Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TIÊN PHONG (TPBANK)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.2 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIÊN TRUNG

XỬ LÝ NỢ XẤU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
TIÊN PHONG (TPBANK)
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS.PHẠM THỊ GIANG THU

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất kỳ chương trình nghiên cứu nào trước
đây. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả

NGUYỄN KIÊN TRUNG



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
AMC

: Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản

BTC

: Bộ tài chính

BTNMT

: Bộ Tài nguyên môi trường

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

DATC

: Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam

KHXH

: Khoa học xã hội


HĐQT

: Hội đồng quản trị

HĐTD

: Hợp đồng tín dụng

HĐBĐ

: Hợp đồng bảo đảm

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHCP

: Ngân hàng cổ phần

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TPBank


: Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong

TSBĐ

: Tài sản bảo đảm

THADS

: Thi hành án dân sự

TMCP

: Thương mại cổ phần

VAMC

: Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP
LUẬT XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ................. 5
1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại............ 5
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương
mại ................................................................................................................... 23
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN TẠI TPBANK ........... 29
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM ................................... 29

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý nợ xấu tại TPBank ....................... 43
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 60
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ
VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM ............................................................................................................... 62
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu tại các Ngân hàng
thương mại Việt Nam ...................................................................................... 62
3.2. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật về xử lý nợ xấu
tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam ........................................................ 70
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ngành ngân
hàng đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức cũng như chịu nhiều ảnh
hưởng nhất trong giai đoạn hiện nay.
Trong toàn bộ hệ thống các hoạt động của ngân hàng, hoạt động xử lý
nợ xấu là một trong những hoạt động cơ bản, bên cạnh những hoạt động
truyền thống như hoạt động tín dụng,…Có thể nói trong những năm qua, pháp
luật về ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng
đã và đang được cải thiện. Các văn bản pháp lý được xây dựng và ban hành
tạo một khung pháp lý quan trọng, để từ đó góp phần tạo đà phát triển cho
hoạt động của các NHTM, cũng như thúc đẩy tăng trường kinh tế. Tuy nhiên,
vẫn còn tồn tại không ít những bất cập trong quá trình áp dụng quy định của
pháp luật vào thực tiễn xử lý nợ xấu tại các NHTM. Vì những lý do trên, tác
giả lựa chọn đề tài “Xử lý nợ xấu theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực
tiễn Ngân hàng TMCP Tiên Phong” để thông qua thực tiễn tại Ngân hàng

này đưa ra được những giải pháp nhằm cải thiện và khắc phục những hạn chế
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại là vấn đề được
nhiều tác giả nghiên cứu, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi pháp luật về
ngân hàng nói chung và pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu nói riêng đã và
đang được cải thiện. Có thể kể đến một số luận văn, báo cáo nghiên cứu sau:
- Luận văn “Thực trạng và giải pháp xử lý nợ xấu trong hoạt động tín
dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam” của tác
giả Lê Thị Duyên, năm 2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý
nợ xấu tại Hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Thương
mại cổ phần Ngoại thương nói riêng.
1


- Luận văn “Giải pháp xử lý và ngăn ngừa nợ quá hạn của các ngân
hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Trà Vinh” của tác giả Trần Thị Thắm, năm
2013. Luận văn đã đánh giá thực tiễn nợ xấu của Ngân hàng thương mại trên
địa bàn tỉnh Trà Vinh, đồng thời đưa ra các giải pháp để ngăn ngừa nợ quá hạn.
- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ
thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” của tác
giả Cao Thị Thúy, năm 2015. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động xử lý
nợ xấu của Ngân hàng thương mại từ thực tiến tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại Thương Việt Nam.
- Luận văn “Pháp luật về xử lý nợ quá hạn trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương,
năm 2011. Luận văn đã đánh giá thực tiễn hoạt động cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại tại Việt Nam và các giải pháp để nâng cao chất lượng
của quá trình giải quyết nợ xấu.
- Báo cáo nghiên cứu “Những bài học về xử lý nợ xấu mà Việt Nam có

thể áp dụng từ kinh nghiệm quốc tế” của Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, năm 2017. Báo cáo nghiên cứu về thực tiễn của quá trình giải
quyết nợ xấu tại một số quốc gia và đưa ra những bài học mà Việt Nam có thể
áp dụng.
Như vậy, có thể thấy vấn đề về xử lý nợ xấu đã được nghiên cứu khá
nhiều trong thời gian qua. Tuy nhiên, các nghiên cứu điển hình nêu trên mới
chỉ tiếp cận dưới góc độ thực tiễn, cũng như kinh nghiệm giải quyết và đưa ra
các giải pháp, nhưng chưa tập trung nghiên cứu sâu đối với pháp luật về xử lý
nợ xấu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật Việt
Nam về xử lý nợ xấu của NHTM. Trên cơ sở phân tích thực trạng áp dụng các
quy định đó tại TPBank, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quá trình áp
2


dụng pháp luật liên quan, qua đó đưa ra được các kiến nghị nhằm hoàn thiện
hơn nữa quy định của pháp luật Việt Nam về xử lý nợ xấu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong nội dung nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của NHTM, và cụ thể thực tiễn áp
dụng quy định của pháp luật tại TPBank, phân tích và đưa ra những nội dung
bất cập trong quá trình thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó đưa ra những đề
xuất về giải pháp khắc phục các bất cập đó và hoàn thiện pháp luật về cho vay
của NHTM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về Nhà nước và Pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn đã sử dụng những phương pháp nêu trên đồng

thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu chung của KHXH và các
phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài, gồm:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu để làm sáng tỏ những
quy định của pháp luật liên quan đến các vấn đề lý luận về xử lý nợ xấu của
NHTM.
- Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để khái quát hóa nội dung
nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên hợp lý, dễ
hiểu.
Ngoài ra, luận văn có kế thừa và sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa
học của các tác giả khác làm cơ sở cho kết luận khoa học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả luận văn thể hiện qua một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn đã làm rõ một số vấn đề về xử lý nợ xấu của ngân
hàng thương mại.
3


Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng về pháp luật xử lý nợ xấu hiện
nay; nêu rõ những hạn chế, bất cập về xử lý nợ xấu của NHTM và nguyên
nhân.
Thứ ba, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về
xử lý nợ xấu tại các NHTM.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm nội dung chính như
sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về xử lý nợ xấu và pháp luật xử lý nợ
xấu của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xử lý nợ xấu của ngân hàng thương
mại từ thực tiễn TPBank
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý về xử lý nợ xấu

tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU VÀ PHÁP LUẬT XỬ
LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Những vấn đề chung về xử lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại – Chủ thể nắm giữ và có nhu cầu xử lý
nợ xấu
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Hiện nay, hệ thống ngân hàng có nhiều khái niệm về NHTM như sau:
“Tại Hoa kỳ: NHTM là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
chuyên cung cấp các dịch vụ về tài chính như nhận tiền gửi, chuyển tiền,
thanh toán, cho vay, đầu tư, đổi tiền, mua bán ngoại hối và các dịch vụ khác
liên quan đến tiền như bảo quản, ủy thác, làm đại lý trong nước và quốc tế.
Tại Pháp: Theo đạo luật ngân hàng Pháp năm 1941, NHTM là những
xí nghiệp hay là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng số tiền đó cho chính họ trong các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng và cung
cấp dịch vụ tài chính” [29, tr.3-4]
Tại Việt Nam, có một số khái niệm về NHTM như sau:
“NHTM là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi dưới
nhiều hình thức khác nhau và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch
vụ thanh toán cho các chủ thể trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.
NHTM là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các tổ chức kinh tế, cơ
quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm...cho vay
và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên” [8, tr.4-5]

Mặc dù có nhiều khái niệm về NHTM, nhưng có thể thấy hoạt động kinh
doanh của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các hoạt động khác, gồm:
- Huy động vốn là hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân dưới
5


hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu,...
- Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một
khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một tài sản theo nguyên tắc có
hoàn trả và lãi bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác
cho khách hàng thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng.
- Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: dịch vụ ngân quỹ, dịch
vụ ủy thác, dịch vụ môi giới tiền tệ, dịch vụ kinh doanh ngoại hối, quản lý tài
sản, tư vấn tài chính,... [8, tr.4-5]
1.1.1.2. Phân loại ngân hàng thương mại [28, tr.18-21]
a. Các loại hình NHTM chia theo hình thức sở hữu:
(i). Ngân hàng sở hữu cá nhân:
Là ngân hàng do cá nhân thành lập bằng vốn cá nhân hoặc gia đình.
Loại ngân hàng thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng địa phương, gắn
liền với doanh nghiệp và cá nhân ở địa phương. Tuy nhiên, do kém đa đạng,
nên khi địa phương đó gặp rủi ro (mất mùa,...) ngân hàng thường không tránh
được tổn thất lớn.
(ii) Ngân hàng sở hữu của các cổ đông (ngân hàng cổ phần)
Ngân hàng được thành lập thông qua phát hành các cổ phiếu. Việc
nắm giữ cổ phiếu cho phép người sở hữu có quyền tham gia quyết định các

hoạt động của ngân hàng, hưởng cổ tức từ thu nhập của ngân hàng. NHCP có
khả năng tăng vốn nhanh chóng, vì vậy thường là các ngân hàng lớn. NHCP
thường có phạm vi hoạt động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều chi nhánh

6


hoặc công ty con. Khả năng đa dạng hóa cao nên NHCP có thể giảm rủi ro
song thường phải gánh chịu các rủi ro từ cơ chế quản lý phân quyền.
(iii) Ngân hàng sở hữu Nhà nước:
Đây là loại hình ngân hàng mà vốn sở hữu do Nhà nước cấp, có thể là
nhà nước trung ương hoặc tỉnh, thành phố. Ngân hàng này được thành lập
nhằm thực hiện một số mục tiêu nhất định thường là do chính sách của chính
quyền trung ương hoặc địa phương quy định. Những ngân hàng sở hữu Nhà
nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành giấy
nợ, do vậy rất ít khi bị phá sản.
(iv) Ngân hàng liên doanh
Ngân hàng liên doanh được hình thành dựa trên góp vốn của hai hoặc
nhiều bên, thường là giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài,
hoặc ngân hàng với công ty tài chính để tận dụng ưu thế của nhau.
Như vậy, mục đích khi chia NHTM theo hình thức sở hữu là để phân
biệt được bản chất nắm giữ ngân hàng, từ đó có chính sách áp dụng riêng cho
từng loại ngân hàng, tránh sở hữu chồng chéo lần nhau, dẫn đến tình trạng
việc sử dụng vốn không minh bạch, trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp
các ngân hàng sở hữu vốn chồng chéo lẫn nhau nên nhiều sự việc bất cập đã
xảy ra. Hệ thống ngân hàng có tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn, rủi ro trong
hoạt động ngân hàng có tính lan tỏa rất nhanh. Hoạt động như một hệ thống
các mắt xích liên kết chặt chẽ, chỉ cần một NHTM gặp khó khăn trong hoạt
động, đặc biệt là khó khăn về thanh khoản, là có thể dẫn đến nguy cơ phá sập
hệ thống. Đối với công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế, việc nắm bắt được cơ

chế hoạt động, ảnh hưởng lẫn nhau của các thành phần trong hệ thống tài
chính là một trong những vấn đề cốt yếu, quyết định thành bại.
b. Các loại hình NHTM theo tính chất hoạt động:
(i) Tính chất đơn năng/chuyên doanh

7


Ngân hàng hoạt động theo hướng đơn năng: chỉ tập trung cung cấp một
số dịch vụ ngân hàng ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ bản, hoặc đối
với nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay (không bảo lãnh hoặc cho thuê)...Tính chuyên
môn hóa cao cho phép ngân hàng có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh
thông nghiệp vụ. Ngân hàng đơn năng có thể là ngân hàng nhỏ, phạm vi hoạt
động hẹp, hoặc là những ngân hàng sở hữu của công ty.
(ii) Tính chất đa năng
Là ngân hàng cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Đây
là xu hướng chủ yếu hiện nay của các NHTM. Ngân hàng đa năng thường là
ngân hàng lớn (hoặc sở hữu công ty). Tính đa dạng sẽ giúp ngân hàng và hạn
chế rủi ro.
(iii) Tính chất dịch vụ bán buôn
Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho Chính phủ, các định chế tài chính và
các doanh nghiệp lớn với giá trị dịch vụ lớn.
(iv) Tính chất dịch vụ bán lẻ
Dịch vụ ngân hàng cung cấp cho hàng triệu khách hàng cá nhân, doanh
nghiệp vừa và nhỏ dựa trên việc sử dụng e-banking...
Như vậy, việc chia NHTM theo tính chất hoạt động, cho phép ngân
hàng có định hướng phát triển phù hợp với chính sách, quy mô của mình trên
thị trường, từ đó ngân hàng có thể tập trung khai thác nhóm đối tượng phù
hợp, đối với cơ quan quản lý vĩ mô việc phân tách nêu trên giúp cho việc áp
dụng chính sách đối với từng loại ngân hàng được linh hoạt hơn.

c. Các loại hình NHTM chia theo cơ cấu tổ chức:
(i) Ngân hàng sở hữu công ty
Ngân hàng thường sở hữu các công ty như chứng khoán, mua bán nợ,
bảo hiểm,...Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế ngân hàng tham gia trực
tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất động sản, cho thuê

8


tài chính....nên các ngân hàng lớn đã thành lập, hoặc mua lại công ty hoạt
động trong các lĩnh vực trên nhằm mở rộng hoạt động.
(ii) Ngân hàng thuộc sở hữu công ty
Nhiều tập đoàn kinh tế/tập đoàn tài chính thành lập ngân hàng để đa dạng
và hỗ trợ các hoạt động của tập đoàn. Ngân hàng có thể là sở hữu của các tập đoàn
công nghiệp (ngân hàng công nghiệp), hoặc năng lượng, thương mại,...
(iii) Ngân hàng đơn nhất
Ngân hàng đơn nhất là ngân hàng không có chi nhánh, tức là các dịch
vụ ngân hàng chỉ do một hội sở ngân hàng cung cấp.
(iv) Ngân hàng có chi nhánh
Ngân hàng có chi nhánh là ngân hàng cung cấp dịch vụ ngân hàng
thông qua nhiều đơn vị ngân hàng. Việc thành lập chi nhánh thường bị kiểm
soát chặt chẽ bởi ngân hàng trung ương thông qua các quy định về mức vốn
sở hữu, về chuyên môn đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ ngân hàng
trong vùng...
Như vậy, việc phân loại NHTM theo cơ cấu tổ chức có thể đánh giá
được quy mô của từng loại ngân hàng, định hướng phát triển của ngân hàng
đó. Đối với nhà quản lý vĩ mô, việc phân loại trên sẽ giúp cho việc quản lý và
điều tiết việc phát triển mạng lưới của các ngân hàng được dễ dàng hơn.
1.1.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại [28, tr.8-12]
a. Trung gian tài chính

NHTM là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư dưới hình thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Hai loại
cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời có
nhu cầu chi tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập/hoặc vốn hiện có, vì vậy
phát sinh nhu cầu bổ sung vốn; và (2) các cá nhân và tổ chức có thu nhập/
hoặc vốn hiện tại lớn hơn các khoản chi cho hàng hóa, dịch vụ, vì vậy có tiền
để tiết kiệm. Tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai
9


cùng có lợi. Như vậy lợi nhuận là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa
hai nhóm.
b. Trung gian thanh toán
Khi ngân hàng nhận tiền gửi và cho vay – trung gian tài chính – tất yếu
dẫn đến cơ sở của thanh toán hộ. Trước tiên là thanh toán hộ giữa những
khách hàng có tiền gửi ở cùng một ngân hàng, sau đó mở rộng ra khi hệ thống
thanh toán liên ngân hàng hình thành.
Tiền được chuyển từ tài khoản của khách hàng A tại ngân hàng này
sang tài khoản của khách hàng B tại ngân hàng khác, mở đầu hoặc kết thúc
một quá trình luân chuyển hàng hóa, hoặc quan hệ kinh tế. Để việc thanh toán
nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, thẻ...Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ
thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công
nghệ đó càng được mở rộng.
c. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán, hệ
thống ngân hàng tham gia tạo nên phương tiện thanh toán là tiền ghi sổ. Ban
đầu các ngân hàng đã tạo ra tiền giấy thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng

tiền kim loại đang nắm giữ.
Với nhu cầu có đồng tiên quốc giá duy nhất đã dẫn đến việc Nhà nước
tập trung quyền lực phát hành (in) tiền giấy vào một tổ chức, Bộ tài chính
hoặc là Ngân hàng trung ương, chấm dứt việc các NHTM tạo ra giấy bạc của
riêng mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách
hàng nhận thấy nếu họ có dố dư trên tài khoản tiền gửi thánh toán, họ sẽ chi
trả để có được hàng hóa và các dịch vụ theo yêu cầu. Tiền trên tài khoản tiền
gửi thanh toán tại ngân hàng là phương tiện thanh toán song hành cùng tiền
10


giấy. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ
nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên tài khoản tiền gửi
tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn,...
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm nợ xấu và các yếu tố liên quan đến nợ xấu
của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm nợ xấu
Đối với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ xấu được giải thích là: “Một
khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi
và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán
lãi đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản
thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ
được thực hiện đầy đủ”. Với định nghĩa này, nợ xấu được xác định trên hai
khía cạnh thời gian quá hạn và khả năng trả nợ của khách hàng.
Còn xét trong phạm vi Việt Nam, nợ xấu được định nghĩa theo pháp
luật như sau:
Nợ xấu trong hoạt động tín dụng của NHTM chính là các khoản tiền
mà mà ngân hàng cho khách hàng vay nhưng khi đến hạn thu hồi nợ lại
không thể đòi được do yếu tố chủ quan từ chính phía khách hàng như doanh

nghiệp, tổ chức vay tín dụng làm ăn thua lỗ, phá sản dẫn đến tình trạng mất
khả năng thanh toán khoản nợ đã vay của ngân hàng khi đến kỳ hạn.
Nợ xấu là những khoản nợ được ngân hàng liệt vào nhóm 3 (nhóm dưới
tiêu chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn cao) [24, Đ.3]
1.1.2.2. Đặc điểm cơ bản của nợ xấu
Thứ nhất, Người mắc nợ trốn hoặc mất tích, không còn tài sản để thanh
toán nợ.

11


Thứ hai, những khoản nợ mà chủ nợ không thể liên lạc được với người
mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
Thứ ba, những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,
thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả
nợ.
1.1.2.3. Bản chất của nợ xấu và dấu hiệu nhận biết
Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định
khó có thể thu hồi lại được. Đối với các ngân hàng, nợ xấu là các
khoản tiền cho khách hàng vay mà không thể thu hồi lại được. Các dấu hiệu
của khoản nợ có vấn đề có thể được chia thành các nhóm sau:


Dấu hiệu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng

Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình để cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu
quan trọng gồm: Khó khăn trong thanh toán lương; Sự giảm sút số dư tài
khoản tiền gửi; Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản; Gia tăng
các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán nợ khi đến hạn.

Các hoạt động cho vay như: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; Thanh toán
chậm các khoản nợ gốc và lãi; Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản
phải thu; Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu,…


Dấu hiệu thuộc về quản lý của khách hàng

Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc BĐH. Hệ
thống điều hành luôn bất đồng vì mục đích, quản trị, điều hành độc đoán hoặc
quá phân tán. Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: i) Được
hoạch định bởi HĐQT hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh
nghiệm;… ii) Có các chi phí quản lý bất hợp lí: BĐH hoặc thành viên góp
vốn sử dụng tiền của doanh nghiệp vào mục đích riêng của cá nhân,…


Dấu hiệu từ các thông tin tài chính

12


Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn các
báo cáo tài chính và qua phân tích cho thấy: Sự gia tăng không cân đối về tỷ
lệ nợ thường xuyên; Tăng doanh số nhưng giảm lãi hoặc không có lãi; Các tài
khoản hạch toán vốn lưu động không khớp; Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn
doanh số bán…
Ngoài ra còn có các dấu hiệu phi tài chính khác: Là dấu hiệu mà mắt
thường cán bộ tín dụng có thể nhận biết được như: Những vấn đề về đạo đức;
Sự xuống cấp trông thấy của nơi kinh doanh; Nơi lưu trữ hàng hóa quá nhiều,
hư hỏng, lạc hậu…
1.1.2.3. Phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng nợ xấu

Có rất nhiều tiêu chí phân loại nợ xấu, trên khía cạnh kinh tế, nợ xấu
có thể phân chia thành những nhóm sau:
(i) Căn cứ vào đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng
khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có
quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu thành: Nợ xấu thông thường: đảm bảo
thu hồi đủ 100%; Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần
hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài; Nợ xấu mất trắng: không
có khả năng thu hồi.
(ii) Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành:
- Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ
chế chính sách, ốm đau,...
- Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh
tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình trây ỳ không trả nợ…
- Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách
hàng; đồng tình với những sai phạm của khách hàng.
(iii) Căn cứ việc xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chia nợ xấu
thành:
13


Nợ chưa được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán
nội bảng; Nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng - Nợ hạch toán
ngoại bảng
(iv) Phân loại nợ xấu:
Các TCTD căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh
giá mức độ rủi ro của các khoản vay và cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó
phân loại vào các nhóm nợ thích hợp. Mục đích của việc phân loại trên là
trong trường hợp có khoản nợ được phân loại định lượng bị lọt vào nhóm có
khả năng rủi ro cao (nợ xấu), thì các TCTD cần phải điều chỉnh nhóm nợ cho

phù hợp. Ngoài ra, các TCTD cũng phải phân loại với tài sản có vi phạm
nhóm nợ rủi ro cao, đồng thời phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ để xếp hạng khách hàng vay vốn theo định kỳ, đây cũng chính là cơ sở để
các TCTD cho vay, quản lý chất lượng nợ vay cũng như chính sách dự phòng
rủi ro thích hợp. Bên cạnh đó, còn có phân loại nợ theo phương pháp suy
đoán, khi khách hàng có từ hai khoản vay trở lên tại một hoặc nhiều TCTD
mà có một khoản nợ bất kỳ được xác định là nợ xấu thì toàn bộ các khoản nợ
còn lại cũng được xác định là nợ xấu, mục đích của phương pháp phân loại
này là tránh việc các TCTD không nắm được tình trạng vay nợ của khách
hàng đối với các đơn vị khác, dẫn đến việc đánh giá không chính xác và kịp
thời khả năng trả nợ của khách hàng.
(v) Trích lập dự phòng nợ xấu
Tùy theo tính chất riêng, mỗi khoản nợ sẽ có tỷ lệ trích lập dự phòng
rủi ro theo tỷ lệ nhất định theo quy định của pháp luật, số tiền sự phòng không
thể chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ
thuộc vào giá trị TSBĐ. Thông thường, việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
được thực hiện theo nguyên tắc sử dụng dự phòng cụ thể đối với từng khoản
nợ trước, phát mại TSBĐ để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu phát mại tài sản
không đủ bù đắp thì mới được sử dụng dự phòng chung. Mục đích của việc
14


trích lập dự phòng nợ xấu là làm giảm thiểu những rủi ro về tài chính và bù
đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD khi thiệt hại thực tế xảy ra.
1.1.2.4. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của ngân hàng thương mại
a. Mục đích của việc sử dụng các tiêu chí cơ bản phản ánh nợ xấu của
Ngân hàng thương mại:
Việc đưa ra các chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM sẽ giúp
cho NHTM có các biện pháp phòng ngừa và hạn chế nợ xấu, bên cạnh đó có
các điều chỉnh kịp thời đối với khảu vị cấp tín dụng của ngân hàng đó, cũng

như có biện pháp kiểm soát đối với các khách hàng đặc thù, ngành nghề cho
vay,...Từ đó, có thể đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng, đánh
giá được phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của
bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường, các chỉ
tiêu phản ánh nợ xấu bao gồm: (i) Tổng số nợ xấu; (ii) Tỷ lệ giữa giá trị các
khoản nợ xấu/tổng dư nợ; (iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và Nợ khó đòi/nợ
xấu; (iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu.
b. Nội dung của các chỉ tiêu phản ánh nợ xấu của Ngân hàng thương mại:
(i) Tổng số nợ xấu: đây là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của
toàn bộ khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số
dư nợ đó, nợ không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu
hồi là bao nhiêu. Chỉ tiêu này chỉ giúp ích cho nhà quản lý biết được tỷ trọng
nợ xấu của ngân hàng mình để có những điều chỉnh về chính sách và quản trị
phù hợp nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn. Chỉ số này cho biết mức độ
hoạt động hiệu quả của một ngân hàng trong việc quản lý chất lượng tín dụng.
(ii) Tỷ lệ giữa giá trị các khoản nợ xấu/ tổng dư nợ: chỉ tiêu này phản
ánh mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi ro
của ngân hàng, tỷ lệ này phản ánh cứ một đơn vị đơn vị tiền tệ khi ngân hàng
cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả
năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định khó có
15


khả năng thu hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định.
Tỷ lệ này càng cao thì khả năng rủi ro càng cao. Tuy nhiên, các con số được
sử dụng để tính chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản
ánh một cách chính xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
(iii) Tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: các chỉ số này
phản ánh chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi, tỷ lệ này cho biết chỉ tiêu tương
đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ

tiêu phản ánh khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng.
Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
(iv) Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu hay tỷ lệ bao nợ xấu: tỷ lệ này
cho biết quỹ dự phòng rủi ro có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ
xấu khi chúng chuyển thành các khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này càng cao thì
khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao và ngược lại.
1.1.2.5. Nguyên nhân của nợ xấu
Nguyên nhân phát sinh nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, có thể kể đến như sau:
a. Nguyên nhân khách quan:
(i) Môi trường thiên nhiên
Thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn, mất mùa, dịch bệnh...là những nguyên nhân
khách quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên đã gây ra sự hoạt động
thất bại của khách hàng vay vốn, nhất là các khách hàng kinh doanh trong lĩnh
vực nông nghiệp, dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nguyên nhân này nằm ngoài tầm
kiểm soát và mong muốn của cả NHTM và các khách hàng vay vốn.
(ii) Môi trường kinh tế
Nếu môi trường kinh tế chưa thực sự phát triển, cạnh tranh trên thị
trường chưa thực sự bình đẳng, tốc độ cũng như trình độ phát triển chưa cao
cùng với sự thay đổi liên tục trong các chính sách kinh tế vĩ mô như sự thay
16


đổi về cơ chế lãi suất, tỷ giá...chính sách xuất nhập khẩu, hàng tiêu
dùng...thay đổi quy hoạch xây dựng hạ tầng, thay đổi cơ chế tài chính, cơ chế
sử dụng đất đai...cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp, khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó nó
gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại NHTM.
(iii) Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là nguyên
nhân quan trọng góp phần gây ra nợ xấu. Sự bất cập và chồng chéo của các
luật sẽ khiến cơ quan hữu quan lúng túng trong việc xử lý tranh chấp về tài
sản đảm bảo, các quy định về kế toán kiểm toán chưa đủ sức mạnh thực hiện
sẽ khiến số liệu không đủ cơ sở vững chắc để thẩm định cho vay.
(iv) Cho vay theo chỉ định của chính phủ
Theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch hóa
hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các NHTM quốc doanh bị ràng
buộc bởi chính sách “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng không quan tâm
đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay. Ngoài ra, tại những nước
này, chính quyền trung ương có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích các
ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn cho phép để đạt được những
mục tiêu nhất định đã đề ra.
(v) Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
Năng lực tài chính của khách hàng không tốt ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành, quản lý kinh doanh của
khách hàng vay vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho ngân hàng.
(vi) Đạo đức khách hàng
Một số khách hàng chủ ý thông báo tình hình kinh doanh, nguồn thu
nhập của mình không chính xác, gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín
dụng đã dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ ngân hàng. Hoặc bản thân
17


khách hàng thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay và trả nợ, không quan
tâm đến món nợ đối với ngân hàng mặc dù khách hàng có khả năng tài chính.
Một số khách hàng thì lại có tư tưởng lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tính
toán, lừa đảo, móc ngoặc, sử dụng vốn sai mục đích kiếm lời, vay không có ý
định trả nợ (rủi ro đạo đức).

b. Nguyên nhân chủ quan
Đây là những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân các ngân hàng.
Đó có thể là do một chính hiệu quả sách tín dụng kém, sự lỏng lẻo trong công
tác kiểm tra, giám sát hay các vấn đề liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực
ngân hàng.
(i) Chính sách tín dụng
Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất
sẽ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho
ngân hàng. Mặt khác để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần, nhiều
NHTM đã bỏ qua một số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được
đơn giản hóa, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng. Đây là những
khoản cho vay chất lượng thấp với mức rủi ro cao. Các khoản cho vay này
không được xem xét kỹ lưỡng về khả năng thanh toán của khách hàng và
thường được bảo đảm bởi rất ít hoặc không có giấy tờ chứng minh khả năng
tài chính của người đi vay.
(ii) Công tác tổ chức kiểm tra, kiểm soát
Nhiệm vụ của công tác kiểm tra, kiểm soát là phát hiện sớm những sai
phạm trong hoạt động cho vay đề ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, công tác tổ
chức, kiểm tra, kiểm soát của các NHTM nếu quá yếu kém và lỏng lẻo sẽ dẫn
đến việc phát hiện và xử lý không kịp thời những trường hợp vi phạm, lợi
dụng trong hoạt động cho vay, và nợ xấu phát sinh là điều tất yếu.
(iii) Đạo đức của cán bộ ngân hàng

18


Một bộ phận cán bộ của một số ngân hàng thoái hóa biến chất, lợi
dụng chức vụ quyền hạn, cấu kết với khách hàng để cố ý làm trái các quy
định của pháp luật. Rủi ro đạo đức còn đến từ chính sự lựa chọn, bố trí sử
dụng nhân sự ngân hàng thiếu năng lực, phẩm chất, tư cách đạo đức nghề

nghiệp, dẫn đến sự thông đồng giữa cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng
với khách hàng để che giấu thông tin thật, nâng khống giá trị tài sản thế chấp
và cố tình vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn cho vay, là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá hạn của khách hàng vay vốn.
1.1.2.6. Tác động của nợ xấu đến Ngân hàng thương mại
(i) Nợ xấu xuất hiện đồng nghĩa với việc ngân hàng không thu hồi đủ
vốn bỏ ra cho vay, trong khi chi phí dự phòng tăng lên làm giảm lợi nhuận
ngân hàng, giảm tích lũy để đầu tư mới. Nợ xấu gia tăng có khi còn làm cho
ngân hàng thua lỗ do bị thâm hụt vào nguồn vốn cho vay. Đến một lúc nào
đó, ngân hàng không thể trả cho người gửi tiền khi đến hạn, ngân hàng sẽ lâm
vào tình cảnh mất khả năng thanh toán. Trước tình hình này, ngân hàng buộc
phải đi vay tại các TCTD khác hoặc chịu sự can thiệp của NHNN, hoặc có thể
đi đến phá sản.
(ii) Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tăng cao sẽ làm uy tín của ngân
hàng giảm, dẫn đến việc thu hút nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch mở rộng
sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, tỷ lệ nợ xấu cao còn hạn
chế khả năng cho vay của ngân hàng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả
kinh doanh của ngân hàng.
(iii) Mặt khác, nợ xấu sẽ làm chậm quá trình luân chuyển vốn của các
TCTD, giảm vòng quay vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, mặc dù nhiều ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm
bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio - CAR) nhưng trên bình diện
chung, tỷ lệ CAR này cũng rất khác nhau giữa các ngân hàng và nhóm ngân
hàng. Quan trọng hơn, tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán
19


đúng dự phòng cho các khoản nợ xấu. Lý do là chất lượng tài sản suy giảm
làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó
giảm vốn tự có.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và nội dung xử lý nợ xấu của Ngân hàng
thương mại
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Hiện nay, pháp luật chưa có một văn bản thống nhất về khái niệm “xử
lý nợ của NHTM” mà chỉ đưa ra các quy định để các ngân hàng làm căn cứ để
xử lý nợ xấu bằng việc sử dụng các biện pháp, công cụ như: xử lý TSBĐ, mua
bán nợ, bù đắp bằng quỹ dự phòng và rủi ro tín dụng, sử dụng giải pháp pháp
lý để đòi nợ (khởi kiện), xử lý trách nhiệm với cán bộ để xảy ra nợ xấu,…
Cho nên, hiểu một cách đơn giản, xử lý nợ xấu là quá trình ngân hàng tìm
phương án và tiến hành giải quyết để làm giảm bớt các khoản nợ xấu trên
thực tế, dựa vào các chính sách về nợ xấu đã xây dựng, nhằm đảm bảo mục
tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững của ngân hàng đó.
Qua đó, ta nhận thấy được việc xử lý nợ xấu mang những đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, chủ thể xử lý nợ xấu chủ yếu là NHTM. Hoạt động cho vay
luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ
nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không
chỉ đến hoạt động của các TCTD mà còn tác động đến cả nền kinh tế. NHTM
trước tiên cũng phải tự tìm cách xử lý các khoản nợ xấu của mình, nếu không
thể tự xử lý được có thể bán nợ cho các tổ chức khác, tùy thuộc vào mục tiêu
và chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Thứ hai, đích của việc xử lý nợ xấu là giảm bớt dư nợ tín dụng, duy trì
tỷ lệ nợ xấu phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Nợ xấu quá nhiều sẽ làm cho
nguồn vốn của ngân hàng bị thất thoát nghiêm trọng, đồng thời, ảnh hưởng
đến uy tín về tiềm lực tài chính của ngân hàng bị suy giảm, ảnh hưởng đến
20


toàn bộ hoạt động kinh doanh; tỷ lệ nợ xấu thấp cũng chưa hẳn là tốt. Trên
thực tế, bởi sự hiện hữu của hoạt động tín dụng, không có một tổ chức tài

chính nào không tồn tại nợ xấu và có khả năng giải quyết triệt để được toàn
bộ nợ xấu.
Thứ ba, việc xử lý nợ xấu của NHTM phải tuân theo các chính sách về
nợ xấu mà ngân hàng đã đặt ra. Cụ thể, đối với ngân hàng, chính sách về xử
lý nợ xấu chính là kim chỉ nam cho tất cả những người có trách nhiệm trong
khâu xử lý nợ thực hiện chuyên môn của mình. Theo đó, mọi kế hoạch,
phương án xử lý nợ tồn đọng không được trái hoặc nằm ngoài những chính
sách mà ngân hàng đang áp dụng.
1.1.3.2. Nội dung xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại
Để thực hiện được công tác xử lý nợ được hiệu quả, các NHTM
thường sử dụng phối hợp các biện pháp sau:


Đôn đốc thu hồi nợ

Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ
đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần
quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách
hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để
họ duy trì hoạt động bình thường.


Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp

Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu
hồi, ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Gia hạn nợ: là việc khách hàng được phép kéo dài thêm thời hạn trả
nợ cuối cùng. Đây là phương án giúp khách hàng giảm bớt được áp lực thanh
toán nợ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó có thể phục hồi hoạt động
kinh doanh cũng như thu xếp vốn để trả nợ ngân hàng.

- Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là việc khách hàng được thay đổi thời gian
trả từng phần của khoản nợ hoặc thay đổi số tiền từng kỳ trả nợ đã thỏa thuận
21


×