Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phân cấp quản lý ngân sách địa phương theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.6 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU

PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên nghành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS. ĐINH DŨNG SỸ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CHỮ VIÊT TẮT

DT:



Dự toán

GDP:

Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội

GRDP:

Gross RegionalDomestic Product
Tổng sản phẩm trên địa bàn

GTGT:

Giá trị gia tăng

HĐND:

Hội đồng nhân dân

NSNN:

Ngân sách nhà nước

NSTW:

Ngân sách trung ương

NSĐP:


Ngân sách địa phương

QT:

Quyết toán

TNCN:

Thu nhập cá nhân

TNDN:

Thu nhập doanh nghiệp

UBND:

Ủy ban nhân dân

VAT:

Value Added Tax
Thuế giá trị gia tăng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... .1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG ..................................................... .6
1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách địa phương ................................... .6

1.2. Nội dung cơ bản của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước… ............ ….17
1.3. Mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương
trong phân cấp quản lý ngân sách…………………… ................................... ..21
1.4. Sự cần thiết phải phân cấp quản lý Ngân sách địa phương ..................... .33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG TẠI TỈNH THÁI
NGUYÊN…………………………………… ............................................. …39
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên hiện nay… .................... ..39
2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện thẩm quyền thu ngân sách địa
phương….......................................................................................................... .43
2.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ chi ...................... ..57
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN
SÁCH ĐỊA PHƢƠNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI NGUYÊN ............. 69
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện pháp luật về
phân cấp quản lý ngân sách địa phương…… .................................................. .69
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện phân cấp quản lý ngân
sách địa phương…......................................................................................... …71
KẾT LUẬN… .............................................................................................. …79
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống Tài chính quốc gia, Ngân sách Nhà nước (NSNN) là khâu chủ
đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước. Đồng thời NSNN là công cụ quan trọng để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô đối
với toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia. NSNN được quản
lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm huy động cao nhất mọi nguồn
lực của nền kinh tế - xã hội để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước giải quyết các mối quan hệ giữa trung

ương và địa phương trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến hoạt động của ngân
sách nhà nước; giúp cho việc xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp
quản lý ngân sách, đảm bảo giải quyết kịp thời các nhiệm vụ quản lý của nhà nước.
Tuy nhiên, hiện nay, một tồn tại được quan tâm nhiều trong phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước là sự bất hợp lý của việc phân chia thẩm quyền thu và nhiệm vụ chi
giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, cũng như phân chia thẩm
quyền thu, chi giữa các cấp của ngân sách địa phương: chẳng hạn các khoản thu
ngân sách địa phương được hưởng 100% đa số là các khoản thu có tiềm năng thấp,
còn các khoản thu có tiềm năng cao lại do trung ương thu; hoặc tính thiếu ổn định
của nhiều khoản thu ngân sách địa phương; tính thứ bậc, lồng ghép trong hệ thống
ngân sách; quy định về chi ngân sách đối với một số nhiệm vụ còn chống chéo,
chưa rõ ràng. Điều đó chưa tạo ra sự thúc đẩy cho việc phát triển hài hòa cả kinh tế
và xã hội của các địa phương để thực hiện mục tiêu bảo đảm tính ổn định, công
bằng và bền vững.
Để khắc phục các tồn tại, bất cập của Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) năm
2002, ngày 25/6/2015, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật
Ngân sách nhà nước (sửa đổi). Đây là đạo luật quan trọng tạo bước ngoặt mới trong
quản lý NSNN theo hành lang pháp lý mới đầy đủ và đồng bộ hơn, phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay, xu hướng hội nhập quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến
trình cải cách tài chính công theo hướng hiện đại. Nội dung về phân cấp quản lý

1


NSNN phù hợp với phân cấp kinh tế - xã hội giữa các cấp chính quyền cũng được
rà soát để phù hợp với quy định hiện hành, đồng bộ với Luật Tổ chức chính phủ và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương cũng được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp
thứ 9.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, quản lý NSNN đã
có những đổi mới và mang lại những kết quả bước đầu rất quan trọng. Thực tiễn đời

sống xã hội cũng đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi công tác quản lý ngân
sách phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Hiện nay, tỉnh Thái Nguyên
đã có nhiều đột pháp về thu ngân sách với các dự án lớn như Samsung, dự án đa
kim Núi pháo, Nhiệt điện An Khánh tiếp tục đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế
của tỉnh, đặc biệt là tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu
của tỉnh. Năm 2016 là năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2016-2020 của tỉnh. Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo, giá
cả hàng hóa ở mức thấp đã ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ta nói chung và tỉnh
Thái Nguyên nói riêng. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh; sự nỗ lực của các cấp, ngành, doanh nghiệp và nhân dân, kế
hoạch thu chi ngân sách nhà nước năm 2016 của tỉnh đã đạt được những kết quả
vượt bậc. Về kết quả thực hiện thu ngân sách nhà nước, đến hết ngày 30/12/2016
đạt 9.472 tỷ đồng, dự ước thực hiện thu cả năm đạt 9.550 tỷ đồng, tăng 3.050 tỷ
đồng so với dự toán được giao (vượt 46,9%). Trong đó: Thu nội địa thực hiện được
trên 7.800 tỷ đồng; thu xuất nhập khẩu thực hiện được gần 1.700 tỷ đồng. Nhiều
khoản thu có mức vượt cao từ 67% đến 253% so với dự toán đầu năm như: Thu từ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; thuế thu nhập cá nhân; thu tiền cho thuê
đất; thu tiền sử dụng đất; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn khối huyện… Về tình
hình thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách, thực hiện chi cả năm đạt trên 11 nghìn tỷ
đồng (bằng 134,3% dự toán), trong đó: Chi trong cân đối ngân sách là trên 10 nghìn
tỷ đồng (bằng 137,7% dự toán); chi chương trình mục tiêu quốc gia là 801 tỷ đồng
(bằng 105,8% dự toán)…[17]. Nguồn thu ngân sách so với một số địa phương khác
còn hạn chế trong khi nhu cầu chi đòi hỏi cao, công tác quản lý NSNN nói chung và

2


quản lý chi NSNN nói riêng càng phải được chú trọng để khơi dậy, khai thác nguồn
thu, phân bổ hợp lý đáp ứng yêu cầu chi NSNN nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Phân cấp quản lý ngân sách địa

phương theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Tỉnh Thái Nguyên”. Từ
đó, thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ những mặt được và chưa được của việc quy
định phân cấp quản lý ngân sách địa phương, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới,
phát huy tối đa hiệu quả của ngân sách nhà nước đồng thời phát huy tính chủ động
sáng tạo, tự chủ của chính quyền địa phương trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo
những mục tiêu đã đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phân cấp quản lý ngân sách nhà nước nói chung và phân cấp quản lý
ngân sách địa phương nói riêng là một vấn đề quan trọng, luôn được quan tâm
nghiên cứu:
- Các văn bản quy phạm pháp luật về ngân sách nhà nước và quản lý ngân
sách nhà nước:
Để chuẩn bị các điều kiện thi hành Luật Ngân sách năm 2015, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật ngân sách nhà nước năm 2015; Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã
ban hành một số Thông tư số: 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 163/2016/NĐ-CP;
- Những công trình nghiên cứu liên quan đến phân cấp quản lý ngân sách địa
phương:
+ Thẩm quyền thu, chi của ngân sách địa phương qua thực tiễn thực hiện ở
Thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế của tác giả Vũ Anh Sao
năm 2012)
+ Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay (Luận án Tiến sỹ
Quản lý hành chính công của tác giả Lê Toàn Thắng năm 2013)

3


+Phân định thẩm quyền giữa cơ quan trung ương và chính quyền địa phương

tại Việt Nam hiện nay – Tác giả Nguyễn Văn Cương
+ Phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính quyền địa phườn trong quá
trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam – Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả
Trần Thị Diệu Oanh năm 2012
+ Hoàn thiện cơ chế phân cấp ngân sách của các cấp chính quyền địa phương
ở Việt Nam – Tác giả Phạm Hồng Đức
+ Phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương - Thực trạng và giải pháp –
Tác giả Lê Chi Mai
- Quyết toán và dự toán ngân sách nhà nước của Tỉnh Thái Nguyên từ năm
2014 - 2017. Đây là những tài liệu thực tế rất cụ thể, là nguồn tư liệu quan trọng của
luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Từ phân tích thực trạng phân cấp quản lý ngân sách
của tỉnh Thái Nguyên từ năm 2014 đến năm 2017, luận văn đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện phân cấp quản lý ngân sách địa
phương nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn được triển
khai theo ba nhiệm vụ sau:
+ Thứ nhất: Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về phân cấp quản lý ngân
sách địa phương;
+ Thứ hai: Phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện phân cấp quản
lý ngân sách địa phương tại tỉnh Thái Nguyên;
+ Thứ ba: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện phân
cấp quản lý ngân sách tại tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân cấp quản lý ngân sách địa
phương (từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên)

4



- Phạm vi nghiên cứu: Trong các nội dung của phân cấp quản lý ngân sách,
luận văn chủ yếu tập trung vào phân cấp quản lý thu, chi ngân sách địa phương từ
thực tiễn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2014 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịc sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm,
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp như: tổng
hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu trong thu, chi ngân sách giữa các năm, từ
đó thấy được những thành tựu và hạn chếtrong quy định pháp luật về ngân sách nói
chung và hoạt động phân cấp quản lý ngân sách ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý luận cơ bản về
phân cấp quản lý ngân sách địa phương trong giai đoạn hiện nay; Đánh giá tổng
quát thực trạng phân cấp quản lý ngân sách địa phương (qua thực tiễn tỉnh Thái
Nguyên); Từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy tính tích cực và
hạn chế những tồn tại, bất cập trong phân cấp quản lý ngân sách địa phương.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày gồm 03 chương:
+ Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về phân cấp quản lý ngân sách địa
phương
+ Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện phân cấp quản lý
ngân sách địa phương tại tỉnh Thái Nguyên
+ Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực hiện phân cấp
quản lý ngân sách tại tỉnh Thái Nguyên

5



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH ĐỊA PHƢƠNG
1.1. Khái niệm phân cấp quản lý ngân sách địa phƣơng
Tại Việt Nam, ngân sách nhà nước là nguồn tài chính tập trung quan trọng
nhất trong hệ thống tài chính quốc gia. Quản lý và điều hành ngân sách nhà nước có
tác động chi phối trực tiếp đến các hoạt động khác trong nền kinh tế.
Quản lý ngân sách nhà nước là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền thông qua việc sử dụng các phương pháp và công cụ quản lý thích hợp
để tác động và điều hành hoạt động của ngân sách nhà nước nhằm đạt được các mục
tiêu đã định. Do đó, trong quản lý ngân sách ngân sách nhà nước cũng có sự phân
cấp quản lý. Nói một cách cụ thể hơn, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là quá
trình Nhà nước trung ương phân giao nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định
cho địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước.
Phân cấp quản lý ngân sách là việc xác định phạm vi, trách nhiệm và quyền
hạn của chính quyền các cấp, các đơn vị dự toán ngân sách trong việc quản lý ngân
sách nhà nước phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội [9, tr 10].
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc phân định phạm vi trách nhiệm
và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước ở mỗi cấp trong quá trình quản lý, điều
hành ngân sách nhà nước. Với khái niệm này, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
được hiểu như sau: một là, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước bao gồm thẩm
quyền quyết định về ngân sách và thẩm quyền quản lý ngân sách nhà nước; hai là,
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước tập trung vào phân cấp quyền hạn, trách
nhiệm giữa các cơ quan có liên quan đến thẩm quyền quyết định và thẩm quyền
quản lý ngân sách nhà nước.
Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, ngân sách nhà nước gồm ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương. Trong đó, “Ngân sách trung ương là các
khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp trung ương hưởng và các khoản chi
ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp trung ương” [9, tr 10]; Ngân sách


6


địa phương là các khoản thu ngân sách nhà nước phân cấp cho cấp địa phương
hưởng, thu bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương và các khoản
chi ngân sách nhà nước thuộc nhiệm vụ chi của cấp địa phương [9, tr 9].
Ngân sách địa phương là tên chung chỉ ngân sách của các cấp chính quyền phù
hợp với địa giới hành chính, phù hợp với hiến pháp và pháp luật; là dự toán thu, chi
ngân sách của chính quyền địa phương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong
một thời gian nhát định, đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức năng,
nhiệm cụ của bộ máy nhà nước ở địa phương.
NSĐP thực hiện cân đối các khoản thu và các khoản chi của nhà nước tại địa
phương, cùng ngân sách trung ương thực hiên vai trò của ngân sách nhà nước, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Thông qua việc huy động các khoản
thuế và bố trí chi tiêu ngân sách, NSĐP góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế của địa
phương, định hướng đầu tư, sản xuất kinh doanh trên địa bàn, vùng và lãnh thổ.
NSĐP thường bao gồm ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã. Theo
mô hình chung, ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là một bộ phận của
NSĐP; dự toán thu, chi ngân sách tỉnh được lập theo phân cấp của cơ quan có thẩm
quyền, đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ
máy nhà nước cấp tỉnh. Tương tự như vậy, ngân sách huyện, thị xã hoặc ngân sách
xã là một bộ phận của NSĐP có dự toán thu, chi ngân sách được lập theo phân cấp,
đảm bảo điều kiện vật chất cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà
nước ở cấp huyện hoặc cấp xã.
Quản lý ngân sách địa phương là việc sử dụng những công cụ, biện pháp tổng
hợp để tập trung một phần nguồn tài chính, hình thành quỹ Ngân sách của địa
phương (theo các chức năng thẩm quyền của địa phương được phân định theo các
quy định của pháp luật) và thực hiện phân phối, sử dụng quỹ đó một cách hợp lý, có
hiệu quả nhằm thực hiện các yêu cầu của Nhà nước giao cho địa phương; đạt được

mục tiêu kinh tê, xã hội của địa phương.
Phân cấp quản lý ngân sách địa phương là việc xác định phạm vi, trách nhiệm
của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý, điều hành ngân sách địa phương
Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động thực hiện
những nhiệm vụ chi được giao. Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định việc phân cấp
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách ở địa phương phù hợp với phân cấp
quản lý kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa

7


bàn. Vì vậy, nội dung phân cấp quản lý ngân sách địa phương thực chất là phân chia
thẩm quyền thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách tỉnh, huyện, xã. Trong đó:
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các chủ trương,
biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết định điều chỉnh dự
toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân
sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyền
hạn nêu trên còn được quyền quyết định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng
góp của nhân dân theo quy định của pháp luật.
Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương, dự
toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND cùng cấp quyết định
và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm tra nghị quyết của HĐND cấp
dưới về dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách. Tổ chức thực hiện NSĐP và
báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định. Riêng đối với cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, UBND còn có nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết định việc
thu phí, lệ phí, phụ thu, huy động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc
địa phương quản lý.
Nguồn thu ngân sách địa phương bao gồm:
Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%: Thuế tài nguyên, trừ thuế

tài nguyên thu từ hoạt động thăm dò, khai thác dầu, khí; Thuế môn bài; Thuế sử
dụng đất nông nghiệp; Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Tiền sử dụng đất, trừ thu
tiền sử dụng đất; Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước; Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở
thuộc sở hữu nhà nước; Lệ phí trước bạ; Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; Các
khoản thu hồi vốn của ngân sách địa phương đầu tư tại các tổ chức kinh tế; thu cổ
tức, lợi nhuận được chia tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên có vốn góp của Nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đại diện chủ sở
hữu; thu phần lợi nhuận sau thuế còn lại sau khi trích lập các quỹ của doanh nghiệp
nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đại diện chủ sở hữu; Thu từ quỹ dự trữ tài
chính địa phương; Thu từ bán tài sản nhà nước, kể cả thu tiền sử dụng đất gắn với
tài sản trên đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc địa phương quản lý; Viện trợ
không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước ngoài
trực tiếp cho địa phương; Phí thu từ các hoạt động dịch vụ do các cơ quan nhà nước
địa phương thực hiện, trường hợp được khoán chi phí hoạt động thì được khấu trừ;
các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh
8


nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đại diện chủ sở hữu thì được phép
trích lại một phần hoặc toàn bộ, phần còn lại thực hiện nộp ngân sách theo quy định
của pháp luật về phí, lệ phí và quy định khác của pháp luật có liên quan; Lệ phí do
các cơ quan nhà nước địa phương thực hiện thu; Tiền thu từ xử phạt vi phạm hành
chính, phạt, tịch thu khác theo quy định của pháp luật do các cơ quan nhà nước địa
phương thực hiện; Thu từ tài sản được xác lập quyền sở hữu của Nhà nước do các
cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc địa phương xử lý; Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa
lợi công sản khác; Huy động đóng góp từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật; Thu kết dư ngân sách địa phương; Các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật.
Ngoài ra, nguồn thu NSĐP còn gồm: Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần
trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; Thu bổ sung cân đối

ngân sách, bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương; Thu chuyển nguồn của
ngân sách địa phương từ năm trước chuyển sang.
Về nhiệm vụ chi, NSĐP chi cho những hoạt động sau: Chi đầu tư phát triển;
Chi thường xuyên của các cơ quan, đơn vị ở địa phương; Chi trả nợ lãi các khoản
do chính quyền địa phương vay; Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương; Chi
chuyển nguồn sang năm sau của ngân sách địa phương; Chi bổ sung cân đối ngân sách,
bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới; Chi hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ.
Căn cứ vào nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương, Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân
sách các cấp ở địa phương theo nguyên tắc sau:
Một là, phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp ở địa
phương phải phù hợp với phân cấp nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
đối với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư, trình độ quản lý của từng
vùng, từng địa phương;
Hai là, ngân sách xã, thị trấn được phân chia nguồn thu từ các khoản: thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử
dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất;
Ba là, ngân sách cấp huyện, ngân sách cấp xã không có nhiệm vụ chi nghiên
cứu khoa học và công nghệ;
Bốn là, trong phân cấp nhiệm vụ chi đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải
có nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông công lập các cấp, điện chiếu

9


sáng, cấp thoát nước, giao thông đô thị, vệ sinh đô thị và các công trình phúc lợi
công cộng khác.
Căn cứ vào tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia do Chính phủ
giao và các nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100%, Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách

các cấp ở địa phương.
Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước gồm hai hoạt động cơ bản là phân cấp thu và phân cấp chi ngân sách:
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm phân cấp thu ngân sách địa phương
Thu ngân sách nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của Nhà nước. Khi nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho
hoạt động của mình, Nhà nước đặt ra chế độ thuế khóa huy động sự đóng góp của
người dân để hình thành quỹ tiền tệ, lúc đầu để trang trải các chi tiêu phát sinh trong
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngày nay, Nhà nước còn dùng quỹ
tiền tệ ngân sách nhà nước để chi tiêu cho các khoản phúc lợi xã hội và phát triển
kinh tế.
Phân cấp thu ngân sách thực chất là phân định thẩm quyền khai thác, quản lý,
sử dụng và định đoạt đối với các đối tượng là khách thể của thu nhập công. Ở nhiều
quốc gia, phân cấp thu ngân sách là một trong những phương diện phản ánh sự phân
chia quyền lực tài chính giữa các chủ thể công (phân quyền tài chính giữa các đơn
vị hành chính lãnh thổ). Ở Việt Nam, phân cấp thu ngân sách gắn với sự phân cấp
trong thực hiện quyền lực nhà nước và sự phân cấp trong quản lý tài chính công
giữa các cấp chính quyền. Theo nghĩa này, phân cấp thu ngân sách xuất phát và gắn
với nội dung mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
Nói cách khác, phân cấp thu ngân sách phản ánh các mối quan hệ về quyền hạn và
trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, cũng như
giữa các cấp chính quyền địa phương trên bốn phương diện cơ bản là: thẩm quyền
ban hành pháp luật, chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn thu; thẩm quyền thu
và quản lý các nguồn thu, khoản thu; thẩm quyền thụ thưởng, sử dụng các khoản tài

10


chính thu được và cuối cùng là sự phân định nhiệm vụ giữa các cấp chính quyền

trong thực hiện các thủ tục và chu trình thu các đối tượng là khách thể của thu nhập
công.[8, Tr.92]
Phân cấp thu ngân sách là nội dung vật chất quan trọng của phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước; là việc xác định mỗi cấp ngân sách địa phương được thu
những nguồn thu nào và mức độ tập trung đến đâu. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì việc phân cấp nguồn thu ngân sách nhà nước giữa chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương do Quốc hội quyết định, giữa các cấp chính quyền
trong nội bộ địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Việc
phân định nguồn thu của ngân sách các cấp nhằm làm tăng thêm nguồn lực cho địa
phương, khuyến khích địa phương chăm lo đầu tư phát triển kinh tế xã hội, chống
thất thu, tự cân đối ngân sách địa phương và tăng cường nguồn thu cho ngân sách
nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước có các đặc điểm sau:
- Thu ngân sách nhà nước không thể được tiến hành một cách tùy tiện mà phải
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật.
- Hoạt động thu ngân sách nhà nước nhằm huy động một bộ phận giá trị sản
phẩm xã hội, vì vậy hoạt động này luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất
nước, với mức độ phát triển của nền kinh tế.
- Thu ngân sách nhà nước được thực hiện thông qua hai cơ chế pháp lý điển
hình là bắt buộc và tự nguyện, trong đó cơ chế bắt buộc được xem là chủ yếu.
- Chủ thể tham gia vào hoạt động thu ngân sách nhà nước gồm hai nhóm: chủ
thể đại diện cho nhà nước trong việc thực hiện thẩm quyền thu và chủ thể đóng góp
khoản thu ngân sách theo nghĩa vụ hoặc dựa trên sự tự nguyện.
Các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước:
Thu nhập từ GDP bình quân đầu người là một chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng
trưởng và phát triển của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và
đầu tư của một nước. GDP bình quân đầu người là một nhân tố khách quan quyết
định mức động viên của ngân sách nhà nước. Vì vậy, khi ấn định mức động viên

11



vào ngân sách nhà nước căn cứ vào chỉ tiêu này. Nếu không tính đến chỉ tiêu này
khi xác định mức động viên vào ngân sách nhà nước sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các
vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng, đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các tầng lớp dân cư.
Tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế: phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển
kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn.Đó là nhân tố quyết
định đến việc nâng cao tỷ suất thu ngân sách nhà nước. Dựa vào tỷ suất lợi nhuận
trong nền kinh tế để xác định tỷ suất thu ngân sách nhà nước sẽ tránh được việc
động viên vào ngân sách nhà nước gây khó khăn về tài chính cho hoạt động kinh tế.
Hiện nay tỷ suất lợi nhuận trong nền kinh tế nước ta thấp trong khi chi phí tiền
lương ngày càng tăng nên tỷ suất thu ngân sách không cao.
Khả năng xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ, khoáng sản). Đây
là một nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến số thu ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm của
các nước cho thấy nếu tỷ trọng xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm trên 20%
kim ngạch xuất khẩu thì tỷ suất thu ngân sách nhà nước sẽ cao và có khả năng tăng
nhanh. Ở nước ta trong tương lai, việc xuất khẩu dầu mỏ và khoáng sản chiếm tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Đó là nhân tố ảnh hưởng to lớn đến việc nâng
cao tỷ suất ngân sách nhà nước.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước phụ thuộc vào các yếu tố:
quy mô tổ chức của bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của bộ máy đó; những
nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà nhà nước đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử; chính
sách sử dụng kinh phí của nhà nước (trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi
phí nhà nước không có khả năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của Nhà nước
sẽ dẫn đến tỷ suất thu ngân sách nhà nước tăng lên). Ở hầu hết các nước đang phát
triển, Nhà nước đều có tham vọng đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế bằng việc đầu
tư vào các công trình lớn mà để có nguồn vồn phải tăng thu. Nhưng trong thực tế
tăng thu quá mức lại làm tốc độ tăng trưởng chậm lại. Để giải quyết vấn đề đó, Nhà
nước phải có một chương trình phát triển kinh tế - xã hội một cách thận trọng trên
cơ sở khoa học thực tiễn để đạt hiệu quả cao, từ đó xác lập một chính sách chi tiêu

hiệu quả và tiết kiệm; tổ chức bộ máy thu nộp (tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt

12


hiệu quả cao, chống thất thu do trốn thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu
ngân sách nhà nước mà vẫn thỏa mãn được nhu càu chi tiêu của ngân sách nhà nước).
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm phân cấp chi ngân sách địa phương
Chi ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn
nhất của Nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện chức năng nhà nước về mọi
mặt theo những nguyên tắc nhất định. Chi ngân sách nhà nước là sự phối hợp giữa
hai quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước. Theo đó:
Quá trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước để
hình thành các loại quỹ trước khi đem vào sử dụng.
Quá trình sử dụng là trực tiếp chỉ dùng khoản tiền cấp phát từ ngân sách nhà
nước mà không trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Ví
dụ: chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chương trình kinh tế.
Phân cấp nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương là việc xác định nhiệm vụ
chi cụ thể cho từng cấp ngân sách. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc
phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương do Quốc hội quyết định, giữa các cấp chính quyền trong nội bộ
địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp Tỉnh. Chi ngân sách nhà
nước đa dạng, điều này xuất phát từ vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm các
khoản chi và tỷ trọng của chúng, được hiểu là cơ cấu chi ngân sách nhà nước. Nhằm
phân tích đánh giá việc quản lý và định hướng các khoản chi cần tiến hành phân
loại chi ngân sách nhà nước có cùng tính chất, cùng mục đích hình thành các loại
chi. Việc này có vai trò quan trọng trong phục vụ quá trình hoạch định chính sách
và phân bổ ngân sách giữa các lĩnh vực; đảm bảo trách nhiệm của cơ quan nhà nước
trong việc quản lý ngân sách. Nó giúp cho quá trình phân tích kinh tế và quản lý

thực hiện ngân sách hàng ngày được thuận lợi cũng như định hướng chi ngân sách
trong tương lai.
Hoạt động chi ngân sách nhà nước có các đặc điểm sau:

13


- Chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế
hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước
quyết định.
- Chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu tài chính cho sự
vận hành của bộ máy nhà nước. Sự tồn tại của bộ máy nhà nước tất yếu phát sinh chi
phí để duy trì bộ máy, để thực hiện chức năng, nhiệm vụ vốn có của Nhà nước.
Không có các khoản chi của ngân sách nhà nước, Nhà nước không thể tồn tại và phát
triển với tư cách là bộ máy quản lý mọi hiệu quả kinh tế, chính trị của xã hội. Nhà
nước thông qua hoạt động chi ngân sách nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
cho các doanh nghiệp bằng cách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện phát
triển kinh tế thị trường có định hướng Nhà nước; đảm bảo những cân đối lớn trong
nền kinh tế, đảm bảo việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tiết kiệm và hiệu quả.
Trong một chừng mực nhất định, chi ngân sách được coi là “cái van” tài chính
của Nhà nước để góp phần điều chỉnh sự tăng trưởng, việc làm, lạm phát. Để cho việc
chi tiêu ngân sách Nhà nước có hiệu quả, thực sự trở thành “cái van” điều chỉnh góp
phần ổn định nền kinh tế, điều cần thiết Nhà nước phải có: các chương trình chi tiêu
công cộng thực tế phù hợp với diễn biến các giai đoạn chu trình kinh doanh; đưa ra
những dự án công cộng về giải quyết công ăn, việc làm thích ứng với từng giai đoạn
của chu trình kinh doanh; lập ra các chương trình chuyển khoản chi tiêu.
- Chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể:
nhóm chủ thể đại diện cho nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các
khoản chi ngân sách nhà nước; nhóm chủ thể sử dụng ngân sách.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới phân cấp quản lý ngân sách địa phương

Các nhân tố ảnh hưởng tới phân cấp quản lý ngân sách địa phương gồm năm
nhân tố: Bối cảnh và xu thế phát triển kinh tế xã hội ở địa phương; Tính chất cung
cấp hàng hoá công cộng; Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các cấp chính
quyền ở địa phương; Mức độ phân cấp về quản lý hành chính – kinh tế – xã hội
giữa các cấp chính quyền; Sự cần thiết phải phân cấp quản lý NSNN.
Thứ nhất: Bổi cảnh và xu thế phát triển kinh tế xã hội ở địa phương

14


Trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương không có sự
biến động lớn thì nguồn thu, nhiệm vụ chi NSNN ổn định. Khi nền kinh tế, chính trị
xã hội bất ổn định thì nguồn thu NSNN trên địa bàn bị ảnh hưởng, nhiệm vụ chi cho
phát triển kinh tế, chi cho đảm bảo an ninh quốc phòng và giải quyết các vấn đề xã
hội phải thay đổi theo chiều hướng khác. Khi nền kinh tế càng phát triển khả năng
tích luỹ của nền kinh tế càng lớn, khả năng chi cho đầu tư phát triển càng cao. Như
vậy cơ chế phân cấp quản lý NSNN cũng vì thế mà phải thay đổi cho phù hợp.
Trong điều kiện hiện nay, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá nền
kinh tế thế giới đang là nhân tố ảnh hưởng lớn đến phân cấp quản lý NSNN ở mỗi
quốc gia, mỗi địa phương. Bởi lẽ, sự tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế đã làm thay đổi chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong thời kỳ mới.
Trong thời kỳ hội nhập, Nhà nước không can thiệp sâu sắc và trực tiếp vào nền kinh
tế mà chỉ đóng vai trò là người cầm cân nảy mực, tạo môi trường hành lang pháp lý
cho nền kinh tế ở tầm vĩ mô, việc đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế bằng nguồn vốn
NSNN chỉ tập trung ở những khâu trọng yếu không có khả năng thu hồi vốn và đáp
ứng các nhu cầu phúc lợi xã hội. Vì vậy đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới
phân cấp quản lý NSNN.
Thứ hai: Tính chất cung cấp hàng hoá công cộng ở địa phương
Hàng hoá công cộng được hiểu là các hàng hoá, dịch vụ mà việc sử dụng nó
của các chủ thể này không làm cản trở tới việc sử dụng của các chủ thể khác. Có thể

nói đó là các hàng hoá mà tất cả mọi người đều có thể sử dụng và lợi ích từ việc sử
dụng đó đối với bất kỳ chủ thể nào cũng hoàn toàn độc lập với các chủ thể khác
cùng sử dụng.
Trong quản lý hành chính nhà nước, chính quyền nhà nước các cấp vừa phải
đảm bảo chức năng quản lý vừa phải đảm bảo chức năng cung cấp các dịch vụ công
cộng cho xã hội. Phần lớn các hàng hoá công cộng đều được cung cấp bởi khu vực
công (chính quyền nhà nước ở trung ương và địa phương).
Đây là yếu tố căn bản khi phân giao quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp
trong bộ máy chính quyền trung ương và địa phương trong việc cung cấp hàng hoá

15


công cộng. Điều kiện vật chất để thực thi nhiệm vụ đòi hỏi phải được phân chia
nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Đây chính là tiền đề để phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi cho từng cấp chính quyền địa phương.
Thứ ba: Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các cấp chính quyền ở địa phương
Đây là một nhân tố có tính đặc thù mà cần được quan tâm. Tính đặc thù đó
thường được biểu hiện ở những đặc điểm tự nhiên về địa hình (như miền núi, vùng
đồng bằng, đô thị), vùng có tài nguyên, có địa thế đặc biệt hay có điệu kiện xã hội
đặc biệt (như lợi thế trong phát triển du lịch dịch vụ, phát triển khu cụm công
nghiệp, dầu mỏ, khoảng sản…) hoặc có điều kiện xã hội đặc biệt (như dân tộc, tôn
giáo, trình độ dân trí, điểm nóng về chính trị…). Ở những vùng, địa phương này có
thể coi là một đối tượng đặc biệt của cơ chế phân cấp dẫn tới những nội dung phân
cấp đặc thù cho phù hợp.
Sự đa dạng về mặt xã hội tạo ra sự khác biệt về nhu cầu, sở thích đối với hàng
hoá dịch vụ công do mức thu nhập tạo ra, sự đa dạng về về văn hoá, xã hội, chủng
tộc cũng là những nguyên nhân đứng sau sự khác biệt này. Khi sự khác biệt nảy
sinh thì đòi hỏi cơ chế phân cấp phù hợp sẽ mang lại hiệu quả hơn.
Thứ tư: Mức độ phân cấp về quản lý hành chính – kinh tế – xã hội giữa các

cấp chính quyền
Việc tổ chức bộ máy nhà nước theo các đơn vị hành chính lãnh thổ nảy sinh
yêu cầu hình thành những cấp ngân sách nhà nước tương ứng với từng cấp hành
chính đó. Tuy nhiên đây mới chỉ là điều kiện cần, bởi vì có nhiều cách khác nhau
trong việc chuyển giao một bộ phận trong tổng thể các nguồn tài chính cho việc
thực hiện các nhiệm vụ của mỗi đơn vị hành chính. Chẳng hạn, có thể giao một số
quyền lực huy động nguồn thu trên địa bàn, hoặc cho phép toàn quyền quyết định
mọi vấn đề thu, chi hay thực hiện việc chuyển giao kinh phí đảm bảo theo nhu cầu
thực tế phát sinh.
Những cách thức chuyển giao đó không thể diễn ra một cách tuỳ tiện mà nó
phụ thuộc vào mức độ phân cấp về quản lý hành chính – kinh tế – xã hội giữa các
cấp chính quyền nhà nước.

16


1.2. Nội dung cơ bản của phân cấp quản lý ngân sách nhà nƣớc
Quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong phân
chia các khoản thu nhập công là một trong những nội dung chủ yếu và quan trọng
của phân quyền tài chính và phân cấp quản lý ngân sách. Thực tế ở Việt Nam, phân
cấp quản lý ngân sách nhà nước được xem xét trên bốn nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, phân cấp về thẩm quyền lập pháp và lập quy trong phân cấp thu,
chi ngân sách.
Ở đây diễn ra sự phân chia thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước trung ương
và địa phương trong xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật về thu nhập công
và điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình phân cấp thu, chi ngân sách,
trong đó có cả việc quyết định đơn vị hành chính – lãnh thổ nào được thu nguồn thu
nào, thuế suất các loại thuế… Giải quyết mối quan hệ này tức là làm rõ thẩm quyền
lập pháp của chính quyền trung ương trong việc ban hành pháp luật áp dụng chung
cho lĩnh vực tài chính công trong phạm vi cả nước và thẩm quyền lập quy của chính

quyền địa phương trong việc ban hành chính sách, chế độ về thu, chi tài chính công
áp dụng ở địa phương. Ở nước ta, thẩm quyền lập pháp trong phân cấp thu, chi ngân
sách thuộc về chính quyền trung ương. Theo đó, Quốc hội có thẩm quyền ban hành
các đạo luật về ngân sách, tài chính công, quản lý thuế, nợ công, các quỹ tài chính
công… Chính phủ và các bộ, trước hết là Bộ Tài chính ban hành các văn bản dưới
luật cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành các đạo luật do Quốc hội ban hành. Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền ban hành một số văn bản quy định việc thu
một số loại phí, lệ phí trong phạm vi chính quyền trung ương phân cấp. Như vậy,
trong phân cấp thu, chi ngân sách theo nghĩa rộng nhất, chính quyền địa phương
không có thẩm quyền lập pháp và lập quy.
Thứ hai, phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước cho từng cấp
ngân sách trong hệ thống ngân sách nhà nước là nội dung quan trọng của các quy
định về phân cấp quản lý nhà nước. Cụ thể đó là việc xác định ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương được thu những khoản nào và thực hiện những

17


nhiệm vụ chi cụ thể nào trong trong quá trình quản lý. Phân cấp quản lý nguồn thu
và nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước là vấn đề phức tạp và khó khăn nhất khi tiến
hành phân cấp quản lý ngân sách nhà nước. Sự khó khăn này bắt nguồn từ sự phát
triển không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội giữa các vùng miền.
Về phân cấp quản lý nguồn thu: Thông thường trung ương được phân cấp
quản lý các nguồn thu ngân sách lớn, những khoản thu có tính chất tập trung quan
trọng không gắn trực tiếp với công tác quản lý nhà nước tại địa phương như: thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thu từ dầu thô, thuế thu nhập doanh nghiệp do trung
ương quản lý…; Địa phương được phân cấp nguồn thu ngân sách gắn trực tiếp với
công tác quản lý của địa phương như: thuế nhà, thuế đất, thuế môn bài, thuế thu

nhập cá nhân, một số phí…
Về phân cấp quản lý chi ngân sách: Trung ương phải thực hiện nhiệm vụ chi
ngân sách cho các hoạt động có tính chất chiến lược, quan trọng của quốc gia như:
chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chi cho quốc phòng, an ninh, chi cho giáo
dục, y tế, chi an sinh xã hội… và chi hỗ trợ các địa phuwong chưa cân đối được
ngân sách; Địa phương thực hiện chi ngân sách chủ yếu gắn liền với việc thực hiện
nhiệm vụ quản lý kinh tê – xã hội, quốc phòng an ninh do địa phương trực tiếp quản
lý.Việc thực hiện phân cấp quản lý ngân sách trong điều kiện tự nhiên, xã hội và
trình độ quản lý khác nhau là động lực quan trọng cho các địa phương phát huy khả
năng góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong qúa trình phân cấp quản lý nguồn thu và nhiệm vụ chi ngân sách nhà
nước thì ngân sách Trung ương thực hiện bổ sungcho ngân sách địa phương qua hai
hình thức là bổ sung cân đối ngân sách và bổ sung ngân sách có mục tiêu.
Khi nguồn thu ngân sách của địa phương không đủ đáp ứng nhu cầu chi ngân
sách của địa phương đó thì ngân sách trung ương sẽ thực hiện việc cấp bổ sung
ngân sách cho ngân sách địa phương hoặc khi ngân sách trung ương thực hiện một
số chính sách nào đó của quốc gia thì sẽ có sự bổ sung ngân sách từ trung ương cho
địa phương.

18


Đối với phân cấp thu nhập công, ngoài các nguồn thu chính quyền địa phương
được hưởng 100%, các khoản thu từ sự phân chia theo tỷ lệ % giữa chính quyền địa
phương với chính quyền trung ương, các khoản bổ sung do chính quyền trung ương
chuyển xuống để cân đối ngân sách địa phương còn dược nhận các khoản chuyển
giao tài chính từ chính quyền trung ương để thực hiện các nhiệm vụ do chính quyền
trung ương chuyển giao hoặc ủy quyền thực hiện. Các khoản tài chính được chuyển
giao từ chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương để thực hiện các nhiệm
vụ do chính quyền trung ương chuyển giao hoặc ủy quyền thực hiện khác với các

khoản thu nhập công khác của chính quyền địa phương ở chỗ, các khoản tài chính
được chuyển giao theo cách thức này là thu nhập công của chính quyền trung ương.
Thứ tư, phân cấp quản lý trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách nhà nước
Phân cấp ngân sách nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa các cấp ngân sách
trong một chu trình ngân sách nhà nước bao gồm các giai đoạn: chuẩn bị ngân sách,
lập ngân sách, duyệt và thông qua ngân sách, chấp hành ngân sách, quyết toán ngân
sách, thanh tra, kiểm tra ngân sách. Trong mối quan hệ này, thẩm quyền cụ thể của
các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, địa phương và các cơ quan chuyên môn
là thể hiện tính chất phân cấp quản lý ngân sách trong toàn bộ hệ thống ngân sách
nhà nước.
Phân cấp quản lý trong thực hiện chu trình ngân sách nhà nước được thể hiện
trong ba giai đoạn của chu trình ngân sách nhà nước, đó là
- Giai đoạn lập dự toán ngân sách nhà nước: bao gồm giai đoạn chuẩn bị lập
dự toán ngân sách nhà nước (công việc này liên quan đến thẩm quyền của Chính
phủ và UBND ở địa phương) và giai đoạn thẩm tra, xem xét, thảo luận, quyết định
phê chuẩn dự toán và phân bổ ngân sách nhà nước (liên quan đến thẩm quyền của
Quốc hội và HĐND ở địa phương).
- Giai đoạn chấp hành ngân sách: bao gồm từ việc tổ chức thu ngân sách, tổ
chức chi ngân sách, cấp phát kinh phí đến các công việc kiểm tra, giám sát, việc
chấp hành ngân sách (liên quan đến thẩm quyền của Chính phủ và UBND địa
phương).

19


- Giai đoạn quyết toán ngân sách nhà nước: bao gồm các công việc ghi chép sổ
sách, công tác kế toán, kiểm toán thu chi ngân sách sau khi dự toán ngân sách đã
được thực hiện trong thực tế (liên quan đến thẩm quyền của các cơ quan ở trung
ương là Quốc hội, Chính phủ, kiểm toán nhà nước và các cơ quan ở địa phương là
HĐND và UBND tỉnh).

Các giai đoạn của chu trình ngân sách nhà nước nói trên gắn liền với các
quyền quyết định, quyền quản lý, quyền kiểm tra, giám syên
không được chứa hết khoản thu từ lệ phí, phí vì ngân sách nhà nước hàng năm cón
phải dành một phần thu từ thuế và phí cho đầu tư phát triển. Thuộc về chi thường
xuyên bao gồm các nhóm: chi thanh toán tiền công, tiền lương, chi sự nghiệp
chuyên môn, chi hàng hóa dịch vụ, chi mua sắm sửa chữa các khoản chi khác.
Nhóm chi đầu tư phát triển là những khoản chi có thời hạn tác động dài, thường trên
một năm, hình thành nên những tài sản vật chất có khả năng tạo nguồn thu, trực tiếp

57


làm tăng cơ sở vật chất của đất nước bao gồm các khoản chi làm tăng cơ sở vật chất
của đất nước và góp phần tăng trưởng kinh tế. Nó là các khoản mang tính chất tích
lũy như chi đầu tư cơ sở hạ tầng, chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước, chi các dự án,
chương trình dự án của Nhà nước. Chi khác bao gồm các khoản chi còn lại không
được xếp vào nhóm trên như chi trả nợ gốc và lãi, chi viện trợ, chi cho vay, chi bổ
sung quỹ dự trữ tài chính, chi bổ sung ngân sách cấp dưới, chi chuyển nguồn từ
ngân sách năm trước sang năm sau.
Bảng 2.5: Thống kê các khoản chi ngân sách của tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2014 – 2017 (Đơn vị tính: Triệu đồng)
QT 2014
QT 2015
QT 2016
DT 2017
Nội dung chi
Chi đầu tư phát triển
1.697.405 2.500.120 3.252.362 1.642.580
Chi thường xuyên
5.881.662 6.315.330 6.781.459 6.973.496

Chi trả nợ gốc và lãi các khoản
tiền huy động cho đầu tư
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 1.000
1.000
1.000
1.000
của cấp tỉnh
Chi bổ sung cho ngân sách cấp 3.657.943 4.193.590 4.723.027
dưới
Nguồn tài liệu: Quyết toán và dự toán chi ngân sách của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2014 - 2017
2.3.1. Chi đầu tư phát triển
Bảng 2.6: Thống kê các khoản chi đầu tƣ phát triển của tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2014 – 2017 (Đơn vị tính: Triệu đồng)
Nội dung chi

QT 2014

QT 2015

QT 2016

DT 2017

460.616

1.371.446

1.593.579


650.210

1.000.251

1.026.587

1.549.624

732.000

Hỗ trợ các doanh nghiệp theo chế độ

6.000

5.5000

7.000

6.000

Các khoản chi khác theo quy định

230.538

96.587

102.159

254.370


Đầu tư xây dựng cơ bản tập trung
Đầu tư từ nguồn thu tiền đất

của pháp luật
Nguồn tài liệu: Quyết toán và dự toán chi ngân sách của tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2014 - 2017

58


×