Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA SINH VIÊN SAU KHI TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (Nghiên cứu trường hợp sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.38 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN KHÁNH DUY

THỰC TRẠNG VIỆC LÀM
CỦA SINH VIÊN SAU KHI TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
(Nghiên cứu trường hợp sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)

LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

NGUYỄN KHÁNH DUY

THỰC TRẠNG VIỆC LÀM
CỦA SINH VIÊN SAU KHI TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
(Nghiên cứu trường hợp sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)

Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Xã hội học
Mã ngành: 60310301



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa

Hà Nội - 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 2
1.

Lý do chọn đề tài................................................................................................2

2.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài........................................................5

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................15

3.1.

Mục đích nghiên cứu........................................................................................15

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................16

4.


Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.....................................................16

5.

Câu hỏi nghiên cứu..........................................................................................16

6.

Giả thuyết nghiên cứu......................................................................................16

7.

Phương pháp thu thập thông tin.....................................................................17

NỘI DUNG CHÍNH...................................................................................................19
1.

Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài..................................19
1.1. Những khái niệm công cụ.............................................................................19
1.2. Các lý thuyết áp dụng...................................................................................25
1.3. Quan điểm của Nhà nước Việt Nam đương đại về định hướng phát triển
nghề Công tác xã hội hiện nay...............................................................................30
1.4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu................................................................32

2.

Chương 2: Thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành

Công tác xã hội trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội......................................................................................................................... 33

2.1. Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm...........................................................33
2.2. Thời điểm có việc làm của sinh viên............................................................35
2.3. Sự phù hợp với công việc hiện tại và chuyên môn được đào tạo...............39
2.4. Môi trường làm việc của sinh viên tốt nghiệp.............................................44
2.5. Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp...............................................................48
2.6. Di động nghề nghiệp của sinh viên tốt nghiệp.............................................52

1


3.

Chương 3: Các yếu tố tác động đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh

viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.........................................................................56
3.1. Ảnh hưởng của việc đi làm thêm trong quá trình học tập đến việc tham
gia vào các môi trường làm việc............................................................................56
3.2. Ảnh hưởng của yếu tố nguồn thông tin tìm kiếm việc làm của SVTN......65
3.3. Ảnh hưởng của yếu tố nguồn hỗ trợ trong quá trình tìm kiếm việc làm của
SVTN....................................................................................................................... 68
3.4. Một số yếu tố khác tác động vào quá trình tìm kiếm việc làm của SVTN...
........................................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................76
PHỤ LỤC.................................................................................................................... 80

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việc làm sau khi tốt nghiệp luôn là vấn đề lo lắng không chỉ đối với bản thân
sinh viên mà cả đối với gia đình, nhà trường và xã hội. Có một việc làm đúng với
ngành nghề đào tạo luôn là mơ ước của hầu hết không chỉ đối với các sinh viên tốt
nghiệp ra trường mà ngay cả đối với các em còn ngồi trên ghế giảng đường đại học.
Trong thời gian gần đây, việc làm trở nên khó tìm do nhiều nguyên nhân, trong
đó có tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh có nhiều khó khăn, nhu cầu tuyển dụng
lao động bị thu hẹp. Đối với các cơ quan, tổ chức Nhà nước, nhu cầu tuyển dụng công
chức, viên chức ngày càng có yêu cầu cao hơn về chất lượng và có nơi thừa về số
lượng. Không chỉ đối với các trường đại học ngoài công lập, ngay cả các trường đại
học công lập có danh tiếng, không phải mọi sinh viên tốt nghiệp ra trường đều có việc
làm. Một nguyên nhân khác, việc có thêm nhiều cơ sở đào tạo (Trường cao đẳng, đại
học) ra đời dẫn đến số lượng sinh viên được đào tạo ở cùng một ngành, chuyên ngành
ngày càng nhiều, cung vượt cầu. Về chủ quan, việc có được việc làm hay không, liên
quan rất nhiều đến phẩm chất, năng lực, trình độ, kỹ năng của người được đào tạo.
Thực tế cho thấy, số lượng ứng viên đăng ký dự tuyển hàng năm để tìm việc làm khá
đông, song kết quả số người đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất hạn chế.
Trước những thách thức nêu trên, đòi hỏi các cơ sở đào tạo và bản thân người học (sinh
viên) phải có cách nhìn nhận mới về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp ra trường.
Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 của Chính phủ đã xác dịnh mục tiêu
đào tạo của giáo dục đại học là: “Đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư
duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại
ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng
thích ứng với những biến động của thị trường lao động...”. (Số 711/QĐ-TTg: Quyết
định phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”)
Kết quả đạt được là quan trọng, song chưa vững chắc và chưa đạt được yêu cầu
như mong muốn. Vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa có việc làm mà trong đó có
nguyên nhân là do các em chưa đạt yêu cầu về chuẩn đầu ra, nhất là về ngoại ngữ, tin
học; mặt khác khả năng tự tạo việc làm, sự năng động, thích ứng của sinh viên với yêu
3



cầu của nhà tuyển dụng cũng còn hạn chế, tất nhiên không loại trừ yếu tố khách quan
do nhu cầu tuyển dụng lao động không nhiều.
Để khắc phục được những hạn chế đó, nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ra
trường có việc làm đúng ngành nghề đào tạo đạt 80% trở lên như mục tiêu của nhà
trường đề ra đòi hỏi sự nỗ lực hơn nữa của nhà trường và bản thân các em sinh viên
đang học tại trường.
Công tác xã hội trên thế giới đã là chuyên ngành rất phổ biến với lịch sử hình
thành và phát triển hàng trăm năm. Ở Việt Nam, Công tác xã hội tuy vẫn còn là những
ngành khoa học còn khá non trẻ nhưng cũng đã phần nào nhận được sự quan tâm của
xã hội. Hiện nay ở Việt Nam có khá nhiều trường đại học, cao đẳng có uy tín đào tạo
về chuyên ngành này như Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viên Báo chí tuyên truyền, Đại học
Công đoàn, Đại học Lao động – Xã hội…
Mỗi năm, có hàng ngàn sinh viên Công tác xã hội tốt nghiệp ra trường. Một số
trong số họ đã tìm được những công viêc phù hợp với chuyên ngành mình đào tạo. Tuy
nhiên cũng có không ít những sinh viên sau khi tốt nghiệp còn phải làm những công
việc không đúng với chuyên ngành của mình.
Chính vì vậy, nghiên cứu này sẽ nhằm góp phần chỉ ra được thực trạng việc làm
của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội, cũng như những yếu tố tác
động đến vấn đề việc làm của sinh viên tốt nghiệp
Bên cạnh đó, nghiên cứu về thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp là đề
tài không mới, nhưng cũng không bao giờ là cũ. Khi mà thời đại kinh tế phát triển, kéo
theo sự phát triển của toàn xã hội, yêu cầu của nhà tuyển dụng đối với người lao động
cũng thay đổi theo. Hơn thế nữa, trước đây chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra được
thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội, một ngành
nghề còn khá mới đối với phần đông người dân xã hội Việt Nam hiện nay.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài “Thực trạng việc làm
của sinh viên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội” (Nghiên cứu trường

hợp sinh viên tốt nghiệp Khoa Xã hội học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
4


2.

Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài

Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asia Development
Bank) thì: “Việc phát triển các hoạt động có giá trị thặng dư cao đòi hỏi phải tăng
cường tiềm năng công nghệ của các nguồn lao động – cái mà khu vực Đông Nam Á
hiện nay đang cần có khả năng mềm dẻo cao và có trình độ chuyên môn cao”. Như vậy,
theo Ngân hàng Thế giới thì có hai yếu tố “khả năng thích ứng” được đặt trước trình độ
đào tạo; đây là hai yếu tố cơ bản để cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo. Trong thời gian
gần đây, khi nền kinh tế toàn cầu đang gặp nhiều khủng hoảng, các cộng đồng doanh
nghiệp đi vào cắt giảm nhân sự để tiết kiệm chi phí, những nhà tuyển dụng cũng trở
nên khắt khe hơn với các sinh viên tốt nghiệp trong đó có sinh viên các chuyên ngành
Công tác xã hội – một trong những ngành bị đánh giá là khó kiếm việc làm và tỷ lệ
sinh viên làm trái ngành nghề cao. Và thực tiễn diễn ra rất nhiều sinh viên không tìm
được việc làm, không trải qua được vòng phỏng vấn do thiếu những kỹ năng cơ bản,
chưa đáp ứng được các yêu cầu của các nhà tuyển dụng. Nghiên cứu “Thực trạng việc
làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội” hi vọng làm rõ
hơn về vấn đề thực trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp, cùng với đó là những yếu tố ảnh
hưởng đến vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Có nhiều nghiên cứu đi
trước, các nhận định, các bài viết đánh giá về vấn đề này.
2.1.

Những nghiên cứu về chất lượng đào tạo, chất lượng giáo dục bậc


đại học
Báo cáo kết quả dự án “Đánh giá chất lượng giáo dục bậc Đại học ở Việt Nam”
(Cách tiếp cận từ thị trường lao động) được Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt
Nam (VUSTA) tiến hành trong tháng 2 năm 2009 – 2010. Nội dung chính của báo cáo
gồm 4 phần: Phần I: Những thành tựu và hạn chế của giáo dục đại học Việt Nam trong
giai đoạn 2000 – 2010; Phần II: Hiện trạng chất lượng giáo dục đại học Việt Nam
dưới góc độ thị trường lao động; Phần III: Nguyên nhân yếu kém về chất lượng giáo
dục Đại học Việt Nam hiện nay; Phần IV: Các khuyến nghị và giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Báo cáo đã tập trung làm rõ hiện trạng
chất lượng giáo dục Đại học từ góc độ tiếp cận thị trường lao động, báo cáo nhấn
mạnh: “Trong khoảng 10 năm trở lại đây giáo dục Việt Nam có những thay đổi đáng kể
5


cả về chất và về lượng. Tuy nhiên mặt chất lượng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, chưa đáp
ứng được với yêu cầu thực tế xã hội, trong khi số lượng các trường tăng gấp đôi trong
giai đoạn này nhưng mặt chất lượng lại tăng không đáng kể. Báo cáo cũng chỉ ra thực
tế tỷ lệ thất nghiệp của sinh viên Việt Nam ở mức thấp, hầu hết sinh viên ra trường tìm
được việc làm, tuy nhiên tỷ lệ làm trái ngành ở mức cao. Xem xét vấn đề này từ góc độ
thị trường lao động, nghiên cứu cho rằng việc nhà sử dụng lao động nói riêng và thị
trường lao động nói chung đang thay đổi hình thức tuyển dụng và có 3 yếu tố làm căn
cứ tuyển dụng nhân lực là: khả năng chuyên môn, khả năng tự đào tạo và kỹ năng
mềm. Đây là những cơ sở quan trọng để các trường Đại học, Cao đẳng nói chung và
sinh viên nói riêng có những định hướng cụ thể trong việc hoạch định, xây dựng các
chương trình đào tạo nhằm bị cho sinh viên những kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu
của nhà tuyển dụng và thị trường lao động, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục Đại học ở Việt Nam.
Nghiên cứu: “Đánh giá chất lượng đào tạo từ góc độ cựu sinh viên của trường
Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thúy Loan và
Nguyễn Thị Thanh Thoản năm 2015 đã chỉ ra rằng: Đảm bảo chất lượng cho giáo dục

đại học là hoạt động cần thiết nhằm cung cấp cho sinh viên tốt nghiệp có đủ trình độ
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Kết quả khảo sát sinh viên đã tốt
nghiệp phản ánh mức độ thích ứng sản phẩm đào tạo của Trường với nhu cầu của thị
trường lao động. Theo đó, việc khảo sát được tiến hành với nhóm cựu sinh viên đã tốt
nghiệp và đi làm từ hơn 6 tháng trở lên. Bên cạnh việc tìm hiểu về thời gian tìm việc
làm, tỷ lệ thay đổi công ty của cựu sinh viên, nghiên cứu cũng cho thấy ảnh hưởng của
bằng Đại học với công việc hiện tại của họ còn rất lớn, không ít ý kiến cho rằng đây là
căn cứ để trả lương và đề bạt chức vụ cho nhân viên trong quá trình họ làm việc. Ngoài
ra nghiên cứu cũng tìm hiểu những đánh giá của cựu sinh viên về chất lượng đào tạo
của trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh, các tiêu chí được đưa ra để
đánh giá bao gồm: chương trình đào tạo; đội ngũ giảng viên; cơ sở vật chất trong đó
đánh giá đáng chú ý nhất là kết quả đào tạo. Nghiên cứu cho thấy kết quả đào tạo được
thể hiện cụ thể qua những kỹ năng cơ bản mà sinh viên cần được trang bị khi tốt
nghiệp như “có lợi thế cạnh trạnh trong công việc” “khả năng chịu áp lực công việc”
6


“tư duy làm việc độc lập” “kỹ năng phân tích và đánh giá vấn đề” “kỹ năng làm việc
nhóm”... Nghiên cứu đã cung cấp một bức tranh khá tổng quát về đánh giá chất lượng
đào tạo thông qua góc nhìn của các cựu sinh viên
Một nghiên cứu khác của tác giả Nguyễn Hồi Loan “Công tác đào tạo cử nhân
Tâm lý học với đáp ứng yêu cầu xã hội ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội” tạp chí Tâm lý học, số 8 (125), 8 – 2009 đã nghiên cứu
về vấn đề đào tạo đáp ứng yêu cầu việc làm của sinh viên khối ngành Tâm lý học – Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nghiên cứu cho thấy đào tạo đại học ở Việt Nam
nói chung và của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nói riêng chưa đáp
ứng được yêu cầu của thị trường lao động (đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài) cả
về số lượng và chất lượng. Về số lượng, thực tế cho thấy nhiều ngành thiếu hụt nguồn
nhân lực đạt chuẩn, về chất lượng thì số sinh viên tốt nghiệp đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn công việc tại cơ sở hiện tại còn thấp. Theo kết quả điều tra khảo sát (2/2009)

về việc làm sau khi tốt nghiệp của 343 sinh viên khoa Tâm lý thuộc 5 khóa từ (1999 –
2001) đến khóa (2003 – 2007) đã có 31.4% sinh viên ra trường sau một năm tìm được
việc làm phù hợp có liên quan đến ngành nghề đào tạo, có 2.9% không tìm được việc
làm và số còn lại là sinh viên có tìm được việc làm trái ngành trái nghề đào tạo. Bài
viết cũng đưa ra kết quả của một số báo cáo tại Hội thảo của nhà trường và “Hội thảo
nhà quản trị Doanh nghiệp Việt Nam” (2008) (đơn vị ký hợp tác đào tạo và sử dụng các
sản phẩm đào tạo của nhà trường) cho thấy” hầu hết các sinh viên tốt nghiệp trong đó
có sinh viên của trường phải đào tạo ở nơi tuyển dụng từ 6 tháng – 1 năm. Việc phải
tiến hành đào tạo tại nơi làm việc gây sức ép lớn (kinh phí, thời gian, công sức, cơ hội
kinh doanh) lên các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải huấn luyện cho sinh viên
mới tốt nghiệp không chỉ về kiến thức chuyên môn mà còn cả về thái độ và kỹ năng
làm việc, nhận thức về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ cũng như đạo đức nghề
nghiệp, kỷ luật cũng như các kỹ năng cơ bản trong giải quyết vấn đề thực tiễn lao
động, sản xuất, kinh doanh của cơ sở. Thực tế cũng cho thấy phương thức đào tạo của
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn nói chung và ngành Tâm lý học nói
riêng với những yêu cầu của thực tiễn xã hội còn có độ “vênh” nhất định. Độ vênh đó
được thể hiện trong cả kiến thức chuyên môn và các kỹ năng “cứng”, “mềm” ở sinh
7


viên tốt nghiệp. Điều này ảnh hưởng lớn đến quá trình tìm kiếm việc làm đáp ứng yêu
cầu thực tiễn xã hội của sinh viên tại trường.
Cuốn sách: “Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” (NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, đề tài KX – 05 – 10). Nhóm
tác giả đã đề cập đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, mối quan hệ giữa
nguồn nhân lực và quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Trong đề tài này
nhóm tác giả cũng làm rõ thực trạng lao động và chính sách sử dụng lao động của nước
ta hiện nay còn nhiều bất cập và mất cân đối. Chất lượng nguồn lao động của được
nhóm tác giả quan tâm, chất lượng lao động có liên quan đến khả năng cạnh tranh

trong tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, theo tác giả đối với Việt Nam đây là vấn
đề rất đáng lo ngại. Bàn về nguồn nhân lực đào tạo nhưng không có việc làm, thậm chí
việc làm không phù hợp với chuyên môn được đào tạo lãng phí gây tổn thất về mặt
thời gian và tiền bạc, chất xám của nền giáo dục đất nước. Chính sách sử dụng lao
động cũng còn nhiều quan liêu, hai tác giả đưa ra kết luận trong nền kinh tế nhiều
thành phần người lao động cần được đối xử bình đẳng, cần có những chính sách phù
hợp để sử dụng nguồn lao động đó một cách hiệu quả nhất, tạo điều kiện cho người lao
động phát huy được tiềm năng và năng lực của bản thân. Vấn đề đó đã được nhiều nhà
nghiên cứu, các nhà tuyển dụng, các nhà hoạch định chính sách quan tâm và nghiên
cứu, bài viết đăng thường xuyên trên các sách báo và các sách chuyên khảo chủ yếu tập
trung vào tìm hiểu thực trạng việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, các bài viết
nghiên cứu đã mô tả khá rõ về việc làm của các nhóm đối tượng này đồng thời phản
ánh thực tế mất cân đối về cơ cấu lao động giữa các ngành nghề.
Như vậy, những nghiên cứu trên đều nêu lên một thực trạng khá buồn về chất
lượng đào tạo ở bậc đại học hiện nay, khi mà đa số sinh viên tốt nghiệp ra trường, các
kỹ năng đều chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng, dẫn đến việc phải “đào
tạo lại”, gây ảnh hưởng không nhỏ đến các nhà tuyển dụng. Bên cạnh đó, cũng mang
đến một thách thức cho bản thân các đơn vị đào tạo khi phải thay đổi chương trình đào
tạo để phù hợp hơn với nhu cầu tuyển dụng hiện nay

8


2.2.

Những nghiên cứu về thực trạng việc làm hiện nay của sinh viên sau

khi tốt nghiệp
Liên quan đến vấn đề việc làm, lao động và nghề nghiệp có bài viết “Giải quyết
vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp,

nông thôn” (Tạp chí Lao động – xã hội số 247 đăng từ 16 – 9/4/2014) của tác giả
Nguyễn Hữu Dũng. Trong nghiên cứu, tác giả đã bàn đến thực trạng lao động việc làm
ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa khi mà lực lượng lao động ở
khu vực đó khó có thể đảm bảo khi tham gia vào các nhà máy, xí nghiệp... Khi đô thị
hóa đang tiến đến các vùng nông thôn thì dân cư tại các vùng này đang gặp phải những
thay đổi quan trọng cả về đất đai và điều kiện làm việc, tác giả đã chỉ ra những khó
khăn của lao động việc làm tại khu vực nông thôn đồng thời chỉ ra những hướng giải
quyết cho những đối tượng.
Trong bài viết: “Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1/7/2015”
(Tạp chí lao động xã hội, số 251, từ 7 – 10/11/2015), tác giả Trương Văn Phúc đã đề
cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố
cũng như vùng kinh tế trọng điểm. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả cũng đánh giá một
cách tổng quát những kết quả đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động.
Cuốn sách của tác giả Nguyễn Thị Thơm: “Thị trường lao động Việt Nam thực
trạng và giải pháp” (NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2016) đã đưa ra vấn đề việc làm
và chính sách với người lao động, tác giả cũng đưa ra một số nhận định đó là cần phải
tôn trọng bản chất thực sự của thị trường lao động, tôn trọng vai trò của các cơ sở giáo
dục và đào tạo, đánh giá khách quan về mô hình xã hội hóa giáo dục. Tác giả cũng
khẳng định cần đẩy mạnh các hoạt động chắp nối cung – cầu lao động tạo cơ sở bình
đẳng cho người lao động tiếp cận với cơ hội việc làm.
Tác giả Vũ Thị Mai: “Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong quá
trình đô thị hóa Hà Nội” (NXB Chính trị quốc gia, HN 2017) đã làm rõ thực trạng việc
làm của người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô thị hóa và các giải pháp việc
làm cũng như kinh nghiệm của các nước trong việc tạo việc làm cho người lao động
của mình, đó là phải dựa vào các nguồn tài trợ của gia đình, từ các tổ chức xã hội để

9


được đào tạo, trau dồi kiến thức, phát triển và nắm vững một số nghề nghiệp nhất định

– đây là điều kiện cần thiết cho người lao động khi tham gia vào thị trường lao động.
Đề tài: “Định hướng nghề nghiệp và khu vực việc làm sau khi tốt nghiệp của
sinh viên ngoài công lập hiện nay (nghiên cứu trường hợp tại đại học Đông Đô)” của
tác giả Nguyễn Thị Minh Phương, 2016 đã chỉ ra vai trò quan trọng của việc định
hướng nghề nghiệp của sinh viên, giúp họ có khả năng phát huy những sở trường cá
nhân, có nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp, đam mê và tâm huyết hơn với công việc
của mình. Đồng thời, nghiên cứu cũng làm rõ nguyên nhân các sinh viên vào học tập
tại trường dân lập như Đông Đô là do thi rớt các trường công lập khác và do sức học
còn hạn chế. Định hướng nghề nghiệp của sinh viên trường Đông Đô chủ yếu là khu
vực liên doanh, tuy nhiên định hướng nghề nghiệp cũng là thước đo kết quả học tập
của sinh viên sau 4 năm đại học. Xu hướng tự tạo việc làm còn khiêm tốn, để có khả
năng tự tạo việc làm sinh viên cũng cần những khả năng, những phẩm chất và các yếu
tố khác nữa. Nghiên cứu cũng chỉ ra, những định kiến xã hội ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình học tập và tu dưỡng đạo đức của sinh viên, định kiến xã hội còn ảnh hưởng
đến sự nhìn nhận thiếu tích cực về bản thân của sinh viên. Nhiều sinh viên tốt nghiệp
xuất phát từ nhu cầu nâng cao chuyên môn, ngoài ra còn có các nguyên nhân một số
ngành nghề chỉ phát huy được ở những vùng có nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu
đồng thời chỉ ra xu hướng tìm việc ở thành phố lớn của sinh viên hiện nay gay gắt hơn
và kéo theo nhiều hệ lụy xã hội khác như: lãng phí chất xám, mất cân bằng về nguồn
nhân lực, quá tải về các dịch vụ cơ sở hạ tầng. Vai trò của gia đình và các mối `quan hệ
xã hội là một trong những yếu tố liên quan đến cơ hội việc làm và lựa chọn khu vực
làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Trong đề tài “Định hướng giá trị của thanh niên trong lĩnh vực nghề nghiệp và
việc làm” năm 2015, tác giả Trần Xuân Vinh cho rằng: nghề nghiệp và việc làm là mối
quan tâm hàng đầu và là giá trị quan trọng nhất của thanh niên hiện nay. Ở đây, tác giả
nhấn mạnh đến giá trị việc làm bên cạnh hàng loạt các giá trị khác mà người thanh niên
cần đạt được như học vấn, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống... qua đó thấy được
tầm quan trọng của việc làm với thanh niên nói chung.

10



Nghiên cứu của Trần Trung Dũng “Năng lực hội nhập không gian xã hội của
sinh viên Việt Nam” năm 2014 bàn về động cơ học tập của sinh viên, cho thấy rất đa
dạng, chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế, xã hội và các điều kiện khác nhau nhìn
chung là lành mạnh và luôn hướng tới các nhu cầu mưu sinh, lập nghiệp. Thứ hai động
cơ học tập của sinh viên hiện nay chủ yếu hướng vào các động cơ mang tính cá nhân
như học để kiếm việc, để nâng cao tri thức, để phát triển nhân cách, còn động cơ học
để phục vụ yêu cầu phát triển đất nước là thấp. Thứ 3, sinh viên học tập chủ yếu để có
năng lực đạo đức, có nghề nghiệp chuyên môn để đảm bảo vững chắc cho tương lai của
mình.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết liên quan đến vấn để lao động và việc làm mà các
tác giả đã đi vào nghiên cứu như: Đề tài “Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp
hiện nay” của tác giả Lê Văn Toàn (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, năm 2014), đề
tài “Sự bất bình đẳng giới trong trong cơ hội tìm kiếm việc làm” của tác giả Nguyễn
Mai Anh năm 2015 cũng đề cập đến yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội việc làm như: những
đặc điểm cá nhân, gia đình, giới tính, ngành học, quê quán... Tác giả Phạm Tất Thắng
với đề tài “Định hướng chọn nghề và nơi làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp”
năm 2014 đã đi sâu vào hai khía cạnh: thực trạng lựa chọn nghề của sinh viên sau khi
ra trường và định hướng nơi làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Tác giả Nguyễn
Văn Buồm trong “Nghề nghiệp và việc làm của sinh viên hiện nay” năm 2015 cũng đề
cập đến 3 vấn đề, thứ nhất việc lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên, thứ hai việc kiếm
sống của sinh viên, thứ 3 việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp.
Tóm lại, các nghiên cứu trên đều chỉ ra được thực trạng lao động và nghề
nghiệp của nước ta hiện nay. Đó là đa số thanh niên hiện nay đều rất coi trọng vấn đề
việc làm bên cạnh các vấn đề khác như học vấn, tác phong, đạo đức lối sống,…vả cơ
hội việc làm hiện nay của thanh niên trong thời đại công nghiệp hóa là rất lớn mặc dù
còn nhiều thách thức
2.3.


Những nghiên cứu về yêu cầu của nhà tuyển dụng về các kỹ năng đối

với sinh viên sau khi tốt nghiệp
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thanh Ngọc, “Yêu cầu của nhà tuyển
dụng với sinh viên tốt nghiệp đại học (nghiên cứu các thông tin tuyển dụng trên trang
11


Vietnamwork)” năm 2015 cho thấy vấn đề việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học rất
quan trọng và nhận được sự quan tâm của xã hội. Nhưng có một nghịch lý diễn ra là
nhiều người lao động có trình độ đại học có nhu cầu rất lớn về việc làm và rất nhiều
các doanh nghiệp thiếu nguồn nhân lực nhưng rất ít người trong số đó được tuyển vào
làm việc do thiếu những kinh nghiệm, kỹ năng cơ bản và kỹ năng làm việc thực tế.
Hơn nữa, sinh viên ra trường cũng không nắm được yêu cầu của nhà tuyển dụng, vì
vậy không đáp ứng được những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đề ra. Theo đó, ba nhóm
kỹ năng cơ bản mà nhà tuyển dụng yêu cầu sinh viên là Nhóm kỹ năng trình độ chuyên
môn, Nhóm kỹ năng mềm, Nhóm kỹ năng về quản lý. Tùy từng vị trí tuyển dụng mà
các loại hình doanh nghiệp có những yêu cầu khác nhau về những kỹ năng cụ thể để
đáp ứng yêu cầu công việc. Nghiên cứu đã làm rõ được những kỹ năng chính mà các
nhà tuyển dụng yêu cầu sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học, theo đó ba tiêu chí quan
trọng mà các cơ quan, doanh nghiệp yêu cầu là khả năng chuyên môn, khả năng tự đào
tạo và kỹ năng mềm. Nghiên cứu cũng chỉ ra dưới sự đánh giá của các nhà tuyển dụng,
sinh viên tốt nghiệp đại học mặc dù được trang bị nền tảng kiến thức cơ bản tương đối
tốt, tuy nhiên vẫn còn một số điểm yếu chưa đáp ứng được như trình độ ngoại ngữ,
trình độ tin học còn hạn chế, khả năng chịu áp lực và tính chuyên môn còn kém; thiếu
những kinh nghiệm làm việc thực tế và các kỹ năng mềm. Đa số sinh viên sau khi ra
trường cần một quá trình đào tạo của doanh nghiệp để thích nghi với công việc.
Nguyên nhân của thực trạng đó được nghiên cứu đưa ra là do hình thức và phương
pháp đào tạo của các cơ sở còn chưa cân đối, thứ hai là do sinh viên còn chưa nhanh
nhạy và nắm bắt được những yêu cầu thực tế xã hội.

Công trình của tác giả Trần Thị Thu Thắm (2016) Đại học Bách khoa thành phố
Hồ Chí Minh “Khảo sát nhu cầu của nhà tuyển dụng thành phố Hồ Chí Minh về năng
lực của ứng viên mới tốt nghiệp đại học”. Một nghiên cứu khác của tác giả Vũ Thế
Dũng (2015) “8 kỹ năng cần thiết của nhà quản lý hiện đại”. Nghiên cứu “Yêu cầu
của nhà tuyển dụng đối với sinh viên tốt nghiệp ngành quản lý – kinh tế: ứng dụng
phương pháp phân tích nội dung” của tác giả Vũ Thế Dũng – Trần Thanh Tòng, Khoa
Quản lý công nghiệp – Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều
phát hiện đáng chú ý. Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp phân tích nội dung với
12


khoảng 300 mẫu tin quảng cáo tuyển dụng trên các trang báo tuyển dụng lớn của Việt
Nam đối với sinh viên mới tốt nghiệp đại học để tìm hiểu yêu cầu của nhà tuyển dụng
về những kỹ năng cần thiết với nhóm công việc này. Trên cơ sở xem xét các loại hình
doanh nghiệp, vị trí tuyển dụng và ngành nghề, các tác giả đã chỉ ra các nhóm kỹ năng
chính xác mà các nhà tuyển dụng yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp các ngành quản
lý – kinh tế. Có 17 kỹ năng chính xuất hiện trong các mẫu tuyển dụng, các kỹ năng
được chia ra làm 3 nhóm kỹ năng: Nhóm 1 là nhóm các kỹ năng cơ bản, đây là nhóm
kỹ năng bắt buộc sinh viên phải có, nếu thiếu các kỹ năng này các ứng viên sẽ rất khó
khăn trong quá trình làm việc hoặc không được nhà tuyển dụng lựa chọn. Nhóm này
bao gồm 4 kỹ năng chính: ngoại ngữ, tin học văn phòng, giao tiếp và làm việc độc lập.
Trong đó ngoại ngữ và tin học văn phòng là hai kỹ năng quan trọng hàng đầu. Tuy rất
quan trọng nhưng nhóm kỹ năng này chỉ là điều kiện cần để được tuyển dụng và chưa
phải điều kiện đủ. Nhóm 2 là nhóm giá trị gia tăng, nhóm này chính là nhóm kỹ năng
giúp các ứng viên tạo ra sự khác biệt đối với các ứng viên khác. Các kỹ năng của nhóm
2 bao gồm 8 kỹ năng chính là: kỹ năng tổ chức, quản lý, phân tích, làm việc nhóm, tin
học chuyên ngành, truyền thông, hoạch định và đàm phán. Đây rõ ràng là những kỹ
năng khó hơn, cao hơn những kỹ năng cơ bản, đây là những kỹ năng ít được giảng dạy
trên ghế nhà trường, cần được sinh viên nắm bắt và tự trau dồi, đây là nhóm kỹ năng
thách thức đối với những sinh viên mới tốt nghiệp đại học. Nhóm kỹ năng thứ 3 là

nhóm kỹ năng dành cho các nhà lãnh đạo tương lai. Nhóm này bao gồm các kỹ năng
cần thiết cho một nhà lãnh đạo tương lai như kỹ năng tổng hợp, lãnh đạo, xây dựng và
phát triển quan hệ, tổ chức nguồn nhân lực, và ra quyết định. Bên cạnh việc chỉ ra sự
khác biệt trong yêu cầu tuyển dụng trong các lĩnh vực, các ngành nghề và các vị trí
khác nhau.
Một nghiên cứu khác của tác giả Huỳnh Văn Sơn về “Kỹ năng sống của sinh
viên thành phố Hồ Chí Minh nhìn từ góc độ điều tra thực trạng” (Tạp chí Giáo dục số
217 (kỳ 1 – 7/2009) đã đưa ra góc nhìn của nhà nghiên cứu về vấn đề thực trạng nhận
thức của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh về kỹ năng sống. Điều tra được tiến hành
trong vòng 1 năm tại một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, kết
quả nghiên cứu cho thấy hầu hết sinh viên rất quan tâm đến kỹ năng sống, theo 100% ý
13


kiến sinh viên thì kỹ năng sống rất quan trọng cho sự thành công của mỗi cá nhân. Đa
số sinh viên đánh giá kỹ năng sống của bản thân ở mức trung bình, sinh viên tự nhận
thấy mình còn hạn chế ở các kỹ năng sau: kỹ năng diễn đạt, kỹ năng truyền thông, kỹ
năng thể hiện sự tự tin, kiềm chế cảm xúc, tư duy sáng tạo, quản lý thời gian và vượt áp
lực. Những kỹ năng còn lại mang tính chất công việc như: tư duy sáng tạo, kỹ năng ra
quyết định, kỹ năng thiết lập mối quan hệ được sinh viên đánh giá ở mức trung bình,
điều này phản ánh đúng thực tế xã hội khi sinh viên ra trường gặp nhiều khó khăn
trong việc đáp ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng và khẳng định bản thân trong tương
lai. Nghiên cứu cũng chỉ ra thực trạng kỹ năng sống của sinh viên thường gặp phải là
vấn đề “thiếu tự tin”, điều này gây ra những cảm giác buồn chán, bực mình, điên tiết;
với những cảm xúc như thiếu định hướng, không biết làm gì, cảm giác mông lung, hay
buồn bã vô cớ là do sinh viên thiếu kỹ năng lập kế hoạch, ra quyết định, quản lý công
việc. Tác giả cũng chỉ ra được nhu cầu mong muốn của sinh viên được trang bị kỹ
năng sống, có hai mươi kỹ năng mà sinh viên muốn được học tập; tuy nhiên nhiều sinh
viên do thiếu nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của những kỹ năng: diễn đạt,
truyền thông, tự đánh giá bản thân, quản lý nhóm... nên sinh viên không lựa chọn và có

thái độ học tập đúng đắn để trau dồi những kỹ năng này.
Bài viết của tác giả Đặng Vũ Cảnh Linh được đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 1
(106), 1/2008 có tiêu đề: “Một số chỉ báo định hướng giá trị của sinh viên các trường
đại học hiện nay” đã đưa ra những chỉ báo định hướng giá trị của sinh viên. Tác giả
cho rằng giá trị và định hướng giá trị rất quan trọng với thế hệ thanh niên và sinh viên
hiện nay; nghiên cứu về định hướng giá trị trong bối cảnh xã hội hiện nay là cần thiết
nhằm đưa ra những giải pháp xây dựng môi trường phát huy tính tích cực của sinh viên
đáp ứng yêu cầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới, loại bỏ các yếu tố tiêu cực, lạc hậu.
Nghiên cứu cho thấy định hướng giá trị của sinh viên trong vấn đề tri thức tỷ lệ % khá
đồng đều trong năm giá trị: Tri thức thực tiễn, tri thức kỹ năng, tri thức khoa học cơ
bản, tri thức do thế hệ trước truyền lại và tri thức giá trị. Tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu
và phân tích những định hướng giá trị của sinh viên trong giai đoạn mới và thấy được
định hướng giá trị của sinh viên trong từng khía cạnh khác nhau.
14


Như vậy, các nghiên cứu đều chỉ ra được hiện nay, sinh viên tốt nghiệp ra
trường đều còn rất yếu về mặt các kỹ năng, trong khi nhu cầu tuyển dụng việc làm hiện
nay là rất cao. Các kỹ năng chủ yếu mà nhà tuyển dụng yêu cầu là kỹ năng mềm, kỹ
năng làm việc cá nhân, kỹ năng làm việc nhóm,…
Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, vấn đề việc làm của sinh viên tốt
nghiệp khối ngành Xã hội Nhân văn hiện nay là khá khó khăn, có nhiều nguyên nhân
cho vấn đề này nhưng chủ yếu là do độ vênh của chương trình đào tạo so với nhu cầu
của thị trường. Cùng với đó, do tình hình kinh tế còn chưa thực sự phát triển hiện nay,
nhu cầu việc làm tập trung chủ yếu vào các ngành kinh tế, tài chính – ngân hàng, do đó
mà sinh viên thuộc ngành Xã hội nhân văn thường có ít cơ hội hơn trong việc tìm kiếm
việc làm. Nghiên cứu đề tài này hi vọng sẽ góp một phần nhỏ trong việc chỉ ra thực
trạng, nguyên nhân cũng như có phương pháp giải quyết vấn đề việc làm của sinh viên
sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Làm rõ thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã
hội và các yếu tố tác động đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên.
3.2.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu

Làm rõ các khái niệm, các lý thuyết liên quan đến thực trạng việc làm của sinh

viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội
- Khảo sát thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã
hội qua các yếu tố Thời gian có việc sau khi tốt nghiệp, Thu nhập, Môi trường làm
việc, Sự phù hợp của công việc đối với chuyên môn đào tạo,...
- Đánh giá các yếu tố tác động đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên như
Làm thêm trong thời gian học Đại học, Xếp loại học lực tốt nghiệp,…
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc làm của sinh viên chuyên ngành Công
tác xã hội sau khi tốt nghiệp
- Khách thể khảo sát: Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội
- Phạm vi khảo sát:
+ Phạm vi không gian: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia
15



+ Phạm vi thời gian: Từ tháng 1 – 6/ 2017
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công tác xã hội hiện
nay qua các yếu tố Thu nhập, Thời gian có việc, Môi trường làm việc, Sự phù hợp đối
với chuyên môn đào tạo... là như thế nào?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Sinh viên chuyên ngành Công tác xã hội sau khi ra trường vẫn còn gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm việc làm, nếu có thì thường làm những công việc không đúng với
chuyên môn đào tạo, lương còn thấp,…
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên như Gia
đình, Bạn bè, Đồng nghiệp, Làm thêm trong thời gian học đại học, Bằng cấp...
7. Phương pháp thu thập thông tin
7.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trong bài sử dụng những tài liệu thu thập qua những luận văn thạc sỹ, đề tài cấp
Nhà nước, những thông tin qua báo, đài và các phương tiện truyền thông đại chúng,
các sách chuyên khảo và giáo trình, tạp chí. Những tài liệu được chúng tôi tiếp cận sẽ
được chỉ rõ ra ở phần tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Các tài liệu được sưu tầm qua mạng internet, thư viện trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Thư viện Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Hà Nội,..
7.2.

Phương pháp phỏng vấn sâu

Đây là một phương pháp quan trọng để thực hiện việc thu thập thông tin. Chúng
tôi thực hiện 6 cuộc phỏng vấn, trong đó cơ cấu mẫu gồm:
Về giới tính: 3 nam, 3 nữ
Về khóa đào tạo: 1 SVTN khóa 54, 3 SVTN khóa 55, 1 SVTN khóa 56, 1
SVTN khóa 57
Về thực trạng việc làm: 1 SVTN chưa tìm được việc làm, 5 SVTN đã tìm được

việc làm
7.3.

Phương pháp trưng cầu ý kiến

16


Để có số liệu phục vụ cho nghiên cứu , nhóm tác giả đã dùng phương pháp
trưng cầu ý kiến với số lượng phiếu là 183.
Mẫu chia thành 2 nhóm, bao gồm 93 sinh viên đã tốt nghiệp khóa K54 và K55,
90 sinh viên đã tốt nghiệp khóa K56 và K57 chuyên ngành Công tác xã hội Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, thuộc chuyên ngành
Công tác xã hội. Bảng hỏi được tạo trên Google Driver và phát trực tuyến bằng cách
chia sẻ đường dẫn qua các ứng dụng mạng xã hội như Facebook, Gmail,…
Việc chia nhóm SVTN nhằm với tiêu chí:
Nhóm 1 gồm SVTN khóa 54 và khóa 55, là những sinh viên đã tốt nghiệp trong
khoảng thời gian 2-3 năm, có nhiều thời gian và cơ hội tiếp cận cũng như tham gia thị
trường lao động
Nhóm 2 gồm SVTN khóa 56 và khóa 57, là những sinh viên tốt nghiêp trong
khoảng thời gian dưới 2 năm, mới tiếp cận cũng như tham gia vào thị trường lao động
Bảng hỏi được xây dựng nhằm làm rõ:
-

Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

-

Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tìm kiếm việc làm của sinh viên


-

So sánh thực trạng việc làm giữa sinh viên đã tốt nghiệp 2-3 năm với sinh viên
mới tốt nghiệp – 1 năm
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS bản 18 for Window

17


NỘI DUNG CHÍNH
1. Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1. Những khái niệm công cụ
1.1.1. Việc làm
Có rất nhiều định nghĩa về việc làm đứng trên nhiều góc độ nghiên cứu khác
nhau, nhằm sáng tỏ khái niệm việc làm. Và ở các quốc gia khác nhau, do ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như điều kiện kinh tế, chính trị, pháp luật…
mà người ta cũng có những quan niệm về việc làm khác nhau. Chính vì vậy mà chưa
có một định nghĩa chung và khái quát nhất về việc làm.
ILO (International Labour Organization) đưa ra khái niệm người có việc làm là
những người làm việc gì đó được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng
hiện vật hoặc những người tham gia vào hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì
lợi ích hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật [37, tr.47].
Khái niệm này còn được đưa ra tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của các nhà thống kê
lao động ILO. Còn người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng đang
tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trả lại làm việc.
ILO còn có nhiều công ước và khuyến nghị liên quan đến vấn đề việc làm, trong
đó có 1 số công ước quan trọng như công ước số 47 (1935), Công ước số 88 (1948),
Công ước 122 (1964)…
Còn theo quan niệm của Việt Nam, đã từ lâu kể từ khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường, cùng với đó là quan niệm về việc làm và những vấn đề liên quan

như thất nghiệp, chính sách giải quyết việc làm cũng có sự thay đổi cơ bản
Điều 55 Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy
định: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch
tạo ngày càng nhiều việc làm cho NLĐ”.
Quan niệm này đã mở ra bước chuyển căn bản trong nhận thức về việc làm.
Trên cơ sở này, Bộ luật Lao động Việt Nam đã quy định:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm” ( Điều 13 Bộ luật lao động).
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc làm được cấu thành bởi 3 yếu tố:

18


-

Là hoạt động lao động: thể hiện sự tác động của sức lao động vào tư liệu

sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao động trong việc làm phải có tính
hệ thống, tính thường xuyên và tính nghề nghiệp. Vì vậy người có việc làm thông
thường phải là những người thể hiện các hoạt động lao động trong phạm vi nghề nhất
định và trong thời gian tương đối ổn định.
-

Tạo ra thu nhập: Là khoản thu nhập trực tiếp và khả năng tạo ra thu nhập.

-

Hoạt động này phải hợp pháp: hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng

trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận thì không được coi là việc làm . Tùy

theo điều kiện kinh tế-xã hội, tập quán, quan niệm về đạo đức của từng nước mà pháp
luật có sự quy định khác nhau trong việc xác định tính hợp pháp của các hoạt động lao
động được coi là việc làm. Đây là dấu hiệu thể hiện đặc trưng tính pháp lí của việc làm.
Dưới góc độ kinh tế xã hội, hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất
của loài người nói chung và con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người
được gọi chung là việc làm.
Việc làm trước hết là nhu cầu của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu cầu của bản
thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có thể tham gia hoạt động nào đó để
được trả công hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự sản tự tiêu như dùng
các tư liệu sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự tạo ra những sản phẩm cho
hộ gia đình mình.
Ngoài nhu cầu cá nhân, việc làm còn là nhu cầu của cộng đồng của xã hội.. Sở
dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn lẻ và hoạt động lao động của
mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất, trao đổi,
phân phối, sử dụng của xã hội. Hơn nữa, việc làm và thu nhập không phải là vấn đề mà
lúc nào mỗi cá nhân NLĐ cũng quyết định được. Sự phát triển quá nhanh của dân số,
mức độ tập trung tư liệu sản xuất ngày càng cao vào tay một số cá nhân dẫn đến tình
trạng xã hội ngày càng có nhiều người không có khả năng tự tạo việc làm. Trong điều
kiện đó, mỗi cá nhân phải huy động mọi khả năng của bản thân để tự tìm việc làm cho
mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm.
Tóm lại, xét về phương diện kinh tế- xã hội, có thể hiểu việc làm là các hoạt
động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động được xã hội thừa nhận.
19


Như vậy, việc làm có hai đặc tính cơ bản:
Một là, xét dưới khía cạnh kinh tế, việc làm chính đáng là hoạt động của con
người tạo ra thu nhập; hoặc tạo ra những sản phẩm có lợi ích cho con người và xã hội
Hai là, dưới khía cạnh pháp lý của mỗi quốc gia, hoạt động tạo ra thu nhập đó
chỉ được coi là việc làm khi hoạt động đó không bị pháp luật quốc gia đó cấm.

Trên thực tế, có nhiều hoạt động tạo ra thu nhập nhưng bị pháp luật ngăn cấm
thì không được thừa nhận là việc làm; mặt khác có những hoạt động không bị pháp luật
cấm, không tạo ra thu nhập cũng có thể coi là việc làm nếu tạo ra những sản phẩm tự
sản, tự tiêu có ích lợi với cá nhân và xã hội
1.1.2. Thất nghiệp
Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa học bàn
luận. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị mà cũng còn nhiều
ý kiến khác nhau về vấn đề thất nghiệp.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, luật Bảo hiểm thất nghiệp quy định rằng thất
nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện công
việc ngắn hạn [34, tr.76]. Ở Pháp người ta cho rằng, thất nghiệp là không có việc làm,
có điều kiện làm việc, đang đi tìm việc làm [37, tr.98]. Thái Lan định nghĩa về thất
nghiệp khẳng định: “Thất nghiệp được hiểu là không có việc làm, muốn có việc làm, có
năng lực làm việc [38, tr.21]. Trung Quốc định nghĩa về thất nghiệp như sau: “Thất
nghiệp là người trong độ tuổi lao động (dân thành thị) có khả năng lao động, chưa có
việc làm, đang đi tìm việc làm, đăng ký tại cơ quan giải quyết việc làm [36, tr.67].
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số
người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở
mức lương thịnh hành”.
Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Geneva đưa ra
định nghĩa: “Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định mà trong một ngành
hoặc một tuần xác định, thuộc những loại sau đây:[33, tr26]:
 Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị tạm
ngừng hợp đồng, đang không có việc làm và đang tìm việc làm
 Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và đang tìm
việc làm có lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành

20



nghề cuối cùng trước đó không phải là người làm công ăn lương (ví dụ
người sử dụng lao động chẳng hạn) hoặc đã thôi việc.
 Người lao động không có việc làm và có thể đi làm ngay và đã có sự
chuẩn bị cuối cùng để làm một công việc mới và một ngày nhất định sau
một thời kỳ đã được xác định.
 Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có lương
Có thể thấy, các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời
gian mất việc) nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc trưng:
 Có khả năng lao động
 Đang không có việc làm
 Đang đi tìm việc làm
Tại Việt Nam thất nghiệp được hiểu là những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc làm[40]. Luật
71/2006/QH11 của Quốc hội: Luật Bảo hiểm xã hội quy định rằng người thất nghiệp là
người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng
lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm [41]. Tỷ lệ thất nghiệp là
phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã
hội
Số người có việc làm
Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Tổng số lao động xã hội
1.1.3. Sinh viên tốt nghiệp
Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp. Ở đó họ
được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này
của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học.
Như vậy, sinh viên là những người trẻ, học tập trong môi trường đại học, cao
đẳng, là những môi trường tri thức cao, họ được tiếp cận những tri thức tân tiến nhất
của nhân loại, là những chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì vây, Cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Phải làm cho sinh viên, học sinh nắm được những kiến
thức hiện đại nhất”[46]

Sinh viên tốt nghiệp là những sinh viên đã hoàn thành toàn bộ chương trình học
tại trường Cao đẳng hoặc Đại học, được công nhận và cấp bằng tốt nghiệp. Những
người này còn có một cách gọi khác là Cựu sinh viên.

21


Như vậy, với các định nghĩa trên, ta có thể khái quát Việc làm của SVTN
chuyên ngành Công tác xã hội là hoạt động tạo ra giá trị vật chất và phi vật chất của
những người đã hoàn thành chương trình học tập bậc đại học về chuyên ngành Công
tác xã hội tại các cơ sở đào tạo. Hoạt động tạo ra giá trị có thể được đo bằng thu nhập,
mức độ ổn định công việc,…
1.1.4. Nghề nghiệp
Nghề hay nghiệp, Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như ý chủ biên, Nxb Văn hoá
thông tin – 1998) định nghĩa: “Nghề: Công việc chuyên làm theo sự phân công của xã
hội”; còn “Nghề nghiệp là nghề nói chung”. Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân chủ biên,
Nxb Khoa học xã hội – 1991) thì định nghĩa: “Nghề là công việc hàng ngày làm để
sinh nhai”, “Nghề nghiệp: là nghề làm để mưu sống”, còn từ điển Larousse của Pháp
(Le Petit Larousse, NXB Larousse – 2006) định nghĩa: “Nghề nghiệp (Profession) là
hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo nguồn thu nhập cần
thiết để tồn tại”.
Từ một số những quan điểm về nghề nghiệp ở trên, chúng ta có thể hiểu một
cách ngắn gọn và khái quát rằng, nghề nghiệp là một dạng lao động mà ở đó, đòi hỏi
con người cần qua một quá trình đào tạo chuyên biệt, để từ đó có những kỹ năng, kỹ
xảo về chuyên môn, có phẩm chất, đạo đức phù hợp với dạng lao động tương ứng với
nghề nghiệp đó. Nhờ hoạt động nghề nghiệp mà con người có thể tạo ra những sản
phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu về vật chất cũng như tinh thần của cá nhân và toàn xã
hội.
Nghề nghiệp có thể hình thành do quá trình đào tạo chính quy về nghề đó vì
nghề đòi hỏi một trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định. Nghề cũng có thể hình

thành một cách tự phát do quá trình tích lũy kinh nghiệm của bản thân trong quá trình
xã hội hóa hoặc do truyền lại trong quá trình kèm cặp, học hỏi giữa người biết nghề và
người chưa biết nghề.
1.1.5. Thị trường lao động
Khái niệm Thị trường lao động cũng là một khái niệm đang tồn tại nhiều ý kiến
khác nhau từ những học giả khác nhau,
Theo Adam Smith, thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động
(hàng hóa sức lao động) giữa một bên là người mua sức lao động (chủ sử dụng lao
động) và người bán sức lao động (người lao động). Tuy nhiên, định nghĩa này lại chủ
22


yếu nhấn mạnh đối tượng trên thị trường lao động là dịch vụ lao động, chứ chưa phải là
người lao động
Theo Từ điển Kinh tế học Pengiun, (NXB Giáo dục – 1995), thị trường lao
động là thị trường trong đó tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động được xác
định trong bối cảnh quan hệ của cung lao động và cầu lao động. Khác với Adam
Smith, định nghĩa này lại nhấn mạnh vào kết quả của mối quan hệ tương tác bên trong
thị trường lao động đó là tiền công, tiền lương và các điều kiện lao động
Theo Từ điển kinh tế MIT, (NXB Giáo dục – 2008), thị trường lao động là nơi
cung và cầu lao động tác động qua lại với nhau. Định nghĩa này cũng nhấn mạnh vào
quan hệ trong thị trường lao động, đó là quan hệ cung – cầu như bất kỳ một thị trường
nào khác.
Còn ở Việt Nam, theo Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội IX của
Đảng, thị trường lao động là: "Thị trường mua bán các dịch vụ của người lao động, về
thực chất là mua bán sức lao động, trong một phạm vi nhất định. Ở nước ta, hàng hóa
sức lao động được sử dụng trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân, các doanh nghiệp
tư bản Nhà nước, các doanh nghiệp tiểu chủ, và trong các hộ gia đình neo đơn thuê
mướn, người làm dịch vụ trong nhà. Trong các trường hợp đó có người đi thuê, có
người làm thuê, có giá cả sức lao động dưới hình thức tiền lương, tiền công". Theo

như định nghĩa này thì thị trường lao động chỉ bó hẹp trong một vài thành phần kinh tế
nhất định, các quan hệ lao động trong khu vực kinh tế Nhà nước, khu vực kinh tế tập
thể, và khu vực hành chính sự nghiệp lại bị đặt ra ngoài các quy luật của thị trường.
Tóm lại, mặc dù có nhiều điểm khác biệt, nhưng các định nghĩa nêu trên đều
thống nhất nhau về các nội dung cơ bản của thị trường lao động, đó là: Thị trường lao
động là nơi mà người lao động và người sử dụng lao động thực hiện các quan hệ xã hội
thông qua các hình thức thỏa thuận về tiền lương, tiền công và các điều kiện làm việc
khác, trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc qua các dạng thỏa thuận
khác như bằng miệng…
1.2. Các lý thuyết áp dụng
1.2.1. Lý thuyết lựa chọn hành vi hợp lý
Theo G. Homans, con người thực hiện hành vi luôn có sự cân nhắc. Làm sao đạt
được lợi ích một cách tối đa và chi phí đặt ra là tối thiểu

23


×