng dưới lợp ngói bạc;
hồ Kim Minh vạn tuế có cầu Vũ Phợng đi vào núi đá giữa hồ; hồ Thuỵ Thanh, ứng
Minh(đào 1051); hồ Phượng Liên (đào 1098), cạnh hồ dựng điện Sùng Uyên, điện Huy
Dương, đình Lai Phượng, điện ánh Thiềm, đình át Vân cùng lầu Trường Minh, phía sau
bắc cầu Ngoạn Hoa. Nhiều vườn ngự cũng được mở trong khu hoàng thành: vườn Quỳnh
Lâm, Thắng cảnh, Xuân Quang, Thợng Lâm. Trong các vườn này còn đào hồ nuôi thả hải
sản như đồi mồi cá biển...Tất cả các công trình kiến trúc trong Hoàng thành đều xây dựng
quy mô tráng lệ, từ lầu son gác tía đến các công trình văn hoá, tôn giáo hoà quyện với thiên
nhiên tạo nên dáng vẻ riêng của chốn Cửu trùng.
Khu thứ hai là khu dân sự, quan lại và binh lính ở bao bọc lấy hoàng thành, còn gọi
là kinh thành. Khu này chia thành các phường nông nghiệp và thủ công nghiệp. Cả hai khu
(Hoàng thành và kinh thành) được bao bọc bằng đê của ba con sông nói trên.
Đời sống kinh tế tại Thăng Long thời gian này đã có nhiều thay đổi. Từ vị trí là một miền
dân khang vật thịnh, nên khi trở thành Kinh S dân số Thăng Long ngày càng đông, hoạt
động kinh tế của kinh thành ngày càng sầm uất, phồn thịnh hơn trước.
Chỉ trong khoảng hơn một trăm năm sau khi trở thành kinh đô, tại Thăng Long, nhà Lý
trong giai đoạn thịnh đạt đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trên quy mô
lớn, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt trong lịch sử Việt Nam. Tứ đại khí: chuông Quy
Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh chính là đợc thiết kế từ thời kỳ
này. Nhà Lý đã trải qua 9 đời ở kinh thành Thăng Long, đổi quốc hiệu là Đại Việt, tồn tại
215 năm.
THĂNG LONG THỜI TRẦN
Nhà Lý chính thức chấm dứt sự thống trị của mình vào ngày mồng 1 tháng Chạp
năm ất Dậu (1226), khi Lý Chiêu Hoàng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ đã xuống
chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Nhà Trần thay nhà Lý trên chính trờng chính
trị, đồng thời cũng thay nhà Lý mở ra một thời kỳ mới phát triển cao hơn của xã hội Đại
Việt: vững vàng, năng động, thống nhất và ổn định cho đến giữa thế kỷ XV.
Thăng Long thời Trần vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá lớn nhất của
Đại Việt bấy giờ. Cuộc chuyển giao triều chính diễn ra một cách hoà bình đã không làm
cho Thăng Long thay đổi nhiều. Về kiến trúc vẫn như thời Lý, nhiều cung điện trong
Hoàng thành và Cấm thành vẫn giữ nguyên. Nhà Trần ngoài việc trùng tu các công trình cũ
còn xây dựng một số công trình kiến trúc mới ở Thăng Long: lập Viện quốc học, Giảng võ
đờng... Kinh thành chia làm 61 phờng, bao gồm cả phờng buôn, phờng thợ và phường làm
nông nghiệp. Một số tên phường trong thời kỳ này còn thấy lác đác ghi trong sử sách cũ
như: Thái Hoà, Báo Thiên, Phủng Nhật, Cơ Xá, Bố Cái, Hạc Kiều, Thịnh Quang, Toán
Viên...
Việc buôn bán giữa Thăng Long và các địa phương đã bắt đầu phát triển. Sông Tô
Lịch thành nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền. Khách buôn từ khắp nơi đều theo
Tu lieu LS_Tham khao 7
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
sông Hồng, qua cửa Hà Khẩu vào sông Tô để đa hàng vào kinh thành. Sự kiện năm 1400
khi Hồ Quý Ly đánh thuế thuyền buôn đã chứng tỏ hình thức buôn bán bằng đường thuỷ ở
Thăng Long thời gian này khá hưng thịnh.
Sự kiện năm 1282 vua Trần Thánh Tôn đi xe từ kinh thành đến Bình Than (Chí
Linh-Hải Hng) để hội chư quân cho phép chúng ta khẳng định tuyến đường bộ thời ấy đã
tương đối rộng rãi và thông thương thuận tiện. Đây chính là những tiền đề cần thiết cho
các hoạt động kinh tế và thơng mại của Thăng Long thời Trần được đẩy lên một diện mạo
mới.
Cuối thời Trần, Thăng Long đã được sử sách chép với cái tên “Kẻ chợ”. Điều đó
cho thấy diện mạo của Thăng Long đương thời đã phần nào mang dáng dấp của một thành
phố quốc tế: một thành phố nhân ái, là nơi giao lưu và hội tụ của nhiều yếu tố kinh tế, văn
hoá và con người; một thành phố thủ công và buôn bán nhỏ của ngời Việt nhưng cũng có
các cửa hàng buôn bán lớn của người Hoa, Hồi Hột, Chà Và...; một thành phố đón tiếp các
sứ giả Tống, Nguyên, Lào, Chiêm Thành, Gia va, các tăng ni bậc thầy cả ở Trung á, ấn độ
và có cả những quần tụ người Chiêm Thành ở miền ven nội; một Thăng Long vừa diễn
chèo Việt, tuồng Tầu, và múa điệu ngời Hồ...
Kinh tế công thương nghiệp thành thị sinh ra tầng lớp thị dân và lối sống thị dân.
Sử chép: vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) thờng “lén đi chơi, cứ đến đêm đi kiệu cùng
hơn mời ngời thị vệ, đi khắp kinh thành, đến gà sáng mới về” chứng tỏ Thăng Long ngày
ấy đã tơng đối sầm uất và ắt hẳn có nhiều hình thức buôn bán cũng như vui chơi về ban
đêm.
Thăng Long đời Trần không chỉ xây dựng và sáng tạo nghệ thuật mà còn đánh giặc
và đánh giỏi. Trong vòng 30 năm, ba lần Thăng Long trở thành toà thành vườn không nhà
trống, để rồi là mồ chôn quân xâm lược mà dấu vết oai hùng vẫn in dấu vàng son mỗi tên
ngời tên đất: Đông Bộ Đầu - dốc Hàng Than; Giang Khẩu - Hàng Buồm... và cuối cùng,
“Đằng giang tự cổ huyết do hồng” lại nối tiếp chiến công xa nhấn chìm quân xâm lợc cùng
tham vọng bành trướng của chúng. Thăng Long qua ba lần thử lửa vẫn vững vàng xứng
đáng là một đô thành anh hùng.
Nhà Trần tồn tại trên mảnh đất kinh kỳ nh vậy 175 năm với 12 đời vua nối nhau trị
vì trên đất Thăng Long Kẻ chợ.
THĂNG LONG THỜI LÊ SƠ
Như một quy luật, nhà Trần sau một thời gian hưng thịnh, đã đi vào suy thoái, quý
tộc ngoại thích Hồ Quý Ly chiếm ngôi lập ra nhà Hồ (1400 - 1407). Ông xây dựng một đô
thành mới ở Thanh Hoá gọi là Tây Đô. Thành Thăng Long, lúc này đổi là Đông Đô rồi
Đông Quan lại một lần nữa chứng kiến quân xâm lược ngoại bang giày xéo. Năm 1406,
nhà Minh phái 20 vạn quân sang xâm lợc Đại Việt. Cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo
thất bại, thành Đông Quan trở thành nơi chiếm đóng của địch. Đất nước đứng trước thử
thách mới của lịch sử để rồi chứng kiến cuộc chiến tranh giữ nước của anh hùng tương ngộ
Lê Lợi - Nguyễn Trãi (1418). 10 năm sau ngày phất cờ khởi nghĩa tại núi rừng Lam Sơn,
quê hương của người anh hùng Lê Lợi, toàn quân dân Đại Việt đã đại thắng giặc Minh, lập
nên một triều đại mới: triều đại nhà Lê.
Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (ngày 16 tháng 4 năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức
lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông
Đô (Thăng Long), mở đầu kỷ Lê Sơ. Năm 1430 đổi Đông Đô làm Đông Kinh, năm 1446
đổi gọi là phủ Trung Đô. Kinh thành nói chung vẫn như thời Lý- Trần- Hồ và mở thêm về
Tu lieu LS_Tham khao 8
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
phía Đông. Cho đến năm 1459, sau sự biến trong Cấm Thành, Lê Thánh Tôn đã cho dựng
lại Hoàng thành rộng dài thêm 8 dặm nữa. Theo bản đồ vẽ năm 1490 thì trong cùng là toà
thành hình chữ nhật xây gạch gọi là Cấm Thành. Bên trong có các cung điện, thâm nghiêm
nhất là điện Kính Thiên. Bên phải là điện Chí Kính, phía sau là điện Vạn Thọ, đằng trước
là điện Thị Triều. Phía ngoài điện Thị Triều là cửa Đoan Môn, hai bên cửa Đoan Môn là
hai cửa Đông và Tây Tràng An ăn thông ra phía Tây và Đông Hoàng thành nơi có nhà Thái
miếu- nơi thờ tổ tiên nhà vua và Đông cung- nơi Thái tử ở.
Năm 1512 Lê Tương Dực lệnh cho Vũ Như Tô đứng ra trông non xây dựng hơn
100 nóc cung điện có gác và khởi công xây dựng Cửu Trùng Đài. Năm 1514 lại cho mở
rộng Hoàng thành mấy nghìn trượng (mỗi trượng 3,6m) bao bọc cả quán Trấn vũ và chùa
Kim cổ, tường thành chạy từ phía Đông nam đến Tây bắc, chắn ngang sông Tô. Theo lối
vẽ ước lệ của bản đồ thì phỏng đoán rằng mặt phía Đông gần trùng với phố Hàng Cót,
Hàng Điếu, Hàng Da ngày nay. Phía mặt Bắc chạy theo sông Tô, trùng với đường Hoàng
Hoa Thám, mặt phía Tây là đường Bưởi. Mặt Nam có thể là một đoạn phố Cầu Giấy chạy
sang Kim Mã rồi Sơn Tây, Trần Phú tới Hàng Da. Có thể hiểu đây là khu Hoàng thành với
diện tích rộng gấp đôi Hoàng thành thời Lý -Trần. Khu dân cư chia làm hai huyện: Vĩnh
Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường.
Vào thời Lê Sơ, Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất của cả nước.
Đồng thời cũng là nơi dồn tụ nhiều nghành nghề thủ công cũng như các thợ thủ công giỏi
nổi tiếng. Kinh thành được xây dựng lại đàng hoàng hơn, Văn Miếu được mở rộng, Quốc
Tử Giám được dựng lại, các hoạt động kinh tế văn hoá, giáo dục, thi cử đều được khôi
phục và phát triển, đặc biệt cực thịnh dưới thời vua Lê Thánh Tông. Có thể nói đây là thời
kỳ phát triển đỉnh cao của chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Đây cũng là thời kỳ ra
đời của “Tao Đàn Nguyên Suý” với 28 thành viên được ví như 28 vì tinh tú, trong đó Lê
Thánh Tông vượt lên khỏi tầm vóc một nhà chính trị, một nhà vua, ông trở thành một nhà
văn hoá lớn có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học dân tộc. Ông đã
trở thành gương mặt tiêu biểu của văn học Thăng Long thế kỷ XV.
Nhà Lê Sơ tồn tại 99 năm, tổng cộng 10 đời vua từ Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng.
THĂNG LONG THỜI MẠC - LÊ MẠT
Cuối triều Lê bắt đầu từ Lê Uy Mục, chính trường Thăng Long đã diễn ra khá phức
tạp. Vua kém tài thiếu đức, bề tôi mưu đoạt vương quyền, lòng người ly tán, chính trị, xã
hội khủng hoảng sâu sắc. Tham gia vào sự biến loạn chủ yếu là các gương mặt thuộc tầng
lớp vương công, văn võ bá quan, trong đó nổi lên nhân vật Mạc Đăng Dung.
Đến thời Cung Hoàng thì uy thế của Mạc Đăng Dung đã bao trùm hết thảy và thu
phục được lòng ngời. Sử chép về ông như sau: “Từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền
ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung”
(Lê Quý Đôn - Đại Việt thông sử). Qua hoạt động thực tiễn Mạc Đăng Dung đã tỏ ra vượt
trội hơn ngời khác về uy tín và tài năng. Việc phải đến đã đến, Thăng Long một lần nữa
chứng kiến chính biến vương triều nhà Lê chuyển qua nhà Mạc (1527).
Tuy nhiên họ Mạc lập ra một triều đại mới trong bối cảnh đã hình thành nhiều thế
lực quan liêu có quyền lực quân sự lớn nhỏ cho nên lâm ngay vào tình trạng chiến tranh
phân liệt chứ không phải thống nhất xã hội. Với việc phế bỏ nhà Lê, họ Mạc đã mở đầu
cục diện phân tranh. Cuộc Phân này trước tiên diễn ra giữa Tây Đô và Thăng Long, hình
thành nên cái gọi là Bắc triều (thế lực nhà Mạc) và Nam triều (thế lực nhà Trịnh) để rồi sau
Tu lieu LS_Tham khao 9
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
đó chuyển sang cục diện Đàng Trong, Đàng Ngoài, tiền đề cho một Hợp lớn hơn 200 năm
sau.
Bức tranh Thăng Long thời Mạc khá phức tạp, cung điện kho tàng và các phường
phố ở Kinh thành đã nhiều lần bị thiêu đốt, tàn phá. Hoàng thành nhiều năm bị bỏ trống
càng trở nên hoang phế điêu tàn. Cuối năm 1585 Mạc Mậu Hợp trở lại Thăng Long cho tu
sửa lại Hoàng thành để chống lại cuộc tấn công của họ Trịnh. Lần tu sửa này Hoàng thành
đã thu hẹp lại về hai phía Đông và phía Tây, một số cung điện bị bỏ ra ngoài hoàng thành
trở nên hoang phế. Tuy vậy Hoàng Thành thời gian này vẫn rộng hơn Hoàng thành thời Lý
- Trần và rộng hơn tỉnh thành Hà Nội thời Nguyễn.
Năm 1592, Trịnh Tùng con trai của Trịnh Kiểm đã kéo quân vây đánh Đông Đô,
Mạc Mậu Hợp bị giết. Vua Lê Thế Tông được họ Trịnh phò tá trở lại Thăng Long mở đầu
thời kỳ mới và duy nhất trong lịch sử Việt Nam vừa có Vua vừa có Chúa mà lịch sử gọi là
thời Lê Trung Hưng. Sau khi đuổi được họ Mạc ra khỏi Thăng Long, năm 1593 chúa Trịnh
cho sửa sang qua loa lại Hoàng thành để vua Lê ở còn lại tập trung dựng phủ chúa bên
ngoài Hoàng thành. Đây mới cơ quan đầu não đích thực của trung ương thời bấy giờ với
nhiều công trình kiến trúc xa hoa lộng lẫy: lầu Ngũ Long (phía bờ Đông hồ Gươm), đình
Tả Vọng (nay là gò Rùa), cung Thuỵ Khánh (chỗ đảo Ngọc Sơn), Năm 1728 Trịnh Giang
còn cho đào hầm ở phía Nam hồ Gươm để dựng cung điện ngầm dới đất gọi là Thưởng Trì
cung. Khu văn miếu đợc mở rộng thêm thành một khu học xá lớn nhất trong thời phong
kiến bao gồm các điện Đại Thành thờ tiên thánh, nhà giải vũ thờ tiên nho, nhà Thái học
trong đó có trường Quốc Tử Giám. Hai phía Đông và Tây nhà Thái Học dựng nhà bia ghi
danh tiến sĩ và dựng cả khu nhà 150 gian cho học sinh ở tạo thành một nhà học quy mô
chưa từng có trong các thời đại trước. Ngoài ra là hàng loạt các đền chùa có quy mô lớn
cũng được dựng lên trong thời gian này như: chùa Trấn quốc, chùa Tiên Tích, đền bà
Kiệu....
Mặc dù có nhiều biến động về chính trị, xã hội song đây cũng chính là thời kỳ kinh
tế và văn hoá đặc biệt phát triển, hình thành nên những vùng buôn bán khá hưng thịnh.
Chợ phát triễn nhiều, buôn bán sầm uất ở kinh kỳ, Kiến An... Tầng lớp thị dân ngày một
gia tăng, có một số trở thành chủ xưởng, chủ hiệu giàu có, nhưng đông đảo vẫn là người
sản xuất và buôn bán nhỏ. Vì thế Thăng Long không vượt qua đợc mô hình cấu trúc của
thành thị trung đại phương Đông để trở thành “thành thị tự do” như ở phơng Tây. Tuy thế
trong lĩnh vức văn hoá, giáo dục, đây cũng là thời gian thành Thăng Long chứng kiến sự
nở rộ của mặt bằng trí thức. Hàng loạt các tiến sĩ đã thi đỗ, trong đó có một tiến sĩ nữ (Trần
Thị Duệ), có người đã trở thành đại trí thức như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
Khoan... Cùng với những tên tuổi ngời Thăng Long gốc: Đặng Trần Côn, Bùi Huy Bích,
các vị lập nghiệp ở đây như Lê Quý Đôn, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm đã làm cho
văn hoá Thăng Long thêm sáng giá. Đây chính là bước đệm cho sự phục hưng văn hoá ở
các thế kỷ sau.
Đặc biệt đến đầu thế kỷ XVII ở Thăng Long ngày xuất hiện nhiều thương điếm của
ngời châu Âu như Hà Lan, Anh, đặc biệt là các thuyền nhân ngời Hoa sang cư trú và buôn
bán. Tất cả những hoạt động đó đều diễn ra trong một bầu không khí chính trị vần vũ của
những cuộc chiến tranh kéo dài giữa hai thế lực: Chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và Chúa
Nguyễn (Đàng Trong). Cuộc chiến chỉ chấm dứt khi ngời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ nổi
lên tiêu diệt cả hai thế lực, lập lại trật tự vào năm 1786.
THĂNG LONG THỜI TÂY SƠN
Tu lieu LS_Tham khao 10
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra Đàng Ngoài lật đổ chế độ chúa Trịnh.
Ngày 21 -7 - 1786 quân Tây Sơn đã làm chủ Thăng Long. Nền thống trị của họ Trịnh tồn
tại 241 năm (1545 - 1786), trong đó có 194 năm ở Thăng Long bị lật nhào. Bằng chiến
công này, quân Tây Sơn đã kiểm soát cả nước, xoá bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong -
Đàng Ngoài kéo dài hơn 2 thế kỷ. Chính quyền đợc trao lại cho vua Lê, Nguyễn Huệ về
Nam mang theo người con gái Hà thành. Thăng Long tưng bừng chứng kiến một đám cưới
chưa từng có trong lịch sử của công chúa Ngọc Hân và ngời anh hùng áo vải.
Lê Chiêu Thống không điều hành được chính sự, các cánh quân phiệt nổi lên tranh giành
quyền bính, nguyễn Huệ đã phải 2 lần đưa quân ra dẹp loạn.
Cuối năm 1788, Chiêu Thống trốn khỏi Thăng Long, cho người sang cầu cứu nhà
Thanh. Ngày 16/12/1788, 29 vạn quân Thanh hùng hổ tiến vào Đại Việt. Nguyễn Huệ lúc
đó đang ở Phú Xuân nghe tin cấp báo lập tức thần tốc xuất quân tiến ra Bắc hà. Trên
đường tiến quân, để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước và quy tụ nhân tâm, Nguyễn Huệ đã
lên ngôi Hoàng đế, đặt hiệu Quang Trung.
Với tài dùng binh xuất sắc, kết hợp phương thức chiến lược thần tốc, táo bạo ngày
mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), đội quân bách chiến bách thắng của Hoàng đế
Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh. Tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa
do đích thân Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến vào giải phóng Thăng Long. Tuy nhiên,
sau khi quét sạch quân xâm lược nhà Thanh trên đất Bắc hà, vua Quang Trung chỉ để lại
một bộ phận quân đội cũng như quan lại để tiếp quản thành Thăng Long còn rút toàn bộ về
kinh thành Phú Xuân. Thăng Long lúc đó chỉ còn tồn tại với tư cách là một thủ phủ của xứ
Bắc và đợc gọi là Bắc thành mà thôi.
Kể từ triều Tây Sơn, thủ đô của nước ta đặt tại Phú Xuân, nhà Tây Sơn tồn tại đợc
24 năm từ vua Thái Đức đến Cảnh Thịnh.
THĂNG LONG THỜI NGUYỄN
Năm 1802, Nguyễn ánh với sự trợ giúp của Pháp đã tiêu diệt nhà Tây Sơn lên ngôi
Hoàng đế, hiệu Gia Long, đóng đô tại Phú Xuân (tức Huế ngày nay). Từ đấy kinh thành
Thăng Long cũng như toàn miền Bắc phải chịu một sự chuyển đổi lớn: Từ kinh thành hơn
800 năm trở thành trấn thành rồi tỉnh thành. Sự chuyển đổi này có nhiều lý do: thứ nhất
nhà Nguyễn không được lòng nhân sĩ Bắc Hà; thứ hai Phú Xuân (Huế) từng là vùng chịu
ảnh hưởng của thế lực nhà Nguyễn trong mấy trăm năm nên đã đi vào nề nếp. Kinh thành
đã chuyền làm trấn thành nên tên Thăng Long cũng bị đổi từ nghĩa rồng bay sang thành
thịnh vượng.
Để thống trị Bắc kỳ, năm 1805 nhà Nguyễn cho xây lại thành Thăng Long nhỏ hẹp
hơn rất nhiều so với Hoàng thành các thời trước. Thành mới xây phỏng theo kiểu thành
Vauban của Pháp cuối thế kỷ XVII. Thành hình vuông mỗi bề chừng một cây số, chu vi
khoảng 1285 trượng. Tường thành xây bằng gạch hộp, chân thành xây bằng đá xanh, tường
cao 1 trượng 1 thước, dày 4 trượng mở ra 5 cửa: Đông- Tây- Bắc- Đông nam và Tây nam,
ngoài mỗi cửa có một mảnh thành nhỏ gọi là Dương Mã thành để giữ cửa.
Trong thành có nhà Kính Thiên, cột cờ. Trước cột cờ là Hồ Voi, nơi đặt dinh tổng
trấn và các Tào thay mặt các Bộ. Có kho, võ miếu, đàn Xã tắc để tế trời đất, nền Tịch điền
để làm lễ động thổ hàng năm. Có nhà ngục và nơi pháp trường gọi là Trường hình. Mỗi
cửa thành đều có lính đóng, ngoài cửa Nam có Đình Ngang Cấm Chỉ.
Ngoài thành là các doanh trại quân đội sau đó mới đến các phố phờng và khu đồn
thuỷ; lập phố Tràng tiền để đúc tiền kẽm, tiền đồng. Tuy gọi là 36 phố phờng nhưng thực
Tu lieu LS_Tham khao 11
So luoc Lich su Thang Long-Ha Noi
chất thì nhiều hơn. Có những phố chuyên phục vụ cho quan lại như phố Hàng Đào bán tơ
lụa; phố Mã Vĩ bán mũ áo cho các quan chức và phường chèo; phố Hàng Bài làm hài cho
các bà lớn và những người đồng cốt; phố Hàng Bạc bán đồ trang sức; phố Hàng Đàn làm
võng kiệu, long đình... Lại có những phố chuyên bán đồ ăn như phố Hàng Mắm, Hàng
Gạo, Hàng Hành, Hàng Gà, Hàng Khoai, Hàng Rơi, Hàng Bồ... (đều là những phố nằm
trong quận Hoàn Kiếm ngày nay và đợc gọi là khu Phố cổ).
Vòng ngoài của thành Hà Nội có ngoại thành dài 28 dặm 77 trượng 4 thước, chừng
16 cây số; có 16 cửa ô: Kim Liên, An Tự, Thanh Lãng (Thanh nhàn), Nhân Hoà, Tây Long
(chỗ Nhà Hát Lớn), Đông An, Mỹ Lộc, Trưừng Thanh, Đông Hà, Phúc Lâm (Hàng Đậu),
Thạch Khối, An Tĩnh (Yên Thành), An Hoà (Yên Phụ), Tây Hồ (đờng Bởi), Vạn Bảo (Kim
Mã), Thịnh Quang (ô Chợ Dừa). Những cửa ô này chính là nơi thu hút khách thập phương
đổ về làm ăn, vì vậy Thăng Long lúc này mặc dù mất đi chức năng là một kinh đô, song lại
cực kỳ phát triển về kinh tế hàng hoá. Dân tứ trấn Đông, Nam, Đoài, Bắc đều kéo nhau về
Hà Nội làm ăn và tụ tập thành xóm riêng: Phất Lộc, Gia Ngư, Nam Ngư. Những người
cùng làng không ở gần nhau thì vẫn có đình chung để hội họp. Dân nghề thì tập họp nhau
bằng cách hàng năm tế Tiên sư. Điều đó lý giải tại sao giữa lòng Thủ đô Hà Nội ngày nay
vẫn có những ngôi đình: Phù ủng, Lương Ngọc... Các nghề thủ công ở Thăng Long giai
đoạn này đã phát đạt đến mức tinh vi như nghề thêu, nghề khảm. Năm 1831, nhà Nguyễn
lại loại bỏ chức tổng trấn, chỉ để làm một tỉnh lỵ - tỉnh Hà Nội. Thành bị bạt bớt đi, các
công trình văn hoá cũng có những biến đổi: Quốc Tử Giám bị dời vào Huế, nhiều công
trình cung điện bị dỡ mang vật liệu vào xây dựng ở Huế, trường thi Hương thành chốn đàn
ca giải trí. Một số cửa ô được xây dựng lại trong đó có ô Quan Chưởng (1817). Thăng
Long với tư cách một kinh đô thực sự bị loại bỏ trong suốt thời gian 143 năm dưới triều
Nguyễn và thời Pháp thuộc, để rồi lại tưng bừng trong tư thế một Thủ đô cách mạng sau
này.
THĂNG LONG THỜI PHÁP THUỘC
Sau sự kiện Pháp chiếm 3 tỉnh Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hoà, Định Tường),
đầu tháng 11 năm 1873, F.Garnier đem quân tới Hà Nội. 15 ngày sau, sáng ngày
20/11/1873, Y nổ súng. Do triều đình đã chủ hoà nên thành trì không được phòng thủ chắc
chắn, thành Hà Nội thất thủ. Nhưng nhân dân Hà Nội đã không chịu khuất phục, dưới sự
chỉ huy của Nguyễn Tri Phơng đã anh dũng đứng lên kháng Pháp bảo vệ Hà Nội. Ngày
21/12/1873, quân dân Hà Nội kết hợp với quân Cờ Đen khép chặt vòng vây tiêu diệt
Garnier ở trận Cầu Giấy.
Mặc dù tinh thần kháng Pháp anh dũng của nhân dân Hà Nội rất cao, triều đình vẫn
không thay đổi ý định cầu hoà. Kết quả là khu Đồn Thuỷ (khu vực Bảo tàng Lịch sử và
bệnh viện Hữu Nghị hiện nay) đã bị nhường cho Pháp làm Khu nhượng địa. Henri Riviere
được phái đến Hà Nội thay cho Garnier. Tới Hà Nội hắn gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu
(tổng đốc Hà Nội bấy giờ) đòi quân dân ta đầu hàng. Mặc dù không được lệnh của triều
đình Huế, Hoàng Diệu vẫn lãnh đạo quân dân Hà Nội chiến đấu hết sức anh dũng và tuẫn
tiết theo thành. Ngày 19/5/1883 lại một lần nữa quân Pháp bị đại bại tại trận Cầu Giấy.
Trong trận này, trung tá hải quân Henri Riviere tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp
xâm lược Bắc kỳ cùng một số sĩ quan binh lính khác bị giết tại trận. Trong tình hình ấy,
nếu triều đình Huế cho quân viện trợ thì có thể thừa thắng tiêu diệt hết quân Pháp và giải
phóng Hà Nội. Nhưng Tự Đức chỉ hy vọng lấy lại Hà Nội bằng con đường hoà hảo đã ký
Tu lieu LS_Tham khao 12