Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Luận văn: Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.73 KB, 69 trang )

1








Luận văn

Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương
Yên – Chương Mỹ (Hà Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội
2

Phần 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan
tâm lớn của hầu hết các quốc gia và của toàn nhân loại. Đảng và Nhà nước ta luôn coi
việc thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho mọi người dân để tạo thu nhập và
không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống là ưu tiên số một trong chính sách kinh tế
- xã hội. Bởi vì, trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng ta luôn lấy con người làm
trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là điều kiện để phát huy
được tiềm năng lao động - nguồn nội lực to lớn nhất ở nước ta cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện đời sống, mặt khác cũng là hướng cơ bản để xóa đói giảm nghèo bền
vững. Đặc biệt trong điều kiện nước ta, tài nguyên không nhiều, nguồn lực tài chính và
cơ sở vật chất còn nghèo, quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức còn chậm thì việc
ưu tiên hàng đầu cho đầu tư phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người là
sự đầu tư có hiệu quả nhất để tăng trưởng và phát triển kinh tế, chống nguy cơ tụt hậu
và khẳng định vị thế đất nước khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới.


Hà Tây (cũ ) là một địa danh nổi tiếng với hơn 1.600 làng nghề, trong đó có hơn
400 làng được chính thức cấp bằng làng nghề truyền thống với các sản phẩm nổi tiếng
cả nước như: Lụa Vạn Phúc (Hà Đông), Sơn mài (Duyên Thái), Tiện gỗ (Nhị Khê),
Thêu (Quất Động), M ây tre đan (Chương Mỹ)…Từ lâu, những làng nghề này đã giải
quyết việc làm cho hầu hết lao động nông thôn thuộc mọi lứa tuổi của địa phương
trong những lúc nông nhàn. Những năm gần đây nền kinh tế phát triển nhanh chóng,
quá trình CNH – HĐH của đất nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ, Thủ đô Hà Nội được
mở rộng về phía Tây Nam, theo đó từ ngày 01/08/2008 toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp
nhập với Hà Nội. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề kinh tế - xã hội của người
dân nơi đây.
Việc sáp nhập vào thủ đô Hà Nội đã góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế của
tỉnh Hà Tây, nếu như trước đây sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng
nghề truyền thống là chủ yếu thì hiện nay các loại hình kinh tế công nghiệp và dịch vụ
3

lại đang dần chiếm ưu thế. Nhiều KCN xuất hiện và đã thu hút một lực lượng lớn lao
động nông thôn nơi đây, điều này đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội rõ rệt cho
toàn tỉnh, song bên cạnh đó cũng nảy sinh những mặt tiêu cực như: ô nhiễm môi
trường, thu hẹp đất canh tác, truyền thống làng nghề dần bị mai một… Vấn đề thay đổi
cơ cấu việc làm và thu nhập đang là vấn đề nóng bỏng của người dân nơi đây.
Đông Phương Yên là một xã đồng bằng nằm phía Tây Nam của Huyện Chương
M ỹ - Hà Nội, xã nằm trong chuỗi quy hoạch đô thị Miếu M ôn – Xuân M ai – Hòa Lạc
– Sơn Tây, có đường quốc lộ 6A chạy qua và nằm giữa tam giác du lịch Hà Nội – Ba
Vì – Chùa Hương. Với những lợi thế về vị trí địa lý như trên Đông Phương Yên đã thu
hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư các dịch vụ và kinh doanh sản xuất, đặc biệt là cụm
công nghiệp Phú Nghĩa với diện tích gần 400 ha. Hơn nữa Đông Phương Yên lại có 6
thôn được công nhận là làng nghề Mây Tre Đan ( MTĐ) truyền thống. Đây được coi là
thế mạnh và đem lại thu nhập chính cho người dân trong xã. Tuy nhiên cũng từ khi
xuất hiện các KCN thu hút hầu hết lao động nữ trong các gia đình đi làm công nhân thì
hoạt động làng nghề không được duy trì như trước nữa, làng nghề truyền thống dần bị

mai một. Cũng trong quá trình này một số thanh niên không có việc làm ổn định,
không thích nghi kịp với sự thay đổi của xã hội nên mất định hướng nghề nghiệp. M ặt
khác, người phụ nữ nơi đây thường là những người có trình độ thấp, thời gian làm việc
kéo dài từ 12 đến 14 tiếng một ngày nên ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe, không có
thời gian chăm sóc bản thân và gia đình. Một số gia đình khác mất đất trong quá trình
quy hoạch các KCN, họ được đền bù một khoản tiền lớn nhưng không biết cách chi
tiêu hay đầu tư làm ăn, buôn bán, cuộc sống trở nên xáo trộn. Với mong muốn có cái
nhìn rõ hơn về vấn đề việc làm của người dân ở nơi đây nên tác giả tiến hành chọn đề
tài : “Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ (Hà
Tây cũ) sau khi sáp nhập Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp.
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu về những thay đổi trong việc làm và thu nhập,
những chuyển biến tích cực và tiêu cực trong việc làm của người dân xã Đông Phương
Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Từ đó đề ra những giải pháp giúp người dân phát huy
những mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực trong vấn đề việc làm, định
hướng tương lai cho lớp thanh niên, giúp cho lao động nữ kết hợp hài hòa cuộc sống
4

lao động và cuộc sống gia đình, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân
hòa nhập tốt nhất vào xu thế phát triển chung của xã hội.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân xã
Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội, từ đó đề ra một số giải pháp giúp giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng, ổn định cuộc sống cho người dân.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng việc làm của người dân xã Đông
Phương Yên – Chương M ỹ sau khi sáp nhập Hà Nội.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là người dân tại xã Đông Phương Yên – Chương
M ỹ - Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Sau khi sáp nhập Hà Nội, cơ cấu việc làm của người dân xã Đông Phương Yên

có những biến đổi mạnh mẽ. Đa số các lao động từ làm nghề MTĐ truyền thống
chuyển sang làm công nhân tại KCN, nhiều loại hình kinh doanh dịch vụ mới được
phát triển mạnh mẽ, một số lao động nông nghiệp bị mất đất trong quá trình đô thị hóa
dẫn đến tình trạng không tìm được công việc phù hợp hoặc công việc không ổn định.
Thu nhập của người dân trong xã tuy đã tăng lên nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh
nhiều vấn đề xã hội như về: ô nhiễm môi trường, thanh niên mất định hướng, tăng
thêm áp lực công việc cho phụ nữ…
Tìm hiểu thực trạng việc làm và định hướng giải pháp giải quyết việc làm cho
người dân sẽ giúp họ thích nghi được những thay đổi nhanh chóng trong quá trình đô
thị hóa nông thôn, cũng từ đó nâng cao được chất lượng cuộc sống
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu những lý luận cơ bản về việc làm và thất nghiệp, những nhân tố tác
động tới việc làm và nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường.
Khảo sát thực trạng việc làm và thu nhập của người lao động trước và sau khi sáp
nhập Hà Nội để thấy được những thay đổi trong cơ cấu việc làm, làm rõ những mặt
tích cực, những hạn chế trong vấn đề việc làm, những vấn đề xã hội mới nảy sinh sau
khi sáp nhập Hà Nội.
5

Đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết và ổn định việc làm, giúp người lao động
thích nghi với những thay đổi trong quá trình đô thị hóa nông thôn.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Cơ sở lý luận được sử dụng xuyên suốt trong đề tài là những lý luận chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Trong khóa luận còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, phương pháp diễn dịch, quy nạp…
Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. Trong
đề tài sẽ tiến hành thu thập và phân tích các văn bản, báo cáo tổng kết, các nghị
quyết… có liên quan đến cộng đồng của chính quyền địa phương, sau đó đọc, ghi chép
và tổng hợp lại những vấn đề về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương.

Đồng thời thu thập thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng (các báo,
Internet…) nhằm đối chiếu, so sánh với thực tế.
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng cùng
một số phương pháp liên ngành. Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số lý thuyết trong xã
hội học.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến
Mục đích: Nhằm thu thập những ý kiến của lao động làng nghề MTĐ về thực
trạng việc làm, những thay đổi về việc làm và thu nhập của người dân trước và sau khi
sáp nhập vào Hà Nội, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp để ổn định việc
làm, giữ gìn và phát huy truyền thống làng nghề MTĐ trên địa bàn xã Đông Phương
Yên.
Cách tiến hành: Trong phạm vi đề tài sẽ áp dụng phương pháp trưng cầu ý
kiến bằng cách phát cho người dân những phiếu trưng cầu ý kiến ( bao gồm 200 phiếu
trưng cầu ý kiến ), sau đó thu lại phiếu và xử lý về mặt định lượng, đinh tính, khái quát
hóa về thực trạng.



6

6.2.2 Phương pháp phỏng vấn
Mục đích: Nhằm thu thập thông tin đầy đủ hơn, sâu sắc hơn từ lãnh đạo chính
quyền địa phương, chủ các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn, người dân về vấn đề
việc làm của người dân làng nghề M TĐ Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội.
Cách tiến hành: Trong đề tài đã tiến hành 30 cuộc phỏng vấn sâu với người
dân, 8 cuộc phỏng vấn với chủ công ty, doanh nghiệp M TĐ, 6 cuộc phỏng vấn đối với
cán bộ địa phương nhằm thăm dò, gợi mở và khai thác các thông tin cần thiết phục vụ
cho quá trình nghiên cứu.
6.2.3 Phương pháp quan sát

Mục đích: Nhằm kết hợp với những phương pháp khác để thu thập và ghi chép
các thông tin, ghi nhận các yếu tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu cảu đề tài.
Cách tiến hành: Tiến hành quan sát thực tế những việc làm mà người dân tham
gia, cả trong lao động làng nghề hay làm công nhân tại khu công nghiệp. Quan sát về
đời sống, sinh hoạt của cộng đồng dân cư, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Từ đó thấy được những thuận lợi, khó khăn, nhu cầu của người dân trong vấn
đề việc làm.
6.3 Phương pháp chọn mẫu
Trong quá trình nghiên cứu do không thể nào khảo sát trên toàn bộ đối tượng
nghiên cứu. Vì vậy tác giả đã tiến hành chọn mẫu nhằm tìm ra tập hợp khách thể đại
diện cho tập hợp xã hội lớn. Những kết luận rút ra từ các tập hợp đại diện có thể đại
diện cho cả tổng thể.
Trong phạm vi đề tài này tác giả tiến hành chọn mẫu là 200 người trên tổng số
lao động của xã Đông Phương Yên.
6.3.1 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định tính
Tiến hành các cuộc phỏng vấn với cán bộ địa phương: Chủ tịch xã, Chủ tịch
Hội nông dân xã, Chủ tịch Hội phụ nữ xã, Phó Bí thư Đoàn xã, cán bộ LĐTB & XH,
cán bộ văn hóa xã hội… Phỏng vấn chủ các công ty, doanh nghiệp M TĐ trên địa bàn
xã và người dân trong 5 thôn. Vận dụng những thông tin thu được vào nghiên cứu giúp
đảm bảo tính đúng đắn và độ tin cậy của thông tin.
6.3.2 Phương pháp chọn mẫu cho thông tin định lượng
7

Là thông tin lượng hóa các thông tin định tính nhằm xác định độ lớn, kích cỡ và
sức ảnh hưởng của các sự kiện, hiện tượng khác bổ sung cho thông tin định tính.
Trong đề tài tác giả tiến hành chọn mẫu cho thông tin định lượng là 200 lao
động nông thôn trên tổng số lao động toàn xã qua tiến hành phát 200 bảng hỏi để làm
cơ sở cho thông tin định lượng.
7. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về nội dung nghiên cứu: Việc làm của người dân bao gồm nhiều ngành nghề,

công việc khác nhau nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả tập trung
vào làm rõ thực trạng việc làm của lao động nông nghiệp, thợ thủ công, công nhân và
tiểu thương tại xã Đông Phương Yên – Chương M ỹ sau khi sáp nhập vào Hà Nội (Từ
ngày 01/8/2008 đến nay), so sánh với việc làm của người dân trước khi sáp nhập Hà
Nội để thấy rõ được những biến đổi về cơ cấu việc làm và thu nhập của người dân
trong xã.
Về thời gian nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu trong thời gian từ tháng 3/2011
đến tháng 5/2011.
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận được cấu trúc gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó phần nội dung bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên – Chương
M ỹ sau khi sáp nhập Hà Nội.
Chương 3: Nhận định tiềm năng, thế mạnh và đề xuất một số giải pháp giải
quyết việc làm cho người dân xã Đông Phương Yên – Chương Mỹ - Hà Nội.






8

PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1 Cơ sở lý luận về việc làm
1.1.1 Khái niệm việc làm
M ọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm.[4]

Thông thường: Người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực,
ngành nghề đang hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm, đem lại thu nhập nuôi
sống bản thân và gia đình, đồng thời góp một phần cho xã hội. [2]
Việc làm bao hàm việc tạo ra các sản phẩm vật chất và các hoạt động xã hội.
Việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ sản xuất, quản lý, hoặc biến đổi các tài nguyên
cần thiết để phục vụ đời sống. Việc làm cần sự đóng góp của các yếu tố tài nguyên đất
đai, lao động, vốn, thời gian, thông tin – kỹ thuật. Kết quả của việc làm có thể là sản
phẩm vật chất ( hàng hóa ) hoặc sản phẩm không vật chất ( thông tin, thiết chế xã hội,
luật pháp, niềm tin). Giá trị của việc làm không chỉ được đánh giá dựa vào giá trị kinh
tế mà còn phải xem xét cả về mặt giá trị xã hội và ý nghĩa đối với cá nhân đó.
1.1.2 Các thành tố của việc làm
Có thể nghiên cứu và đo lường việc làm dựa vào 10 thành tố sau đây:
Năng lượng: Cần tiêu phí một số năng lượng sức lực hay chất xám để làm
chuyển đổi, duy trì, sản xuất một vật hay một việc gì trong một hệ thống nhất định để
đạt mục đích đặt ra. Việc làm không chỉ đo lường bởi sản phẩm vật chất làm ra mà còn
là những sản phẩm không vật chất (thông tin, thiết chế xã hội, niềm tin…). Đó là
những việc làm của công nhân, người quản lý, nhân viên xã hội, nghệ sĩ, nhà truyền
giáo,…
Phần thưởng kinh tế và tinh thần: Tiền lương và tiền thưởng là mặt kinh tế của
việc làm, vị thế xã hội, danh dự cá nhân, quyền hành (quyền trong gia đình và uy tín
trong cộng đồng) là phần thưởng về mặt xã hội và tâm lý. Động cơ phần thưởng của
việc làm rất khác nhau đối với nam nữ và đối với các bối cảnh làm việc khác nhau ( đi
9

làm để kiếm tiền, đi làm để có thêm bạn, thêm kiến thức hoặc để thỏa mãn niềm đam
mê của bản thân,…)
Tài nguyên: Việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ cần thiết nào đó, cần sử
dụng một số tài nguyên như vốn, nguyên liệu, thời gian, tay nghề và một số quyền hạn
xã hội cho phép để phục vụ đời sống. Mỗi tài nguyên được đánh giá căn cứ vào giá trị
kinh tế, giá trị xã hội và giá trị của chính cá nhân người đánh giá.

Gíá trị: Giá trị của việc làm thay đổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cá
nhân. Việc đánh giá một việc làm có hiệu quả, có năng suất, có giá trị tùy thuộc rất
nhiều quan điểm của người đánh giá. Sự đánh giá này mang tính tương đối. Đánh giá
một việc làm thường không dựa theo tiến trình mà thường dựa theo giá trị cụ thể trước
mắt của sản phẩm làm ra, vì vậy mà sản phẩm của những người mẹ, nhân viên xã hội,
nhân viên văn phòng, nhà chính trị không được nhìn thấy, không được đánh giá đúng
mức. Mỗi việc làm có đặc điểm văn hóa riêng không thể xem xét với cùng một tiêu chí
đánh giá ( Ví dụ: hôn nhân và quản lý không thể được đánh giá bằng một thang đo
lường như nhau).
Thời gian: Giá trị của việc làm thay đổi tùy thuộc vào việc đó được làm khi nào
(ví dụ: sản phẩm ngoài giờ có giá trị gấp đôi sản phẩm làm trong giờ), một số công
việc được làm một cách dễ dàng hơn nhờ có kinh nghiệm ( tích lũy theo thời gian),
nhưng một số việc làm khác sẽ trở nên khó khăn hơn khi tuổi càng cao. Mặt khác, giá
trị thời gian tiêu phí đôi khi không được kể đến trong một vai công việc nhưng lại
được đánh giá cao trong một số công việc khác ( Ví dụ: việc nội trợ và cấp dưỡng tại
xí nghiệp). Việc làm nhằm hoàn thành một nhiệm vụ cần thiết không chỉ về mặt kinh
tế mà còn về mật xã hội nữa, vì thế giá trị thời gian phải được kể đến. (Ví dụ: làm
ngoài giờ).
Nơi làm việc: Nhiều giá trị của việc làm được đồng hóa với nơi làm việc (Ví dụ:
rửa chén tại nhà không được coi trọng như rửa chén tại khách sạn, may gia công ở nhà
rẻ hơn may trong xí nghiệp).
Người lao động: Giá trị của việc làm cũng được đánh giá khác nhau do ai là
người làm việc ấy. Trong xã hội có một số công việc được xem như là “thích hợp”
cho một số người không chỉ vì yêu cầu chuyên môn, tay nghề của họ mà còn do sự
10

giới hạn của phong tục, do bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của một giai tầng xã hội (Ví dụ:
âm nhạc và thể thao được cho là thích hợp với người da đen). Bởi vì quyền lợi kinh tế,
danh dự và uy tín xã hội của cá nhân gắn liền với việc làm nên sự chuyên môn hóa
hoặc sự phân biệt chuyên môn trong phân công lao động được củng cố dưới 3 hình

thức:
Do luật quy định (Ví dụ: ở thế kỉ trước, phụ nữ không thể là thẩm phán, người
da màu không thể là thị trưởng).
Do phong tục quy định (Ví dụ: ở xã hội đạo Hồi, công việc trong nhà là công
việc chuyên môn của phụ nữ còn việc buôn bán ngoài chợ là của đàn ông).
Do cá nhân tự chọn.
Kỹ thuật: Công cụ là một khía cạnh của việc làm. Công cụ có kỹ thuật cao thì
đỡ tốn kém thời gian, năng lượng và năng suất cao hơn. Kỹ thuật không đơn thuần chỉ
là công cụ sản xuất hoặc công cụ của việc làm mà còn mang ý nghĩa sử dụng khác: khi
người lao động bị đưa vào hệ thống sản xuất như là một yếu tố kỹ thuật thì sức người
trở nên bị bóc lột.
Tâm lý đồng hóa hoặc xa lạ với việc làm: Cá nhân hoặc nhóm người thường
đồng hóa mình với vai trò của công việc hoặc một mặt của công việc nào đó. Sự đồng
hóa này có liên quan mật thiết đến sự đầu tư cá nhân trong tiến trình hoạt động xã hội.
Nếu đồng hóa toàn tâm với một công việc nào đó quá mức sẽ sao lãng các vai trò khác
và bị căng thẳng, dẫn đến “bệnh nghiện làm việc”. Ngược lại với bệnh “nghiện làm
việc” là tâm lý xa lạ với việc đang làm. M ức độ xa lạ sẽ cao nhất khi người công nhân
bị đối xử như là một cái máy và có ít quyền hạn nhất đối với sản phẩm do họ làm ra.
Sản phẩm phản chiếu cái tôi của người lao động, vì thế giá trị của người lao động cũng
nhân lên từ giá trị sản phẩm.
Sự phân công lao động theo giới tính: Trong nền kinh tế chính trị có giai cấp,
sự phân công lao động ám chỉ sự chuyên môn hóa của một tiến trình mang tính kỹ
thuật và kinh tế, một số nhà xã hội hóa hiện đại đã mở rộng khái niệm này bao gồm cả
sự phân chia lao động theo giới tính. Đó là sự phân công những hoạt động, những vai
trò trong xã hội cho cả nam và nữ. Nhìn chung phụ nữ ít khi được theo học lên các cấp
học cao. (Ví dụ: khoảng 2/5 sinh viên nữ tốt nghiệp cử nhân nhưng chỉ có 1/4 nữ tốt
11

nghiệp trên đại học. Thật vậy, phụ nữ thường được đào tạo ít hơn nam giới. M ột chi
tiết mà mọi người đều biết để minh họa cho sự không cân đối về giới trong lĩnh vực

giáo dục là phụ nữ có khuynh hướng học một số ngành xã hội và thường tránh các
ngành khoa học kỹ thuật. Sự lựa chọn ngành học đã ảnh hưởng đến cơ hội hành nghề
dành cho phụ nữ. Sự bất lợi trong nghề nghiệp của phụ nữ có liên quan chặt chẽ đến
vai trò của phụ nữ trong gia đình Khi gánh nặng lao động trong nhà rơi lên vai phụ
nữ thì họ sẽ bị giới hạn trong việc lựa chọn nghề nghiệp.
Trong khi sự phân chia lao động theo giới tính thường được giải thích là do sự
khác nhau về sinh học phù hợp với chức năng sinh sản của phụ nữ, nhưng phái nữ
quyền xem sự phân chia lao động này là kết quả của chế độ phụ quyền phong kiến
phân biệt đối xử đối với phụ nữ, bởi vì tư bản và phong kiến cho rằng lãnh địa thích
hợp cho phụ nữ là ở trong nhà và lãnh địa của nam giới là ở bên ngoài xã hội.
1.1.3 Thiếu việc làm
1.1.3.1 Khái niệm

Là tình trạng người LĐ có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan họ phải
làm việc không đủ thời gian theo lộ trình hoặc làm những công việc có thu nhập thấp
không đủ sống và muốn tìm thêm việc làm bổ sung.
1.1.3.2 Phân loại
Thiếu việc làm vô hình: Là những người có đủ việc làm và làm đủ thời gian,
thậm chí còn quá thời gian quy định nhưng thu nhập thấp do tay nghề, kỹ năng lao
động thấp, điều kiện lao động xấu, tổ chức lao động kém, cho năng suất lao động thấp
và thường có mong muốn tìm công việc khác có thu nhập cao hơn.
Thiếu việc làm hữu hình: Là hiện tượng người LĐ làm việc với thời gian ít
hơn quỹ thời gian quy định, không đủ việc làm và đang có mong muốn tìm thêm việc
làm và luông sẵn sàng để làm việc.
1.1.4 Tạo việc làm
1.1.4.1 Khái niệm
Tạo việc làm là quá trình kết hợp các yếu tố : vốn đầu tư, sức lao động, nhu cầu
thị trường về sản phẩm để người LĐ tạo ra các của cải vật chất (số lượng, chất lượng),
sức lao động (tái sản xuất sức lao động) và các điều kiện kinh tế xã hội khác.
12


1.1.4.2 Phân loại
Tạo việc làm ổn định: Công việc được tạo ra cho người LĐ mà tại chỗ làm việc
đó và thông qua công việc đó họ có thu nhập lớn hơn mức thu nhập tối thiểu hiện hành
và ổn định theo thời gian từ 3 năm trở lên. Việc làm ổn định luôn tạo cho người LĐ
tâm lý yên tâm trong công việc để lao động hiệu quả hơn.
Tạo việc làm không ổn định: Được hiểu theo hai nghĩa. Đó là:
Công việc ổn định nhưng người LĐ phải luôn năng động theo thời gian, thường
xuyên thay đổi vị trí làm việc nhưng vẫn thực hiện cùng một công việc.
Công việc làm không ổn định mà người LĐ phải thay đổi công việc của mình
liên tục trong thời gian ngắn.
1.1.5 Thất nghiệp
1.1.5.1 Khái niệm
Là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng LĐ muốn làm việc nhưng
không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành. ( Theo ILO)
1.1.5.2 Phân loại
Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển LĐ trên thị trường LĐ, trong
thời gian di chuyển người LĐ không có việc làm.
Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động,
việc làm. Sự không ăn khớp giữa số lượng và chất lượng đào tạo và cơ cấu về yêu cầu
việc làm.
Thất nghiệp tự nguyện: Là tình trạng người LĐ không muốn làm việc vì nhiều
lý do khác nhau.
Thất nghiệp trá hình: Là tình trạng người LĐ được sử dụng dưới mức khả
năng của họ.
1.1.6 Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương pháp,
phương hướng, công cụ và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Nó
được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp lý được Quốc hội thông qua và Nhà nước ban
hành. Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhằm đảm

bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Dưới góc độ chính sách việc làm thì để hạn
13

chế thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo điều kiện cho
người lao động tránh được nguy cơ thất nghiệp, đồng thời có chính sách hỗ trợ cho
người lao động khi họ có nguy cơ thất nghiệp. [5]
1.1.7 Giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi
người có khả năng lao động, có cơ hội được làm việc với chất lượng việc làm ngày
càng cao. [5]
1.1.8 Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể hiện
vai trò của xã hội đối với người LĐ, sự quan tâm của xã hội về đời sống vật chất, tinh
thần của người LĐ và nó cũng là cầu nối trong mối quan hệ giữa xã hội với người LĐ.
Việc làm la nơi diễn ra những hoạt động của người LĐ, những hoạt động này được
công nhận qua những công việc mà họ đã làm và nó cũng là nơi để họ thể hiện kết quả
học tập của mình đó là trình độ chuyên môn.
Tạo việc làm là vấn đề chính để người LĐ có việc làm và có thu nhập để tái sản
xuất sức LĐ xã hội, giảm tỉ lệ thất nghiệp, do đó hạn chế được những phát sinh tiêu
cực do thiếu việc làm gây ra.
Tạo việc làm đáp ứng nhu cầu lao động của con người vì lao động là phương tiện
để tồn tại chính của con người, do đó mọi chủ trương, chính sách đúng đắn là phải
phát huy cao độ khả năng nguồn lực của con người, nếu có sai phạm thì nguồn lao
động sẽ trở thành gánh nặng, thậm chí gây trơ ngại, tổn thất lớn cho nền kinh tế cũng
như xã hội. Vì vậy một quốc gia giả quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động là
thành công lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và chính trị của mình.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm
1.2.1 Tài nguyên đất đai
Đất đai là một yếu tố của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt không chỉ đối với
nông nghiệp mà còn đối với công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp…Trong quá trình

đô thị hóa diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, nhất là những vùng nông thôn
ven đô thị lớn, thị xã, thị trấn, hai bên trục đường giao thông…Cùng với quá trình đô
thị hóa khá mạnh, lao động nông thôn có xu hướng tăng lên. Tình hình trên dẫn đến
14

bình quân diện tích đất canh tác trên một lao động nông thôn Việt Nam vào loại thấp
nhất thế giới và do đó thời gian sử dụng ngày công nông nghiệp rất thấp. Theo tài liệu
điều tra, chỉ có 18% lao động nông nghiệp làm 210 ngày/ năm, còn lại làm dưới 200
ngày/ năm, trong đó 21% chỉ làm việc 90 ngày/ năm (mỗi ngày làm bình quân từ 4 – 5
giờ). Theo tính toán, nếu căn cứ vào quỹ đất và làm thuần nông, lao động nông thôn
dư thừa ít nhất 30%, tương đương 8 – 9 triệu người.
Hiện nay, nước ta khoảng 3 triệu ha đất nông nghiệp có khả năng khai thác, 9
triệu ha rừng và đất trồng, đồi trọc, 90 vạn ha mặt nước, ao, hồ và hàng vạn ha đất ven
biển. Nếu có chính sách tốt, diện tích này sẽ giải quyết được việc làm cho hàng triệu
lao động. Tuy nhiên việc sử dụng đất trong các doanh hiệp nông – lâm nghiệp còn
nhiều lãng phí. Theo quy hoạch đất giành cho các nông, lâm trường quốc doanh lên tới
1,2 triệu ha, nhưng thực tế mới sử dụng khoảng 40%, trong khi đó người dân lại thiếu
đất canh tác. Vì vậy việc di dân xây dựng vùng kinh tế mới là hướng quan trọng để
giải quyết việc làm cho các vùng nông thôn, trước hết là vùng đồng bằng sông Hồng –
nơi có mật độ dân số cao nhất nước, khoảng 800 người / km
2
. [3]
1.2.2 Máy móc, thiết bị
Đối với lĩnh vực lao động việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ mang
lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng tạo
ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, việc phổ biến
các phương tiện tự động hóa sẽ làm cho những nước có sức lao động rẻ và dư thừa bị
mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật và giảm lao
động giản đơn, kỹ năng thấp. Như vậy, trong xã hội hiện đại chất lượng nguồn nhân
lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không

lường trước được hiện tượng này sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân
lực. Khi khoa học công nghệ phát triển chắc chắn sẽ gia tăng xu hướng thất nghiệp của
đội ngũ công nhân không lành nghề, do đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói
chung là giải pháp cơ bản để hạn chế thất nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này,
trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của của các cơ
quan hoạt động trong lĩnh vực lao động việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình
việc làm quốc gia thông qua nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho nông dân, phát triển
15

nông thôn, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng
và dịch vụ xã hội. [3]
1.2.3 Dân số và tỷ lệ tăng dân số
Tốc độ gia tăng dân số nước ta những năm trước đây là quá nhanh, nên số người
bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ tạo việc làm cho người lao động
không tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động, đó là một sức ép lớn. Ngoài ra
còn phải kể đến sức ép của số lao động bị mất việc làm do tác động của khủng hoảng
kinh tế, của sức cạnh tranh yếu của nền kinh tế nước ta. Các số liệu thống kê và dự báo
dân số cho thấy, năm 1990 số người trong độ tuổi lao động mới là 35.7 triệu người,
năm 2000 là 46.5 triệu và năm 2015 con số này sẽ lên tới 62 triệu người. Vì vậy các
chính sách nhằm giảm tốc độ gia tăng dân số là một trong những biện pháp làm giảm
sức ép về giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp. [3]
1.2.4 Thị trường hàng hóa sức lao động (thị trường lao động)
Ở nước ta hiện nay quan hệ cung cung – cầu về lao động trên thị trường có
những biểu hiện sau:
Một là: Trên phạm vi cả nước, cung lớn hơn cầu về lao động và tình trạng này
tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn đến sức ép lớn về việc làm. Mỗi năm có
khoảng 1.1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Khả năng tự giải quyết việc làm
của số lao động này là rất khác nhau nhưng có đặc điểm là thường không được đào tạo
nghề. Vì vậy công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở thành vấn đề cấp bách và có tính
chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của lao động trên

thị trường.
Hai là: Lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ làm
thuần nông, tự cung, tự cấp thì số lao động thiếu việc làm hoặc không có việc làm lên
tới 30%. Số này sẽ tự phát di chuyển ra thành phố hoặc khu công nghiệp tập trung để
tìm kiếm việc làm làm cho cung về lao động trên thị trường càng lớn.
Ba là: Quan hệ cung cầu về lao động còn chưa ổn định về mặt cơ cấu, dẫn đến
tình trạng “thất nghiệp cơ cấu”. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành tiềm năng còn
lớn có khả năng thu hút được nhiều lao động, nhưng chưa tạo ra được những điều kiện
để biến khả năng thành hiện thực (về vốn, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ, thị
16

trường tiêu thụ…). Trong lâm, nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch ở một vùng
miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển vẫn thiếu lao động nhưng khả năng di
dân và di chuyển lao động đến rất hạn chế.
Trong khi đang có xu hướng lao động bị đẩy ra ở một số lĩnh vực, thì đồng thời
một số lĩnh vực và hình thức khác lại có khả năng thu hút thêm lao động như kinh tế
hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ…nhưng chưa có chính sách khuyến khích thỏa đáng.
Đặc biệt là thiếu đội ngũ lao động có trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp
dụng công nghệ mới hoặc trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. [3]
1.2.5 Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các chính
sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tạo ra
nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, các hình thức kinh tế, các vùng phát triển, tạo
nhiều việc làm mới, đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người lao
động. Chủ trương về tạo việc làm đã được Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: “Khuyến
khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo
nhiều việc làm cho người lao động. M ọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê
mướn nhân công theo pháp luật. Phát triển về dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại
dân cư và lao động trên địa bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến

lược về kinh tế, an ninh quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu.
Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”. [3]
1.3 Phát triển cộng đồng
1.3.1 Khái niệm
Cộng đồng: là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người sống
chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh học nào đó và
cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào đấy. Phát triển cộng
đồng: là những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính
quyền để cải thiện cac điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp
các cộng đồng này hội nhập và đồng thời đóng góp vào đời sống quốc gia. ( Định
nghĩa chính thức của Liên Hiệp Quốc, 1956).
17

Định nghĩa này nhấn mạnh hai yếu tố:
Sự tham gia của người dân với sự tự lực tối đa.
Sự hỗ trợ về kỹ thuật và dịch vụ của nhà nước để khuyến khích sang kiến, sự tự
giúp, những cố gắng của người dân.
1.3.2 Nội dung phát triển cộng đồng
Quản lý tài nguyên cộng đồng: Gồm quản lý môi trường cộng đồng, xử lý các
thảm họa thiên tai, phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất.
Giáo dục cộng đồng: giúp trang bị kiến thức, sự hiểu biết và kĩ năng làm việc,
lao động cho người dân. Bao gồm:
Gây nhận thức hoặc thức tỉnh chính quyền địa phương và cộng đồng về tình
trạng hiện tại của cộng đồng.
Hình thành giá trị cộng đồng, giúp thay đổi nhận thức, thái độ, hình vi tiêu cực,
đề cao giá trị tích cực, khơi dậy truyền thống cần cù, hiếu học, tương thân, tương trợ.
Phát triển kĩ năng làm việc chung.
Tổ chức cộng đồng. bao gồm:
Củng cố các tổ chức có sẵn như các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội tại cộng
đồng.

Thành lập các nhóm nhỏ, nhóm mới hoặc các câu lạc bộ, tổ chức các ngành nghề
như các tổ sản xuất, câu lạc bộ nghề nghiệp trong cộng đồng.
Mở rộng, liên kết với các nhóm khác, tiến đến thành lập hiệp hội, hợp tác xã…
1.3.3 Nguyên tắc hành động trong phát triển cộng đồng
Để thực hiện PTCĐ thì cần tuân thủ 10 nguyên tắc hành động như sau:
Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của người dân.
Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của họ.
Tin tưởng vào dân, vào khả năng thay đổi và phát triển cảu họ.
Khuyến khích người dân cùng thảo luận, lấy quyết định chung, hành động chung
để họ đồng hóa mình với những chương trình hành động.
Bắt đầu từ những hoạt động nhỏ dẫn đến những thành công nhỏ.
18

Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải quyết được
một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạnh tổ chức tự nguyện của người
dân.
Cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và phát sinh các hoạt
động chung, qua đó các thành viên vừa đạt cảm xúc tự hoàn thành nhiệm vụ vừa góp
phần phần cải thiện an sinh cho nhóm. Cả hai điều này đều quan trọng như nhau.
Quy trình “ Hành động – Suy ngẫm rút kinh nghiệm – Hành động mới” cần áp
dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn, trình độ quản lý cao
hơn.
Nếu điều hành có hiệuh quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để tổ chức
nhóm trưởng thành.
Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để có thêm hỗ trợ và hợp tác với
nhau. [1]
1.3.4 Mục tiêu phát triển cộng đồng
Phát triển kỹ năng và khả năng tổ chức của người dân, giúp cộng đồng biết cách
lập kế hoạch xã hội.
Nối kết các đầu tư kinh tế xã hội vào nhóm cộng đồng nghèo cơ sở.

Ủng hộ cho sự liên kết rộng rãi các tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề cộng
đồng.
Tạo sự quan tâm về công bằng xã hội trong tiến trình lập kế hoạch xã hội.
1.3.5 Tiến trình phát triển cộng đồng
PTCĐ là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn. Mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là giúp
cho cộng đồng đi từ thực trạng yếu kém để phát triển, đóng góp vào sự phát triển của
xã hội. Để đạt được mục tiêu đó PTCĐ phải có một tiến trình với từng bước đi cụ thể.






19

Tiến trình PTCĐ được thể hiện:

Sơ đồ 1.1 Tiến trình phát triển cộng đồng

Cộng đồng thức tỉnh: Từ một cộng đồng còn yếu kém, PTCĐ cần đi sâu vào làm
cho người dân ở đó hiểu được thực trạng của chính mình thông qua các cuộc trao đổi
thảo luận, điều tra về các nhu cầu và các vấn đề khó khăn, cũng như tiềm năng và
những thuận lợi. Từ đó làm cho cộng đồng hiểu và tích cực hợp tác để dần thay đổi
vấn đề của chính mình.
Cộng đồng tăng năng lực: Biết rõ vấn đề của chính mình, mình có gì, mình
muốn gì thì cộng đông đó phải tăng năng lực phát huy nguồn tài nguyên mà cộng đồng
vốn có hay qua quá trình tập luyện. Thông qua đó cộng đồng khắc phục được những
hạn chế và tăng cường kiến thức, kỹ năng để hành động. Ngoài ra còn phải liên kết các
tổ chức lại để cùng hành động hiệu quả vì mục tiêu chung.
Cộng đồng tự lực: Mục đích cuối cùng của PTCĐ là thông qua các tác động từ

bên ngoài với nội lực bên trong được phát huy và tăng cường cộng đồng sẽ trở thành
cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng hoảng
không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn cộng đồng có thể tự huy động tài nguyên bên
Phát huy
tiềm năng
Hu
ấn luyện

Hình th
ức các
nhóm liên kết
CĐ yếu kém
CĐ thức tỉnh
CĐ tăng năng
lực
CĐ tự lực
Tìm hi
ểu v
à
phân tích
Tăng cư
ờng
động lực tự
nguyện

ợng giá chung

20

trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Qua mỗi lần như vậy cộng đồng sẽ tăng

trưởng và tự lực hơn.
Như vậy: Dựa trên những cơ sở lý luận về những vấn đề liên quan đến việc
làm, thất nghiệp, những nhân tố tác động tới việc làm để nhận định, phân tích thực
trạng việc làm của người dân xã Đông Phương Yên sau khi sáp nhập Hà Nội. Giải
quyết, ổn định việc làm là một trong những giải pháp giúp cộng đồng phát huy tối đa
tiềm năng, thế mạnh của mình, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đây cũng là một trong
những mục tiêu của phát triển cộng đồng,



















CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI
DÂN XÃ ĐÔNG PHƯƠNG YÊN SAU KHI SÁP NHẬP HÀ NỘI
21


2.1 Bối cảnh kinh tế – văn hóa xã hội trên địa bàn xã Đông Phương Yên
2.1.1 Vị trí địa lý, địa hình, dân cư
Đông Phương Yên là một vùng bán sơn địa cách trung tâm huyện Chương M ỹ
khoảng 7km về phía Tây. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 628,23 ha. Toàn xã có
2.459 hộ với 10.140 nhân khẩu được phân bố ở 7 thôn gồm: thôn 1, thôn 2, thôn 3,
thôn Đông Cựu, thôn Yên Kiện, thôn Lũng Vị, thôn Tân Phương.
Xã có đường quốc lộ 6A chạy qua với chiều dài là hơn 1000m rất thuận tiện
cho việc trung chuyển hàng hóa từ Tây Bắc xuống Thủ đô Hà Nội và ngược lại.
Các mặt tiếp giáp của xã:
Phía Đông : giáp xã Trung Hòa, Trường Yên.
Phía Tây: giáp xã Đông Sơn.
Phía Nam: giáp xã Thanh Bình.
Phía Bắc: giáp xã Đồng Quang.
2.1.2 Điều kiện kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế của xã năm 2010 là 9%. Cơ cấu kinh tế của xã là:
Nông nghiệp: 31 %
Tiểu thủ công nghiệp: 20%.
Kinh doanh, dịch vụ: 49 %.
- Thu nhập bình quân đầu người của người dân trong xã năm 2010 là
7.510.000đ/ năm. Tổng thu nhập trên các lĩnh vực từ kinh tế của toàn xã:
Nông nghiệp, chăn nuôi: 24,79 tỷ.
Tiểu thủ công nghiệp: 16 tỷ.
Kinh doanh, dịch vụ : 49 tỷ.
Tổng thu là : 78,14 tỷ.
- Cụ thể trên từng lĩnh vực kinh tế như sau:
 Sản xuất Nông nghiệp:
- Về trồng trọt:
+ Vụ xuân 2010: Thực hiện gieo trồng được 883,9 mẫu. Trong đó:
Cây lúa: 747 mẫu ( 84,34 % ).
Cây màu :136,6 mẫu ( 15,45 % ).

22

Năng suất lúa bình quân 214,2 kg / sào. Sản lượng đạt 1601,1 tấn.
+ Vụ mùa 2010: Thực hiện gieo trồng được 865,8 mẫu. Trong đó:
Cây lúa: 818,9 mẫu ( 94,6 % ).
Cây màu: 47,1 mẫu ( 5,4 % ).
Năng suất lúa bình quân là 174,6 kg / sào. Sản lượng đạt 1429,2
tấn.
Tổng sản lượng lúa cả năm là : 3130,3 tấn.
Tổng giá trị cây lúa là : 17,216 tỷ đồng.
Tổng giá trị cây màu là: 1,228 tỷ đồng.
Bình quân lương thực là 301 kg/ người/ năm.
- Về chăn nuôi:
Do chủ động trong việc phòng chống dịch bệnh và thời tiết thuận lợi nên tất cả
đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn xã đều tăng so với 2009. Cụ thể như sau: Đàn bò dê:
374 con; Lợn nái: 418 con, Lợn thịt: 2.238 con, Lợn con theo mẹ: 2.520 con; Trâu,
nghé: 34 con; Gia cầm: 29.679 con.
Ước thu từ chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản trong xã đạt 6,256 tỷ đồng.
 Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ:
- Ước thu từ sản xuất MTĐ = 16 tỷ đồng. Trong đó:
Từ 2.600 lao động có việc làm = 13,74 tỷ.
Từ các công ty, doanh nghiệp = 1,9 tỷ.
Từ chủ thu gom nhỏ = 0,36 tỷ.
- Ước thu từ thương mại dịch vụ và các ngành nghề khác = 37,35 tỷ.
2.1.3 Đặc điểm văn hóa – xã hội
Về cơ sở hạ tầng
Các công trình hạ tầng được quan tâm như: điện, đường, trường, trạm ngày một
khang trang, cán bộ và nhân dân vui mừng, phấn khởi.
Toàn xã có 8km đường làng ngõ xóm được bê tông hóa. Xây mới công trình
nghĩa trang tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Có trường Tiểu học và Trung học cơ sỏ

đảm bảo theo tiêu chuẩn của Bộ giáo dục và đào tạo, xây mới 12 phòng học kiên cố.
23

Trạm y tế cũng được xây mới, đày đủ tiện nghi, bảo đảm việc khám chũa bệnh cho
nhân dân trong xã. Tổng giá trị đầu tư khoảng trên 14 tỷ đồng.
Về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Trụ sở UBND Xã Đông Phương Yên:
Trụ sở làm việc, hội trường của Đảng uỷ - HĐND – UBND xã được xây dựng
kiên cố, diện tích và khuôn viên là 6.603 m
2
được chia thành 3 khối đó là: Khối Đảng,
Khối chính quyền và Khối đoàn thể.


Hình 2.1 Trụ sở chính UBND Xã Đông Phương Yên.
Nhìn chung các phòng đều được trang bị các thiết bị văn phòng tương đối đầy
đủ. Mỗi phòng đều có các tủ đựng hồ sơ, điện thoại, máy vi tính nối mạng, máy in.
Cán bộ, nhân viên làm việc ở văn phòng xã có bàn ghế làm việc, ghế cho người dân
ngồi trong khi chờ đợi giải quyết công việc, quạt, điện và ánh sáng tốt, môi trường
trong lành. Uỷ ban nhân dân xã Đông Phương Yên được tổ chức, sắp xếp và bố trí
không gian hợp lí nên luôn thoáng mát, yên tĩnh. Đặc biệt xã có một hội trường lớn
dành riêng cho các cuộc họp.
24

.
Hình 2.2 Hội trường chính UBND Xã Đông Phương Yên.
Các khối đoàn thể và hội trường được xây dựng khang trang, hài hòa,
hợp lý đảm bảo các nhu cầu về an toàn vệ sinh lao động của cán bộ công chức, nhân viên,
có hệ thống, phòng cháy, chữa cháy.
Về văn hóa
Ban văn hóa tổ chức tốt công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo các hoạt động chào mừng ngày Đại lễ, ngày kỉ
niệm như: treo băng cờ, khẩu hiệu, tuyên truyền lưu động, phối hợp tổ chức giao lưu
văn hóa, văn nghệ. Năm 2010 qua bình xét đã có 1.304 hộ đạt gia đình văn hóa chiếm
72,53% số hộ trên toàn xã.
Trên địa bàn xã có 3 ngôi đình, 4 ngôi chùa. Trong đó có 2 ngôi đình, 2 ngôi
chùa và một nhà thờ họ được UBND Tỉnh Hà Tây ( cũ ) có quyết định xếp hạng di tích
lịch sử văn hóa cấp tỉnh và một làng được công nhận là làng văn hóa cấp huyện. Xã có
6/7 thôn được cấp bằng làng nghề M TĐ truyền thống.
Phong trào xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội
được đông đảo cán bộ và nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Về công tác y tế - kế hoạch hóa gia đình.
- Về y tế: Trạm y tế đã làm tốt công tác trực, khám và điều trị cho nhân dân.
Năm 2010 đã khám và chữa trị cho 6.542 lượt người, khám bảo hiểm y tế cho 3.283
lượt người, bảo hiểm trẻ em là 1.222 lượt. Số người điều trị ngoại trú 3.745 người.
25

Tuyên truyền tốt về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, tập huấn về an toàn
thực phẩm cho các chủ hàng ăn trên địa bàn xã, làm tốt công tác phòng dịch, tuyên
truyền phòng chống dich cúm A H1N1. Giữ vững danh hiệu xã chuẩn Quốc gia về y
tế.
- Về kế hoạch hóa gia đình:.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,6%.
Số trẻ sinh ra trong năm 2010 là 211 trẻ.
Số trẻ là con thứ 3 trở lên là 41 trẻ.
Trên địa bàn xã đã tổ chức được 03 đợt khám sức khỏe sinh sản cho 648 lượt
chị em, đặt dụng cụ tử cung 170 trường hợp, uống thuốc tránh thai 96 trường hợp, bao
cao su 132 trường hợp.
Về hoạt động chính sách xã hội
- UBND xã chỉ đạo cán bộ LĐTB & XH làm tốt công tác chính sách xã hội,
nhận và chi trả trợ cấp xã hội cho các đối tượng đúng chế độ và thời gian quy định.

Năm 2010 đã nhận và chi trả kịp thời các khoản trợ cấp cho các đối tượng trong xã, cụ
thể như sau:
Lương hưu và trợ cấp xã hội : 4.169 triệu đồng.
Trợ cấp người nghèo :248 triệu đồng.
Trợ cấp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội: 139 triệu đồng.
- Tiếp nhận và giải quyết kịp thời chế độ chính sách cho 118 lượt đối tượng, tổ
chức triển khai rà soát đề nghị công nhận cho 266 hộ nghèo = 11,96 %. Đã hoàn thiện
hồ sơ cấp thẻ BHYTcho 2.526 đối tượng. Phối hợp cùng Uỷ ban MTTQ xã triển khai,
nghiệm thu, chi trả cho 16 hộ gia đình có nhà dột nát với số tiền 288 triệu đồng.
 Một số hạn chế trong quá trình hoạt động
Bên cạnh những kết quả thực hiện được trong năm 2010 là đáng kể, đó là sự
nỗ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân trong xã, tuy nhiên không thể tránh khỏi một
số tồn tại cần khắc phực đó là:
- Năm 2010 công tác tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thể thao còn chưa sâu
rộng, chưa đồng đều, một số cán bộ văn hóa còn yếu năng lực, thiếu nhiệt tình trong
công việc.

×