Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Chính sách đối ngoại của liên bang nga dưới thời tổng thống v putin giai đoạn 2012 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.86 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------

TRẦN THỊ MAI DUYÊN

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V. PUTIN
GIAI ĐOẠN 2012-2016

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------

TRẦN THỊ MAI DUYÊN

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG V. PUTIN
GIAI ĐOẠN 2012-2016

Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60 31 02 06

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN CẢNH TOÀN



Hà Nội – 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện Luận văn, em đã nhận được sự
hướng dẫn, động viên, chỉ bảo, giúp đỡ rất tận tình của PGS.TS. Nguyễn Cảnh
Toàn. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu này của
Thầy.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo của Khoa Quốc
tế học, trường Đại học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt
tình giảng dạy và cung cấp cho chúng em những kiến thức hữu ích trong suốt
thời gian Cao học.
Nhân dịp này, em cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình,
người thân, bạn bè vì sự trợ giúp, động viên to lớn về mặt tinh thần cũng như vật
chất trong suốt thời gian qua.


MỤC LỤC

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

APEC


The Association of Southeast Asian Nations
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương

CIS

Asia-Pacific Economic Conference
Cộng đồng các quốc gia độc lập

CSTO

Commonwealth of Independent States
Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể

EU

Collective Security Treaty Organization
Liên minh châu Âu

EAEU

European Union
Liên minh kinh tế Á - Âu

GDP

Eurasia Economic Union
Gross Domestic Product

IS


Tổng sản phẩm quốc nội
Islamic State

NATO

Tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự xưng
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

SCO

North Atlantic Treaty Organization
Tổ chức hợp tác Thượng Hải

TBD
USD

Shanghai Cooperation Organization
Thái Bình Dương
Đô la Mỹ
United States Dollar

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết dẫn tới một sự khủng hoảng về vị thế
của Liên bang Nga trên trường quốc tế. Trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh
vào những năm 1990, Mỹ và phương Tây đã không thừa nhận và đối xử với
Liên bang Nga như một cường quốc lớn trên thế giới, đặc biệt là việc phương

Tây ngày càng tiếp cận tới khu vực vốn được coi là sân sau của Nga, đe dọa
sát biên giới Nga. Tuy nhiên, kể từ năm 1999 đến nay, khi V. Putin giữ cương
vị Tổng thống, nước Nga đã dần khôi phục vị thế là một cường quốc lớn,
buộc Mỹ và phương Tây phải tính toán và cần tới Liên bang Nga trong các
vấn đề quốc tế.
Trong 2 nhiệm kỳ liên tiếp giai đoạn 2000-2008, thế giới đã được
chứng kiến những thay đổi trong chính sách đối ngoại của Nga dưới thời
Tổng thống V. Putin theo hướng khẳng định và củng cố vị thế nước Nga trên
vũ đài chính trị quốc tế. Sau khi trở lại làm Tổng thống Liên bang Nga trong
cuộc bầu cử năm 2012, trước những biến đổi của tình hình thế giới, khó khăn
và thách thức trong nước cũng như sức ép từ bên ngoài, Tổng thống V. Putin
đã đưa ra những điều chỉnh mới trong chính sách đối ngoại. Đáng chú ý, ngay
sau khi tuyên thệ nhậm chức ngày 07/5/2012, ông đã ký 11 sắc lệnh đề cập
những nội dung cơ bản của chủ trương chiến lược phát triển nước Nga trong
nhiệm kỳ mới. Ngày 15/02/2013, Tổng thống V. Putin đã đưa ra tuyên bố về
chính sách đối ngoại mới của Liên bang Nga nhằm nâng cao vị thế và uy tín
của đất nước trên trường quốc tế. Trong các văn kiện như Chiến lược An ninh
quốc gia, Thông điệp Liên bang hàng năm, Tổng thống V. Putin đều đưa ra
một số điều chỉnh trong chính sách đối ngoại để phù hợp với đặc điểm tình
hình mới trong nước và quốc tế.
Nga đã từng bước khôi phục và khẳng định vị thế của mình ở các khu
vực ngoại vi và trên thế giới. Sự kiện Crimea vào tháng 3/2014 đã cho thấy

3


Tổng thống V. Putin đang khẳng định quyền của Nga ở khu vực từng là sân
sau. Chiến dịch quân sự của Nga ở Syria năm 2015 cũng là một trong những
ví dụ khẳng định Nga đã và đang khôi phục vị thế trong việc tham gia các nỗ
lực giải quyết các “điểm nóng” trên thế giới. Trên thực tế, Nga đã và đang là

một trong những nhân tố cân bằng sự ổn định trong quan hệ quốc tế. Vị thế
quốc tế gia tăng với những thành tựu nhất định về ngoại giao là những thành
công trong thực hiện chính sách đối ngoại của Nga, để từ đó góp phần hỗ trợ
Nga giải quyết các vấn đề trong nước, đưa nước Nga ngày càng phát triển trên
các mặt như kinh tế, chính trị-đối ngoại, quân sự-quốc phòng.
Là một nước lớn, chính sách đối ngoại của Nga tác động tới tất cả các
nước, các khu vực, các tổ chức quốc tế, các mối quan hệ quốc tế, nhất là các
trục quan hệ lớn như Nga - Mỹ, Nga - EU, Nga - Trung, tác động trực tiếp đến
lợi ích của các nước khác, đặc biệt là các nước nhỏ, đồng thời cũng ảnh
hưởng đến xu hướng giải quyết các điểm nóng trên thế giới như Syria,
Ukraine hay cuộc chiến chống khủng bố… Kể từ sau cuộc khủng hoảng
Ukraine (2014), Nga đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại trong quan
hệ với Mỹ, phương Tây và các nước khu vực châu Á. Tuy coi trọng mối quan
hệ với phương Tây, nhưng Nga đang thực hiện chiến lược hướng Đông, trong
đó có thúc đẩy quan hệ với Đông Nam Á và Việt Nam. Việc Nga ngày càng
quan tâm tới khu vực châu Á - TBD đã tạo cơ hội cho các nước tăng cường
giao lưu, hợp tác cùng phát triển, nhưng cũng gây ra những khó khăn cho các
nước nhỏ trong xử lý các mối quan hệ quốc tế, nhất là trước sự gia tăng cạnh
tranh, tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc.
Trong môi trường quốc tế đầy biến động như hiện nay, đối với Việt
Nam, là một nước có quan hệ truyền thống với Nga và Nga hiện là đối tác
chiến lược toàn diện của Việt Nam, chính sách đối ngoại của Nga sẽ có những
tác động, ảnh hưởng, mà chúng ta cần quan tâm theo dõi và nghiên cứu để có
những nhận định, đánh giá khoa học, toàn diện, nắm bắt và dự báo những xu

4


hướng chính trị đang diễn ra ở Nga, từ đó đưa ra những đối sách và ứng xử
quốc tế phù hợp, nhằm tăng cường hợp tác, tận dụng được những cơ hội mà

mối quan hệ với Nga mang lại, đồng thời hạn chế những tiêu cực để đảm bảo
lợi ích quốc gia.
Vì vậy, việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Nga dưới thời Tổng
thống V. Putin trong những năm gần đây có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Do đó, tác giả chọn nghiên cứu về “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga
dưới thời Tổng thống V. Putin giai đoạn 2012-2016” để làm đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tổng thống V. Putin và chính sách đối ngoại của ông đưa ra trong các
nhiệm kỳ của mình không phải là một đề tài nghiên cứu mới, mà là một chủ
đề đã, đang và sẽ tiếp tục thu hút sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi của nhiều
học giả trong và ngoài nước. Đặc biệt, với việc Nga ngày càng khẳng định vị
thế cường quốc thế giới bằng các hành động quyết đoán và mạnh mẽ trong
các vấn đề quốc tế, nên chính sách đối ngoại của Nga và Tổng thống V. Putin
cũng là chủ đề nghiên cứu của lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách ở
nhiều quốc gia. Cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về V. Putin và
chính sách đối ngoại trong các nhiệm kỳ ông làm Tổng thống nước Nga. Các
tài liệu này phân tích về V. Putin và chính sách đối ngoại của Nga dưới các
góc độ khác nhau, nhưng tất cả đều thừa nhận sức ảnh hưởng của Nga trên
trường quốc tế đang ngày càng tăng lên và vai trò quan trọng của Tổng thống
V. Putin đối với sự lớn mạnh của nước Nga.
Ở Việt Nam, có nhiều ấn phẩm dịch hoặc tài liệu viết về V. Putin tiêu
biểu như Dương Minh Hào-Triệu Anh Ba (2015), Bản lĩnh Putin; Trương Dự
(2013), Putin - Sự trỗi dậy của một con người (dịch giả Hồng Phượng);…
Các tác phẩm đều cho thấy được về con người V. Putin, qua đó giúp lý giải
được phần nào về những quyết sách mà V. Putin đưa ra khi làm Tổng thống

5



Nga. Ngoài ra, ở trong nước, nhiều học giả đã viết về sự thay đổi của nước
Nga cũng như các chính sách của Nga trong những năm qua, như Nguyễn An
Hà (2011), Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ 21; Hà Mỹ Hương (2006),
Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai… Bên cạnh đó,
nhiều tài liệu, bài nghiên cứu khác được đăng trên các báo, tạp chí của Việt
Nam, như các bài viết của các tác giả Bùi Huy Khoát (2008), Nga tiếp tục
chính sách đối ngoại cứng rắn trong quan hệ với phương Tây?, Tạp chí
Nghiên cứu châu Âu; Nhữ Quang Nam (2010), Nga thúc đẩy mục tiêu khôi
phục vị thế cường quốc, Tạp chí Kiến thức Quốc phòng hiện đại; Nguyễn
Cảnh Toàn (2012), Sự điều chỉnh chiến lược của Nga ở khu vực châu Á-Thái
Bình Dương, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu;…
Chính sách đối ngoại của Nga cũng là một đề tài thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều học giả như Nguyễn Hải Vân Anh (2008), Luận văn
Thạc sỹ “Chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.
Putin”; Phan Thị Bích Hạnh (2014), Luận văn Thạc sỹ “Cải cách năng lượng
Nga và vai trò của nó trong chính sách đối ngoại của Liên bang Nga”; Hoàng
Thị Thu Hiền (2014), Luận văn Thạc sỹ “Chính sách phát triển vùng Viễn
Đông của Liên bang Nga và khả năng hợp tác quốc tế (giai đoạn từ năm
2000 đến nay) ”; Dương Tuấn Nghĩa (2010), Luận văn Thạc Sỹ “Chính sách
đối ngoại của Liên bang Nga đối với ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI”;
Trần Thanh Tùng (2014), Luận văn Thạc sỹ “Chính sách Châu Á-Thái Bình
Dương của Liên bang Nga từ năm 2000 đến nay”; Nguyễn Huy Anh Tuấn
(2015), Luận văn Thạc sỹ “Chính sách Trung Đông của Liên bang Nga giai
đoạn 2000-2015”,...
Ở nhiều nước trên thế giới, các học giả, cơ quan, tổ chức, viện nghiên
cứu và chính phủ các nước đều quan tâm và nghiên cứu về chính sách đối
ngoại của Nga dưới thời Tổng thống V. Putin, với các công trình nghiên cứu
như: Fiona Hill (2015) How Vladimir Putin’s World View Shapes Russian

6



Foreign Policy, Kari Roberts (2017), Understanding Putin: The politics of
identity and geopolitics in Russian foreign policy discourse nhận định về
vai trò của Tổng thống V. Putin trong định hình chính sách đối ngoại của Nga;
Igor Zevelev (2016), Russian National Identity and Foreign Policy, Kimberly
Marten (2013), A new explanation for Russian foreign policy, Stephen J.Blank
(2012), Perspectives on Russian foreign policy đưa ra quan điểm về chính
sách đối ngoại của Nga trong bối cảnh quốc tế mới; Yuki Naruoka (2016),
Russian foreign policy shift and its sources, Konstantin K.Khudoley (2016),
Russian foreign policy admid current international tensions; Keir Giles
(2017), The turning point for russian foreign policy đánh giá về điều chỉnh
chính sách đối ngoại của Nga từ năm 2014; Dmitri Trenin (2016), Russia’s
Asia Strategy: Bolstering the Eagle’s Eastern Wing về chính sách của Nga
đối với khu vực châu Á; Iwashita Akihiro (2006), Russia and its neighbors
in crisis về chính sách của Nga đối với Trung Á; Ivan Safranchuk (2016),
Russia in Reconnecting Eurasia về chính sách của Nga đối với CIS... Trong
đó, phần lớn những tài liệu trong một số năm trở lại đây tập trung nghiên cứu
về những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Nga sau cuộc khủng hoảng ở
Ukraine (2014).
Những tài liệu này đều có sự nghiên cứu rất kỹ và đưa ra những đánh
giá khác nhau về chính sách đối ngoại của Nga, là những thông tin bổ ích
giúp hiểu thêm về chính sách đối ngoại của Nga dưới các góc độ phân tích
khác nhau. Bên cạnh đó, luận văn cũng tham khảo các bài viết học thuật, các
bài nghiên cứu trên các trang báo điện tử, giúp việc tìm hiểu, nghiên cứu về
chính sách đối ngoại của Nga dưới thời Tổng thống V. Putin được đầy đủ,
toàn diện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Nga.
Phạm vi nghiên cứu:


7


- Về không gian: Nga và một số đối tác, khu vực chủ yếu có quan hệ
với Nga. Do giới hạn nghiên cứu, nên luận văn chỉ tập trung vào phân tích
những nét chính nhất trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Nga với
một số đối tác và khu vực có quan hệ chủ yếu với Nga như CIS, EU, Mỹ,
Trung Quốc và một số đối tác châu Á khác gồm Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam,
ASEAN; khu vực Trung Đông-Bắc Phi và Mỹ Latin.
- Về thời gian: Giai đoạn 2012-2016, trong đó: từ 2012 đến 2014 là thời
điểm Tổng thống V. Putin bắt đầu trở lại lãnh đạo nước Nga (2012) đến trước
cuộc khủng hoảng Ukraine (2014); từ 2014 đến 2016: Nga có những điều
chỉnh chính sách sau khi quan hệ với Mỹ, EU bị suy giảm nghiêm trọng sau
sự kiện Crimea trở thành một phần lãnh thổ Nga.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu, làm rõ thực tiễn
triển khai chính sách đối ngoại của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống V.
Putin giai đoạn 2012-2016 với một số đối tác, khu vực để đánh giá thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân; đồng thời, đưa ra một số nhận định về quan hệ NgaViệt và tác động chính sách đối ngoại của Nga đối với Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những nhân tố tác động tới chính sách đối ngoại của Nga giai
đoạn 2012-2016 từ bên ngoài và chính bên trong nội tại của nước Nga;
- Phân tích quan điểm về mục tiêu, hướng ưu tiên và thực tiễn Nga triển
khai chính sách đối ngoại với các đối tác chính của Nga, trong đó có Việt
Nam, ở thời kỳ 2012-2016;
- Đánh giá kết quả triển khai chính sách đối ngoại của Nga, đưa ra một số
nhận định về tác động chính sách đó đối với Việt Nam và quan hệ Nga-Việt.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các các phương pháp trong nghiên cứu khoa học xã

hội và nhân văn như phương pháp phân tích lợi ích, phương pháp phân tích

8


chính sách, phương pháp phân tích tác động, phương pháp hệ thống-cấu trúc,
phương pháp nghiên cứu khu vực… nhằm đưa ra những phân tích, đánh giá
khách quan, toàn diện về vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có một số đóng góp về lý luận và thực tiễn như sau:
- Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống về chính sách đối ngoại
của Nga trong giai đoạn 2012-2016, đưa ra những phân tích, so sánh và đánh
giá khoa học, qua đó thấy được thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của
Nga với một số đối tác chính, trong đó có Việt Nam.
- Góp phần cung cấp một số thông tin, kiến thức về môi trường chính
trị và quan hệ quốc tế giai đoạn 2012-2016, làm rõ thực tiễn mối quan hệ giữa
Nga với các nước, khu vực.
- Góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn đối với việc hoạch
định chính sách đối ngoại của Việt Nam trước tình hình triển khai chính sách
đối ngoại của Nga.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
học tập và nghiên cứu các vấn đề về chính sách đối ngoại, quan hệ quốc tế.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động tới chính sách đối ngoại của Nga
giai đoạn 2012-2016. Chương này phân tích về tình hình thế giới và trong
nước tác động tới việc hình thành và triển khai chính sách đối ngoại của Nga.
Chương 2: Nội dung và thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của
Nga giai đoạn 2012-2016. Chương này trình bày về quan điểm, mục tiêu và

quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Nga với một số đối tác chính
gồm CIS, EU và Mỹ, Trung Quốc và các đối tác châu Á khác, khu vực Trung
Đông-Bắc Phi và Mỹ Latin.

9


Chương 3: Đánh giá kết quả thực hiện chính sách đối ngoại của Nga
giai đoạn 2012-2016 và một số tác động tới Việt Nam. Chương này phân tích
về những kết quả, thành tựu cũng như hạn chế trong chính sách đối ngoại của
Nga, tìm hiểu nguyên nhân, nhân tố tác động tới các kết quả đó. Đồng thời,
đưa ra nhận định về một số tác động đối với Việt Nam.

10


CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA NGA GIAI ĐOẠN 2012-2016
1.1. Tình hình thế giới
1.1.1. Những biến động trên thế giới
Tháng 3/2012, Tổng thống Nga V. Putin tiếp tục trở thành người lãnh
đạo đất nước Liên bang Nga trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có
những biến động phức tạp với những bước chuyển nhanh và mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực, tác động tới hầu hết các quốc gia. Những thay đổi này là tác
nhân quan trọng định hình cục diện toàn cầu trong năm 2012 và những năm
tiếp theo. Những thay đổi này diễn ra ở các khu vực và trên nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Một là, kinh tế thế giới có dấu hiệu ổn định hơn, nhưng phục hồi chậm
và tiềm ẩn một số nguy cơ dẫn tới suy thoái kép. Kể từ năm 2011, nền kinh tế

toàn cầu bắt đầu thoát khỏi cuộc suy thoái, bước vào giai đoạn phục hồi và
tăng trưởng, nhưng không đồng đều, mong manh, chứa đựng nhiều rủi ro.
Một số nước khu vực EU gặp phải những khó khăn tài chính và chính trị, gây
ra “cơn bão” khủng hoảng nợ công, người dân liên tục xuống đường biểu tình
phản đối chính sách “thắt lưng buộc bụng”, làm nảy sinh những bất ổn xã hội
tại nhiều quốc gia, thậm chí chính phủ một số nước như Hy Lạp, Italy, Đan
Mạch bị thay thế. Vấn đề khủng hoảng nợ công trầm trọng ở châu Âu có nguy
cơ đẩy nền kinh tế thế giới vào một cuộc suy thoái kép, tác động sâu sắc đến
nền kinh tế các nước lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản... Những căng
thẳng về thương mại, chống bán phá giá, tỷ giá tiền tệ… diễn ra ngày càng
gay gắt và quyết liệt, trong bối cảnh các nước có xu hướng triển khai các
chính sách đối ngoại theo hướng đạt được tối đa các lợi ích kinh tế quan
trọng.

11


Hai là, cục diện thế giới tiếp tục có những thay đổi sâu sắc. Bên cạnh vị
trí siêu cường của Mỹ với sức mạnh vượt trội về kinh tế, quân sự và khoa học
công nghệ, sự trỗi dậy và vươn lên của các nước lớn khác như Trung Quốc,
Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Brazil… ngày càng chứng tỏ vai trò, vị thế trên bàn
cờ chính trị không chỉ tầm khu vực mà cả trên phạm vi toàn cầu [56]. Xu
hướng đa cực hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế phát triển; quan hệ giữa
các nước lớn ngày càng đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau trong khuôn khổ vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau; hợp tác nhưng không dẫn tới
liên minh mới, đấu tranh, nhưng tránh đối đầu quân sự trực tiếp [19, tr.108].
Trong đó, xu thế đa cực định hình rõ nét hơn và yếu tố cạnh tranh có xu
hướng gia tăng. Các nước lớn vừa kiềm chế nhau, vừa lợi dụng lẫn nhau, vừa
va chạm vừa điều chỉnh vì lợi ích quốc gia, nhất là về phạm vi ảnh hưởng
kinh tế - thương mại, những vấn đề lợi ích chiến lược sống còn, như không

gian tự do hành động, khu vực ảnh hưởng, tài nguyên năng lượng, thương
mại… Những điều này dẫn tới sự điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng
chủ động, linh hoạt, thực dụng ở các nước, trong đó có Nga.
Ba là, trong năm 2012, không chỉ có sự thay đổi lãnh đạo ở Nga với
việc Tổng thống V. Putin lên nắm quyền, mà ở Mỹ Tổng thống B.Obama tái
cử nhiệm kỳ 2, tại Trung Quốc, nhà lãnh đạo Tập Cận Bình trở thành Tổng Bí
thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, là lãnh đạo cấp
cao nhất với quyết tâm chấn hưng dân tộc Trung Hoa, cũng như các nước lớn
khác điều chỉnh và đẩy mạnh triển khai chiến lược theo hướng chi phối quan
hệ quốc tế và cạnh tranh ảnh hưởng toàn cầu. Mỹ tiếp tục điều chỉnh chiến
lược nhằm duy trì ảnh hưởng và đảm bảo lợi ích tại các khu vực trọng điểm,
thực hiện chính sách can dự toàn cầu nhằm duy trì vị thế, vai trò lãnh đạo thế
giới, thu hẹp không gian chiến lược của các nước lớn khác; tiếp tục coi châu
Âu là “đối tác cốt yếu”, triển khai các hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu
nhằm hạn chế khả năng răn đe của Nga, thể hiện rõ bản chất của khẩu hiệu

12


“cài đặt lại” quan hệ Mỹ - Nga do Tổng thống Mỹ B.Obama khởi xướng.
Trung Quốc thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt; đẩy mạnh triển khai trên
tất cả các hướng nhằm tăng cường và mở rộng ảnh hưởng quốc tế; tăng cường
quan hệ với các nước lớn khác, đặc biệt là các nước trong khối BRICS
(Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi); khẳng định phát triển quan hệ
hợp tác chiến lược Trung - Nga là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối
ngoại. Nhật Bản thúc đẩy quan hệ đồng minh và cải thiện quan hệ với các
nước lớn, đẩy mạnh triển khai chính sách đối ngoại nhằm trở thành cường
quốc có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế, thực hiện mục tiêu trở thành
cường quốc toàn diện, thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nga; tăng
cường quan hệ đối tác với các nước Đông Nam Á, chủ động can dự vào các

vấn đề quốc tế nhằm thể hiện vai trò “cường quốc bình thường”. Ấn Độ thực
hiện chính sách đối ngoại độc lập, năng động, quyết đoán, thực dụng, tự chủ
và cân bằng, để đạt mục tiêu trở thành cường quốc khu vực và thế giới, thực
hiện đẩy mạnh quan hệ với Nga; tích cực tham gia hoạt động của các tổ chức
quốc tế, khu vực; ưu tiên quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, tăng
cường quan hệ hợp tác toàn diện với các nước ASEAN, coi ASEAN là trọng
tâm trong thúc đẩy thực hiện chính sách hướng Đông.
Bốn là, các khu vực không gian địa-chiến lược được Nga xác định, như
khu vực CIS, Trung Á và các khu vực khác trên thế giới chịu sự canh tranh
ảnh hưởng mạnh mẽ giữa các nước lớn. Ở khu vực không gian hậu Xô viết,
EU tìm cách mở rộng ảnh hưởng ở khu vực CIS qua việc tăng cường cơ chế
Đối tác phía Đông. Mỹ cũng gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng và kiềm chế Nga
tại khu vực Trung Á, duy trì vùng đệm an ninh với Afganistan, Pakistan xung
quanh Nga. Trung Quốc viện trợ tài chính để tăng cường kết nối với các nước
CIS ở Trung Á thông qua Sáng kiến Vành đai và con đường. Ấn Độ cũng tăng
cường các mối quan hệ song phương với các nước Trung Á. Trong khi đó,
khu vực Trung Đông-Bắc Phi, Mỹ Latin tiếp tục chịu sự cạnh tranh ảnh

13


hưởng mạnh mẽ của các nước lớn. Ở khu vực Trung Đông-Bắc Phi, Mỹ thông
qua khoản viện trợ 70 triệu USD cho các phe đối lập Syria chống lại Chính
phủ của Tổng thống B. al-Assad. Một số nước EU cũng phối hợp với Mỹ
trong các hoạt động quân sự ở Trung Đông-Bắc Phi. Hành động can thiệp
quân sự của Pháp tại Mali năm 2013 cho thấy Pháp đang tìm cách khôi phục
ảnh hưởng ở châu Phi. Trung Quốc tiến hành viện trợ, cho vay và cam kết đầu
tư hàng tỷ USD đối với các nước đang phát triển ở châu Phi và Trung Mỹ,
nâng cấp quan hệ song phương với nhiều nước như thiết lập quan hệ đối tác
chiến lược với Sri Lanka (2013), quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với

Peru, Mexico (2013). Tháng 7/2014, Chủ tịch Tập Cận Bình đã có chuyến
thăm khu vực Mỹ Latin, với hàng loạt thỏa thuận hợp tác được ký kết với các
nước như Brazil, Argentina, Venezuel, Cuba ở nhiều lĩnh vực, cùng với quyết
định thành lập Quỹ đầu tư vào cơ sở hạ tầng ở Mỹ Latin trị giá 20 tỷ USD, thể
hiện sự quan tâm lớn của Trung Quốc đối với khu vực này. Mỹ tuyên bố bình
thường hóa và tái thiết lập quan hệ với Cuba (2016) thể hiện mong muốn
giành lại niềm tin và ảnh hưởng ở khu vực Mỹ Latin. Nhật Bản cũng đẩy
mạnh can dự vào khu vực Mỹ Latin, thể hiện rõ qua chuyến thăm của Thủ
tướng S. Abe tới khu vực này vào tháng 7-8/2014 với các trạm dừng chân ở
Mexico, Trinigat, Tobago, Colombia, Chile, Brazi. Những điều chỉnh chiến lược
này khiến cho sự cạnh tranh giữa các nước lớn ở khu vực Mỹ Latin gia tăng.
Năm là, vai trò địa kinh tế và địa chính trị của châu Á-TBD ngày càng
tăng lên. Việc Mỹ và phương Tây bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng
hoảng tài chính, suy thoái toàn cầu và cuộc khủng hoảng nợ công, tạo ra sự
chuyển dịch mạnh mẽ sức mạnh tài chính, kinh tế và theo đó là ảnh hưởng
địa-chính trị từ phương Tây sang các khu vực khác của thế giới, nhất là châu
Á-TBD. Trong nhiều năm, khu vực châu Á được đánh giá là phát triển năng
động, là đầu tàu thúc đẩy kinh tế thế giới. Tại khu vực diễn ra quá trình hội
nhập năng động với các diễn đàn, tổ chức hoạt động ngày càng có hiệu quả

14


như APEC, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Khu vực ASEAN
(ARF), ASEAN… Do đó, châu Á-TBD trở thành nơi triển khai và cạnh tranh
lợi ích, ảnh hưởng của các nước lớn. Năm 2012, Mỹ chính thức công bố chiến
lược chuyển trọng tâm sang châu Á-TBD với các ưu tiên chiến lược về chính
trị, đối ngoại, kinh tế, quân sự. Trung Quốc ngày càng mạnh về kinh tế, quân
sự và tầm ảnh hưởng về chính trị, thể hiện tham vọng trở thành một nhà lãnh
đạo ở khu vực. Nhật Bản nỗ lực gia tăng ảnh hưởng chính trị, muốn thông qua

ngoại giao kinh tế để phát huy vai trò toàn diện ở khu vực này nhằm đạt được
tham vọng trở thành cường quốc chính trị thế giới. Ấn Độ chủ trương tăng
cường quan hệ với châu Á-TBD bằng “Hành động hướng Đông” … Không
chỉ vậy, tiềm năng kinh tế của những trung tâm tăng trưởng mới của thế giới,
trong đó có Ấn Độ và Trung Quốc đứng ở vị trị nổi bật, với ảnh hưởng chính
trị gia tăng, mang lại cho Nga những cơ hội không nhỏ [34, tr.56]. Bối cảnh
này góp phần đưa châu Á-TBD trở thành khu vực ngày càng có ý nghĩa quan
trọng đối với các vấn đề lợi ích của Nga.
Sáu là, các vấn đề toàn cầu đòi hỏi hành động phối hợp mạnh mẽ của
tất cả các quốc gia. Một mặt, các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến
đổi khí hậu, thảm họa thiên tai, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, cấm
phổ biến vũ khí hạt nhân, sự gia tăng hoạt động của các tổ chức khủng bố, đặc
biệt là IS… ngày càng diễn biến phức tạp, trở thành vấn đề toàn cầu, đe dọa
mọi quốc gia. Mặt khác, các vấn đề an ninh truyền thống như chiến tranh,
xung đột vũ trang... kéo dài, diễn biến phức tạp và có dấu hiệu gia tăng như
vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề hạt nhân Iran, tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ, lãnh hải ở Biển Đông, biển Hoa Đông và Bắc Cực, nội chiến
ở Syria, xung đột phe phái ở Yemen, Lybia, Nigeria... tiềm ẩn nhiều nguy cơ,
hiểm họa khó lường, đe dọa đến sự ổn định, hòa bình và phát triển của thế
giới. Những điều này đòi hỏi sự tham gia và phối hợp giải quyết của các nước
lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc... Ngược lại, các cường quốc cũng tìm cách

15


can dự vào các vấn đề có quy mô khu vực, toàn cầu để khẳng định tầm ảnh
hưởng và vị thế quốc tế.
Tình hình thế giới biến động khó lường với những thay đổi sâu sắc, tạo
ra cơ hội và thách thức cho các nước, trong đó có Nga trong quá trình lấy lại
vị thế cường quốc toàn cầu, qua đó tác động tới sự hình thành và triển khai

chính sách đối ngoại. Vì vậy, Nga cần phải có sự điều chỉnh linh hoạt các mối
quan hệ quốc tế, trên cơ sở đảm bảo các lợi ích cốt lõi.
1.1.2. Cuộc khủng hoảng Ukraine
Cuộc khủng hoảng Ukraine xảy ra năm 2014, xuất phát từ những mâu
thuẫn trước đó. Do không đồng tình với quyết định hủy ký thỏa thuận thương
mại liên kết châu Âu để quay lại đàm phán gia nhập Liên minh Hải quan với
Nga của Tổng thống V. Yanukovych, phe đối lập ở Ukraine với sự giúp đỡ của
các thế lực bên ngoài, từ tháng 11/2013 đã tiến hành các phong trào biểu tình
phản đối chống Chính phủ và tiến hành đảo chính lập pháp lật đổ Chính phủ
của Tổng thống hợp pháp V. Yanukovych vào tháng 2/2014, đưa O.
Turchynov lên làm Tổng thống tạm quyền, tháng 5/2014 tổ chức bầu Petro
Poroshenko - người có tư tưởng thân phương Tây làm Tổng thống. Những
hành động này bị người dân các tỉnh miền Đông và miền Nam Ukraine biểu
tình phản đối, lãnh đạo các tỉnh này tuyên bố ly khai khỏi chính quyền trung
ương. Sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 16/3/2014, ngày 18/3/2014, Tổng thống
Nga V. Putin ký sắc lệnh công nhận Crimea là một bộ phận lãnh thổ của Liên
bang Nga. Hai tỉnh Donetsk và Lugansk của Ukraine cũng tuyên bố thành lập
nhà nước độc lập - Cộng hòa Nhân dân Donetsk và Cộng hòa Nhân dân
Lugansk. Sự kiện Crimea và việc Nga ủng hộ lực lượng miền Đông Ukraine
bị Mỹ và phương Tây coi là hành động phương hại đến an ninh, nên đã xác
định, Nga cần được coi là “đối thủ hơn là đối tác”. Mỹ và phương Tây cùng
với việc bao vây cô lập về ngoại giao, cấm vận về kinh tế với Nga, đã triển
khai các biện pháp quân sự để đối phó [6, tr.38].

16


Cuộc khủng hoảng Ukraine là nhân tố tác động mạnh mẽ và có liên
quan đến lợi ích chiến lược của nhiều nước lớn, tác động mạnh mẽ tới cục
diện quan hệ giữa Nga với các nước bởi nó làm đổ vỡ quan hệ giữa Nga với

EU, dẫn tới thế đối đầu Nga - phương Tây, tạo ra bước ngoặt địa chính trị ở
lục địa Á - Âu, khiến các nước, nhất là Mỹ, EU và Trung Quốc có những điều
chỉnh chính sách đối ngoại. Cụ thể:
Một là, Mỹ tăng cường chính sách trừng phạt và cô lập Nga, thay thế
Nga trong quan hệ kinh tế, quân sự với EU và nỗ lực làm suy giảm quan hệ
của Nga với Trung Quốc. Với Nga, Mỹ cáo buộc Nga phải chịu trách nhiệm
gây ra cuộc khủng hoảng tại Ukraine, lấy lý do Nga sáp nhập Crimea để cô
lập Nga. Mỹ thực hiện các biện pháp gia tăng lệnh trừng phạt đối với Nga,
đồng thời chủ trương vận động EU và các nước phương Tây tăng cường gây
sức ép nhiều mặt với Nga [55, tr.46]. Với EU, để làm suy giảm quan hệ EU
với Nga, Mỹ cam kết cùng với NATO bảo đảm an ninh cho các nước EU;
tăng cường thắt chặt quan hệ kinh tế với EU để thay thế Nga. Nhằm ngăn
chặn xu hướng quan hệ Nga - Trung gia tăng sau khủng hoảng Ukraine, Mỹ
tìm cách cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc thông qua cam kết thúc đẩy
quan hệ nước lớn “kiểu mới”.
Hai là, EU tăng cường quan hệ với Mỹ, điều chỉnh chính sách trong
quan hệ với Nga và thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc. Đối với Mỹ, chủ
trương chung của EU là tăng cường quan hệ toàn diện với Mỹ, tiếp tục ủng
hộ quan điểm của Mỹ về các biện pháp trừng phạt, làm suy yếu và ngăn
chặn Nga, đồng thời tăng cường giúp đỡ Ukraine. Trong quan hệ với Nga,
EU liên tiếp thực hiện các lệnh trừng phạt Nga bất chấp những tổn hại lớn về
kinh tế đối với khối này. Trong quan hệ với Trung Quốc, do khủng hoảng
Ukraine dẫn đến mất thị trường tại Nga, nên EU đẩy mạnh quan hệ nhiều
mặt với Trung Quốc, nhất là về kinh tế.

17


Ba là, Trung Quốc xác định tận dụng lợi thế để điều chỉnh sách lược
quan hệ với các nước lớn theo hướng có lợi cho nước này, vì Nga, Mỹ, EU

đều cần đến Trung Quốc cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh. Đối
với Nga, trước việc nước này đẩy mạnh thực hiện chiến lược “hướng Đông”,
Trung Quốc chủ trương thúc đẩy “Quan hệ hợp tác cùng thắng, đưa quan hệ
đối tác hợp tác chiến lược toàn diện đi vào chiều sâu” (3/2013) để tăng cường
quan hệ với Nga. Đối với Mỹ, mặc dù giữa hai bên còn nhiều mâu thuẫn về
mặt lợi ích, đặc biệt là sự cạnh tranh vị thế quốc tế và ảnh hưởng tại khu vực
châu Á-TBD, nhưng Trung Quốc xác định tăng cường quan hệ với Mỹ trên
nguyên tắc đồng thuận và cùng có lợi, thực hiện mục tiêu xây dựng quan hệ
nước lớn “kiểu mới” với Mỹ. Với EU, trong bối cảnh EU có những bất đồng
nội bộ, phải đối mặt với nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế cũng như
chịu sức ép từ Mỹ và Nga, Trung Quốc chủ trương tăng cường thúc đẩy quan
hệ nhiều mặt với EU để thâm nhập sâu vào khu vực này.
Như vậy, cuộc khủng hoảng chính trị ở Ukraine đã làm cho các chủ
thể quốc tế có liên quan như Mỹ, EU, Trung Quốc đều có những điều chỉnh
trong chính sách đối ngoại. Trong đó, sự điều chỉnh lớn, toàn diện theo
hướng gia tăng đối đầu giữa Mỹ, EU với Nga. Do sự can dự của Mỹ và
phương Tây ở Ukraine cũng như ở Đông Âu, khu vực không gian chiến lược
của Nga ngày càng bị thu hẹp, các mối đe dọa có xu hướng tiệm cận biên
giới lãnh thổ, lãnh hải của Nga. Hơn thế, với cáo buộc “Nga can dự vào
Ukraine”, “sáp nhập Crimea”... Mỹ và các nước phương Tây đã tiến hành
một cuộc chiến bao vây, cấm vận chống Nga một cách công khai về mặt
kinh tế và hiện diện quân sự, củng cố, mở rộng liên minh tới sát biên giới và
các khu vực ảnh hưởng truyền thống của Nga, tác động tiêu cực tới uy tín
của Nga ở các khu vực ảnh hưởng và phạm vi quốc tế. Sức ép của Mỹ và
phương Tây khiến không gian địa chiến lược và đối tác, đồng minh của Nga
bị thu hẹp và cô lập một phần ở hướng Tây, làm thay đổi cục diện các mối

18



quan hệ quốc tế và đẩy trục địa chính trị và chiến lược của Nga hướng về
phía Đông, gây ra những thách thức lớn về đối ngoại, buộc Nga phải có
những điều chỉnh, tính toán lại chiến lược, chính sách đối ngoại của mình.
Năm 2016, tình hình nội bộ ở nhiều nước, khu vực có những diễn biến
phức tạp, bất định. Hàng loạt quốc gia ở các châu lục đều có những bất ổn
chính trị hoặc diễn biến chính trị phức tạp, nhất là châu Âu không chỉ chứng
kiến những bất đồng do giải quyết cuộc khủng hoảng di cư, mà còn phải
chứng kiến việc Anh rời khỏi châu Âu (Brexit), đảo chính quân sự lật đổ
Tổng thống R.Erdogan bất thành tại Thổ Nhĩ Kỳ, Thủ tướng Italy M.Renzi
từ chức; … Trong đó, sự kiện Brexit không chỉ làm cho EU đứng trước
nhiều thách thức cần phải giải quyết về kinh tế và chính trị, mà còn khiến
khối này suy yếu hình ảnh trên trường quốc tế. Không chỉ vậy, nước Mỹ
cũng có xu hướng coi trọng hơn việc lấy lại vị thế siêu cường của Mỹ khi
những chính sách của Mỹ ở các khu vực chưa đem lại nhiều kết quả như kỳ
vọng. Những điều này là cơ hội để Nga khẳng định mình và từng bước vượt
qua được những lệnh trừng phạt của Mỹ và EU. Tuy nhiên, bối cảnh này
cũng khiến EU và Mỹ đều có xu hướng kiềm chế vị thế quốc tế đang lên của
Nga, dẫn tới cạnh tranh chiến lược giữa Nga với Mỹ và phương Tây không
những không giảm đi, mà tiếp tục diễn ra quyết liệt ở nhiều khu vực trên thế
giới. Mặc dù Nga đã có những thỏa thuận hợp tác với Mỹ và sự ủng hộ của
EU để cùng phối hợp giải quyết các vấn đề nóng của thế giới như cuộc chiến
chống IS, vấn đề hạt nhân Iran, cuộc khủng hoảng di cư…, nhưng chiến lược
tập hợp lực lượng bao vây, cô lập, làm suy yếu Nga của Mỹ và phương Tây
vẫn không thay đổi.
1.2. Tình hình nội bộ nước Nga
1.2.1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
Năm 2012, Tổng thống V. Putin trở lại lãnh đạo Liên bang Nga với
nhiều yếu tố thuận lợi khi nước Nga có sự phát triển kinh tế khá ổn định, cùng

19



với sự ủng hộ của người dân đối với Tổng thống V. Putin và Đảng nước Nga
thống nhất cầm quyền. Tuy nhiên, bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trong nước chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp cũng là những khó khăn, thách
thức không nhỏ đối với Tổng thống V. Putin.
Tình hình kinh tế nước Nga có sự thuận lợi khi Nga đã thực sự trở lại vị
thế cường quốc, vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Nga trong nhiều năm duy trì ở mức 4%/năm.
Năm 2011, nền kinh tế Nga tăng trưởng 4,3%, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống
mức thấp còn 6,3%, trong khi lạm phát chỉ ở mức 4,2% là mức thấp kỷ lục,
chưa từng có trong lịch sử hiện đại của nước Nga. Dự trữ vàng và ngoại tệ lớn
thứ 3 trên thế giới, tỷ lệ nợ nước ngoài chỉ ở mức 10%, chỉ số tối thiểu đối với
các nền kinh tế phát triển; ngành nông nghiệp có mức tăng trưởng cao, năm
2011 thu được 94 triệu tấn ngũ cốc, tăng gần 40% so với năm 2010; thu nhập
bình quân đầu người trong giai đoạn 2008-2011 tăng 18% [3]. Nước Nga tiến
hành nâng lương cho đội ngũ hưu trí, là động thái mà không một nước nào
thực hiện trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế chưa được khắc phục khi đó.
Ngày 16/11/2011, Nga đã chính thức tham gia hội nhập sâu vào thương mại
toàn cầu khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Năm 2013, nền kinh tế Nga nằm trong top 8 nền kinh tế lớn nhất thế giới với
nhiều chỉ số tăng trưởng dương như GDP tăng 1,5%, thặng dư thương mại đạt
khoảng 150 tỷ USD. Ngành kinh tế then chốt của Nga là khai thác dầu mỏ,
đạt sản lượng 523,2 triệu tấn, tăng 1,2% so với năm 2012 và tỷ lệ lạm phát
giảm từ 6,6% xuống còn 6,1%.
Tuy nhiên, Nga cũng chịu tác động không nhỏ của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu 2008-2009. Nền kinh tế Nga còn tồn tại những yếu kém,
bất cập chưa được giải quyết triệt để, đó là cơ cấu kinh tế cần được cải cách
nhanh, mạnh hơn; giảm tỷ trọng đóng góp của dầu khí trong ngân sách, tăng
tỷ trọng các ngành khác, đặc biệt là hàng hóa có hàm lượng chất xám kết tinh


20


cao; chưa trở thành nền kinh tế tri thức, trong khi Nga là nước có nền khoa
học mạnh nhất nhì thế giới, nhất là khoa học cơ bản… Những điều này khiến
tăng trưởng kinh tế của Nga bị hạn chế.
Đặc biệt, các lệnh trừng phạt kinh tế của Mỹ và EU sau khi Crimea sáp
nhập vào Nga, gây nhiều khó khăn cho nền kinh tế Nga. Theo Bộ trưởng Tài
chính Nga Anton Siluanov, Nga thiệt hại khoảng 40 tỷ USD mỗi năm do các
biện pháp trừng phạt mang động cơ địa chính trị của Mỹ và phương Tây. Mô
hình kinh tế phụ thuộc vào dầu mỏ khiến nước Nga lâm vào một cuộc khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng khi giá dầu thế giới sụt giảm. Sự lao dốc của giá
dầu thô thế giới bắt đầu từ tháng 6/2014, cộng với các biện pháp trừng phạt
kinh tế của phương Tây, đã giáng một đòn nặng nề vào kinh tế Nga. GDP của
Nga năm 2014 chỉ tăng ở mức thấp, 0,6% so với mức tăng 1,3% trong năm
2013 [74] và 2,4% của các năm trước đó; đồng Rúp mất giá 9%, trong khi các
doanh nghiệp nước ngoài rút vốn, bán tháo cổ phiếu, dự trữ ngoại hối của Nga
giảm hơn 70 tỷ USD, xuống còn 440 tỷ USD, mức thấp nhất trong 4 năm kể
từ năm 2010. Những khó khăn của nền kinh tế Nga được thể hiện rõ hơn trong
năm 2015. Theo đó, năm 2015, các số liệu kinh tế chủ yếu của Nga đều giảm
mạnh: GDP giảm 3,7% so với năm 2014, lạm phát ở mức 12,05%; dòng vốn
đầu tư rút khỏi Nga khoảng 70 tỷ USD; thâm hụt ngân sách liên bang khoảng
3% GDP [9, tr.11]. Từ tháng 03/2014 - 12/2015, đồng Rúp mất giá 72,7% so
với USD, 51,7% so với Euro. Đồng Rúp mất giá đẩy lạm phát tăng cao, sức
mua của người dân giảm, tỷ lệ lạm phát/năm lên đến 15,9%, thậm chí là 39%
trong nửa cuối năm 2015, thu nhập người dân giảm 4%, trên cả mức giảm của
GDP (là lần đầu tiên xuất hiện ở Nga kể từ sau năm 2000), lương hưu bị cắt
giảm 3,8%. Tại Diễn đàn kinh tế Gaida (01/2016), Thủ tướng Nga
D.Medvedev thừa nhận, “tình hình kinh tế Nga đang phải gánh chịu những

thách thức nghiêm trọng nhất trong gần 1 thập kỷ qua”, mặc dù mọi việc vẫn
“nằm trong tầm kiểm soát” [5, tr.22].

21


Tình hình chính trị-xã hội của Nga ổn định, chất lượng cuộc sống người
dân được cải thiện đáng kể, nước Nga chấm dứt được tình trạng tội phạm
đường phố lan tràn. Các chính sách xã hội đạt được nhiều thành công, tạo ra
nhiều chuyển biến mới trong đời sống người dân, trong đó nhân tố thay đổi
mạnh mẽ nhất ở Nga năm 2012 là xã hội ngày càng cởi mở, công khai và dân
chủ. Người dân ngày càng tích cực tham gia vào đời sống chính trị - xã hội,
tham gia đóng góp ý kiến với chính quyền để xây dựng một nước Nga hùng
mạnh hơn, dân chủ hơn. Những hoạt động sôi nổi và quy mô như mít tinh,
tuần hành của các lực lượng chính trị khác nhau, với những quan điểm và
mong muốn khác nhau, ở khắp mọi nơi trên lãnh thổ rộng lớn nước Nga.
Hệ thống chính trị, đảng phái tại Nga cũng bước vào giai đoạn cải cách
mạnh mẽ với sự sửa đổi, bổ sung một cách đồng bộ các điều luật về hoạt
động, cơ cấu tổ chức, tăng cơ hội đóng góp ý kiến cho các lực lượng chính trị
khác nhau. Điển hình là việc Duma Quốc gia Nga tháng 2/2012 đã thông qua
3 dự luật do Tổng thống D. Medvedev đệ trình, gồm dự luật cho phép cử tri
Nga được bầu trực tiếp người đứng đầu các tỉnh, thành mà trước đây là do
Tổng thống chỉ định, đơn giản hóa thủ tục đăng ký hoạt động của các chính
đảng (bất cứ đảng nào có 500 thành viên trở lên có thể đăng ký thành lập đảng
so với trước đây là 50.000 thành viên) và cho phép các chính đảng không phải
thu thập chữ ký ủng hộ để tham gia các cuộc bầu cử các cấp, ngoại trừ bầu cử
Tổng thống.
Tình hình chính trị ổn định, các đảng phái chính trị hiểu nhau hơn và
không có xung đột lớn ở nhiều vấn đề. Những cuộc hội kiến, trao đổi giữa
người đứng đầu Nhà nước, Chính phủ với lãnh đạo các đảng phái được duy trì

trên tinh thần hợp tác, xây dựng và hiểu biết lẫn nhau. Bộ đôi quyền lực Nga,
Tổng thống D. Medvedev và Thủ tướng V. Putin, thể hiện sự đoàn kết, thống
nhất, gắn bó, đồng tâm, hợp lực, phối hợp nhịp nhàng trong giải quyết, xử lý
các công việc, tạo được nền tảng cho một nước Nga đoàn kết, thống nhất,

22


×