Tải bản đầy đủ (.doc) (172 trang)

Vấn đề đổi mới phương thức tuyển sinh trên báo điện tử việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.17 KB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ TUYẾT NHUNG

VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------------

TRẦN THỊ TUYẾT NHUNG

VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số
: 60.32.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THỊ XUÂN HOÀ

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Đinh Thị Xuân Hoà. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Nếu có gì sai trái tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Người cam đoan

Trần Thị Tuyết Nhung


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự khích lệ và sự hướng dẫn chu
đáo, hiệu quả của giảng viên hướng dẫn TS. Đinh Thị Xuân Hoà trong quá trình
thực hiện luận văn này. Sự chỉ bảo tận tâm của cô đã mang lại cho tôi hệ thống
các phương pháp, kiến thức cũng như kỹ năng hết sức quý báu để có thể hoàn
thiện luận văn một cách tốt nhất.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Hà Nội, Quý thầy giáo, cô giáo Khoa Báo chí và Truyền thông,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn lãnh đạo, phóng viên các cơ quan báo chí –
Báo điện tử GD&TĐ, Báo điện tử GDVN, Báo điện tử VnExpress, Báo điện tử
Dân Trí đã luôn quan tâm, tạo điều kiện, hỗ trợ tôi trong suốt thời gian học tập
và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn những người thân, gia đình và bạn bè đã động
viên, khích lệ, hỗ trợ tôi rất nhiều về cả về vật chất lẫn tinh thần để tôi có thể

học tập đạt kết quả tốt và thực hiện thành công luận văn này.
Luận văn chắc chắn vẫn còn những khiếm khuyết, hạn chế. Tác giả mong
nhận được những ý kiến góp ý để hoàn thiện những nội dung trong luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng
Học viên

năm 2018

Trần Thị Tuyết Nhung


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN ĐỔI MỚI
PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ.........................14
1.1. Khái niệm..............................................................................................14
1.2. Nội dung của đổi mới phương thức tuyển sinh.....................................26
1.3. Vai trò và thế mạnh của báo điện tử trong thông tin về vấn đề đổi mới
phương thức tuyển sinh................................................................................31
1.4. Yêu cầu trong thông tin về đổi mới phương thức tuyển sinh trên báo
điện tử..........................................................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
HIỆN NAY.....................................................................................................41
2.1. Khái quát về các tờ báo khảo sát...........................................................41
2.2. Khảo sát thực trạng thông tin về đổi mới phương thức tuyển sinh trên

báo điện tử Việt Nam hiện nay.....................................................................43
Chương 3: MỘT SỐ THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA BÁO ĐIỆN
TỬ TRONG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC
TUYỂN SINH................................................................................................73
3.1. Thành công và nguyên nhân của thành công............................................73
3.2 Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế....................................................79
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THÔNG TIN VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH TRÊN
BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM HIỆN NAY.....................................................91
4.1. Một số vấn đề đặt ra..............................................................................91
4.2. Một số kiến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về đổi mới
phương thức tuyển sinh trên báo điện tử Việt Nam hiện nay......................96
KẾT LUẬN..................................................................................................118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................120
PHỤ LỤC.....................................................................................................126


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CĐ:
ĐH:
GD – ĐT:
GD & TĐ:
PTTS:
THPT:

Cao đẳng
Đại học
Giáo dục – Đào tạo
GD&TĐ
Phương thức tuyển sinh

Trung học phổ thông


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, ĐỒ HỌA

Bảng 2.1. Số liệu số liệu so sánh tần suất đăng tải thông tin về đổi mới PTTS
trên ba trang báo điện tử năm 2015, 2016, 2017............................. 43
Bảng 2.2.Số liệu so sánh tỉ lệ sử dụng các thể loại báo chí trong thông tin về đổi
mới PTTS trên báo điện tử.............................................................. 55
Bảng 2.3. Số liệu so sánh tỉ lệ tin bài viết về đổi mới PTTS có khai thác độc
lập yếu tố vùng miền ở ba trang báo điện tử................................... 80

Biểu đồ 2.1. So sánh tỉ lệ sử dụng các loại hình báo chí trong thông tin về đổi
mới PTTS trên báo điện tử.............................................................. 56
Biểu đồ 2.2. So sánh tỉ lệ bài viết có sử dụng thông tin đồ hoạ...................... 66
Biểu đồ 2.3. So sánh tỉ lệ bài viết có sử dụng audio và video trong thông tin
về đổi mới PTTS trên ba trang báo điện tử..................................... 69

Đồ hoạ 2.1. Trong bài “Những mốc quan trọng trong xét tuyển ĐH” của tác
giả Tạ Lư – Quỳnh Trang cập nhật ngày 01/07/2017 trên báo điện tử
VnExpress........................................................................................67
Đồ hoạ 2.2. Trong bài báo “Những điểm mới của kỳ thi THPT quốc gia” của
tác giả Tiên Trần – Tuấn Dũng đăng trên báo điện tử VnExpress
ngày 25/03/2015.............................................................................. 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam khóa XI, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Nghị quyết TW 8 (Nghị quyết

số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, chỉ rõ yêu cầu
cần chuyển đổi từ phương thức giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang phương
thức tập trung trang bị phương pháp, kỹ năng trên một nền kiến thức chuyên
môn căn bản và phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Khi đó
việc thi cử, kiểm tra đánh giá cũng cần đổi mới một cách tương ứng. Do vậy,
việc truyền tải thông tin về đổi mới hình thức, phương pháp và nội dung tuyển
sinh đến với công chúng là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay.
Cũng trong một bài phát biểu của mình với báo chí, Nguyên Bộ trưởng Bộ
GD-ĐT Nguyễn Minh Hiển đã nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của báo chí
đối với vấn đề đổi mới PTTS, cụ thể: “Tuyển sinh là vấn đề xã hội hết sức nhạy
cảm. Điều này đồng nghĩa với việc mỗi thông tin về tuyển sinh đưa ra trước
công chúng phải được cân nhắc kỹ và có sự chuẩn bị chu đáo để không gây ra
những hiểu sai, hiểu lệch trong xã hội”. Có thể nói, trong những năm gần đây,
vấn đề tuyển sinh đang ngày trở nên là vấn đề nóng bỏng đối với xã hội. Các kỳ
thi tuyển sinh, đặc biệt là tuyển sinh ĐH, CĐ tuy chỉ diễn ra trong một khoảng
thời gian ngắn ngủi nhất định nhưng lại luôn thu hút sự quan tâm của đông đảo
dư luận. Chính vì lẽ đó, vấn đề đổi mới PTTS ngày càng được đề cập đến nhiều
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Trong công tác đổi mới phương thức tuyển sinh thì tuyên truyền là một
nhiệm vụ quan trọng. Qua tuyên truyền để thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi,
của mỗi người và của cả xã hội theo hướng tốt hơn. Tuyên truyền ở nước ta là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, tuy nhiên, vai trò đặc biệt quan trọng
thuộc về lực lượng tuyên truyền chuyên nghiệp, trong đó có các cơ quan báo chí.
Ưu thế của thông tin báo chí là tính cập nhật, được chuyển tải một cách thường
xuyên, liên tục, có khả năng tiếp cận với đông đảo các đối tượng bạn đọc. Tính

1


khách quan, trung thực làm cho thông tin báo chí trở thành nguồn, cơ sở dữ liệu

của các hình thức tuyên truyền khác như tuyên truyền trong các hội nghị, hội
thảo, tuyên truyền trong sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp hay tuyên truyền miệng trong đời sống hàng ngày. Từ vai trò đặc
biệt quan trọng của báo chí trong tuyên truyền về vấn đề đổi mới phương thức
tuyển sinh, nâng cao hiệu quả công tác này sẽ tác động tích cực thay đổi nhận
thức, thái độ, hành vi, của công chúng đối, góp phần hoàn thành thắng lợi mục
tiêu đổi mới giáo dục như mục tiêu tổng quát mà Đảng đã đề ra.
Với chức năng cung cấp thông tin, định hướng dư luận xã hội, báo chí,
truyền thông nói chung, báo điện tử nói riêng đã và đang tiếp tục khẳng định vị
thế quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại. Cùng với các loại hình báo chí
khác, báo điện tử đóng vai trò là một trong những công cụ truyền thông quan
trọng về lĩnh vực giáo dục. Với những ưu thế như: Thông tin nhanh chóng, chính
xác, cách thức thể hiện thông tin đa dạng, sinh động, phù hợp với nhiều đối
tượng xã hội khác nhau, kết hợp với khả năng đa phương tiện, báo điện tử có
nhiều lợi thế hơn hẳn các loại hình truyền thông khác trong thông tin, truyền
thông thay đổi nhận thức, hành vi của công chúng…
Việc tuyên truyền, phổ biến thông tin về đổi mới PTTS là phù hợp với chủ
trương của các cấp quản lý, của Bộ GD-ĐT và đáp ứng nhu cầu thực tiễn cấp
bách của các cơ sở GD-ĐT cũng như của xã hội. Quan điểm này cũng hoàn toàn
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của báo chí Việt Nam, trong đó có loại hình
báo điện tử.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù có nhiều ưu thế như vậy nhưng thời gian
qua báo điện tử vẫn chưa phát huy được hết thế mạnh của mình trong việc phản ánh
thông tin về tuyển sinh, đặc biệt là thông tin về đổi mới PTTS ở các cấp học. Cụ
thể: Một số thông tin chưa kịp thời, chính xác; hình thức đưa tin về đổi mới tuyển
sinh chưa phong phú; nhiều khía cạnh trong các chính sách đổi mới tuyển sinh chưa
được khai thác triệt để hoặc phản ánh thiếu thực tế, không ít tác phẩm chất lượng
chưa như mong đợi... Vậy, làm thế nào để có nhiều hơn nữa những tác phẩm báo
2



chí liên quan đến vấn đề này được thông tin một cách sâu sắc, thuyết phục? Làm
thế nào để độc giả của báo mạng điện tử, đặc biệt là học sinh, phụ huynh – những
đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của thông tin tuyển sinh tiếp cận và nắm bắt
được sâu hơn về vấn đề này để từ đó có những lựa chọn phù hợp và để những đơn
vị tham gia đưa ra chủ trương chính sách và các đơn vị tham gia công tác tuyển sinh
triển khai, có những điều chỉnh phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay, cùng với
đó để việc tuyển sinh đem lại hiệu quả lớn nhất?...
Từ những lý do được phân tích trên đây, tác giả đã chọn “Vấn đề đổi mới
phương thức tuyển sinh trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn của mình với mong muốn kết quả nghiên cứu sẽ trả lời một cách thấu đáo,
toàn diện những câu hỏi đã nêu ra ở trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình khảo sát, tìm hiểu tài liệu để nghiên cứu về đề tài, tác giả
luận văn thấy rằng gần như chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu
một cách thấu đáo, cụ thể vấn đề thông tin về đổi mới PTTS trên báo điện tử ở
Việt Nam hiện nay. Riêng trong lĩnh vực báo chí lại càng thiếu vắng… Liên quan
đến vấn đề đổi mới giáo dục nói chung có một số đề tài khóa luận, luận văn, luận
án nghiên cứu, cụ thể:
- Luận án TS. Triết học “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình
đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay” (2001) của NCS Nguyễn Lương Bằng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
Trên cơ sở thực trạng nhận thức và vận dụng lý luận về sự kết hợp truyền
thống và hiện đại trong quá trình đổi mới GD-ĐT ở nước ta những năm gần đây,
luận án đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào
tạo con người, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đề tài tập trung giải quyết dưới góc độ triết học vấn đề lý luận về kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục – đào tạo và vận dụng lý luận này
vào quá trình đổi mới giáo dục – đào tạo ở Việt Nam hiện nay.

3



- Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng “Vai trò của báo chí đối với vấn
đề cải cách giáo dục đại học” (2006) của tác giả Ưng Sơn Ca – Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn:
Luận văn đã phân tích tổng quan về giáo dục và đào tạo Việt Nam, nêu bật
vai trò của giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục đào tạo, những đặc điểm
chung của thông tin giáo dục đại học trên báo chí, trong đó, luận văn chia ra
thành những nội dung bao gồm: thông tin về tuyển sinh, thông tin về vấn nạn và
tiêu cực, thông tin về thành tựu – những điển hình tích cực… Từ đó, đưa ra
những đề xuất, góp ý nhằm cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Căn cứ trên
những chủ trương, chính sách giáo dục ĐH do tác động của các phương tiện
truyền thông đại chúng để khẳng định những tác động cũng như vai trò của báo
chí đối với vấn đề cải cách giáo dục đại học.
- Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng “Tuyên truyền về giáo dục đại
học trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh” (2006) của tác giả Trần Thị Phương
Thảo – Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
Qua khảo sát các báo Sài Gòn Giải Phóng và Tuổi trẻ từ năm 1994 –
2004, tác giả luận văn đã chỉ ra những thành công và hạn chế trong tuyên truyền
về vấn đề giáo dục đại học của báo chí thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có công
tác tuyển sinh. Từ đó, nêu bật ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
các tờ báo trong thông tin, tuyên truyền về vấn đề này.
- Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng “Vai trò của báo chí ngành giáo
dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới” (2006) của tác giả Nguyễn Xuân Đức –
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn:
Luận văn đã xây dựng hệ thống cơ sở lý luận cho việc hình thành vai trò
của báo chí đối với lĩnh vực giáo dục để làm nền tảng cho việc khảo sát thông
tin. Thông qua khảo sát ba tờ báo GD&TĐ, Tạp chí Giáo dục, mạng giáo dục
Edu.net từ năm 2001 – 2005, tác giả luận văn đã nêu bật được những đặc điểm
của báo chí ngành giáo dục và đào tạo, từ đó chỉ ra vai trò của hệ thống báo chí
này trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.


4


- Luận văn “Báo GD&TĐ với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học
ở nước ta hiện nay” (2007) của tác giả Trần Việt Hoa năm – Học viện Báo chí và
Tuyên truyền:
Luận văn đã bàn về vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền nâng
cao chất lượng giáo dục đại học, khảo sát báo GD&TĐ, đánh giá vai trò của tờ
báo này đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đề xuất một số giải
pháp để tờ báo nâng cao hiệu quả tuyên truyền cho chất lượng giáo dục đại học.
- Khóa luận tốt nghiệp “Vấn đề đổi mới giáo dục và đào tạo trên báo
GD&TĐ và Báo Khuyến học” của Đoàn Mạnh Hùng và Khóa luận tốt nghiệp
“Tuyên truyền đổi mới giáo dục trên báo GD&TĐ” của tác giả Nguyễn Thanh
Hương (Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn).
Cả hai đề tài tuy đều khảo sát về vấn đề đổi mới giáo dục nhưng phạm vi
khảo sát khá hẹp. Việc khảo sát mang tính một chiều khi chỉ lựa chọn các tờ báo
ngành nên ít tính phản biện xã hội mà nặng về phản ánh.
- Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng “Báo in Việt Nam trong công
cuộc đổi mới giáo dục hiện nay” (2010) của tác giả Văn Phương Hoa – Trường
Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
Luận văn sưu tầm và khảo sát các bài báo có nội dung liên quan đến vấn
đề đổi mới giáo dục trên ba tờ báo in đó là: báo GD&TĐ, báo Lao động và báo
Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 1/2008 đến tháng
6/2009. Đánh giá, nhận xét về nội dung, hình thức phản ánh các vấn đề về đổi
mới giáo dục trên 3 tờ báo này. Từ đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những
kiến nghị, giải pháp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền các vấn đề về giáo dục
trên báo in hiện nay.
- Luận văn “Đổi mới hoạt động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập môn
vật lý của học sinh dự bị đại học dân tộc với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin”

(2011) của tác giả Lê Thị Thu Hiền - Đại học Sư phạm Hà Nội:
Dưới góc độ nghiệp vụ sư phạm, luận văn đã phân tích hoạt động kiểm
tra, đánh, giá kết quả học tập môn vật lý của học sinh và đề xuất một số biện
pháp khả thi đổi mới hoạt động kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh
dự bị đại học dân tộc với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
5


- Luận án TS. Giáo dục học “Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Giáo
dục học của sinh viên các trường đại học sư phạm Lào” (2010) của NCS ĐaVăn
Thoong Sổm Bắt – Đại học Sư phạm Hà Nội:
Luận án xây dựng cơ sở lý luận cho việc đổi mới đánh giá kết quả học tập
môn giáo dục học của sinh viên các trường đại học sư phạm Lào; phân tích khái
quát những đặc điểm về thực trạng dạy học cũng như thực trạng kiểm tra – đánh
giá kết quả học tập môn Giáo dục học ở các trường đại học sư phạm Lào; xây
dựng một hệ thống đồng bộ các phương pháp đổi mới đánh giá kết quả học tập;
chỉ ra việc đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá tri thức của sinh viên cần
phải được thực hiện theo một quy trình hợp lý, đảm bảo tính khách quan, nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục – đào tạo trong các trường đại học, cao
đẳng ở Lào. Qua đó, luận văn đưa ra kết luận đánh giá kết quả học tập của sinh
viên chỉ thực sự có ý nghĩa nếu quá trình đổi mới đánh giá được thực hiện một
cách nghiêm túc.
- Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục “Quản lý phát triển năng lực giáo viên
mẫu giáo theo tiếp cận kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm
non” (2011) của NCS Phạm Thị Loan (Trường Đại học Giáo dục).
Luận án hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý phát triển năng
lực giáo viên mẫu giáo theo tiếp cận kỹ năng nghề, từ đó đề xuất 6 biện pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, trong đó nhấn mạnh giải
pháp các cấp quản lý cần đổi mới công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên mầm non đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh đổi mới

giáo dục mầm non hiện nay.
- Đề tài nghiên cứu khoa học “Thực trạng tuyển sinh của các trường
cao đẳng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội” (2011) của ThS. Lê Văn Hồng
- Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Đại học và nghề nghiệp, Viện Khoa học
GDVN:
Đề tài đã làm rõ được một số khái niệm có liên quan, làm rõ sự cần thiết
và tính tất yếu của việc liên thông giữa loại hình cao đẳng nghề với các trường
đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và cơ

6


sở đào tạo nghề; Nghiên cứu thực trạng về tuyển sinh của các trường cao đẳng
nghề trên địa bàn TP. Hà Nội cũng như những tồn tại, bất cập trong công tác
tuyển sinh cao đẳng nghề; Đề xuất một số khuyến nghị liên quan đến tuyển sinh
cao đẳng nghề và các yếu tố tác động đến công tác tuyển sinh cao đẳng nghề.
Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu trên cũng nhấn mạnh các kênh thông tin
cũng góp phần làm cho công tác tuyển sinh được thuận lợi, đưa thông tin đến
người học một cách nhanh nhất có thể, nhưng vì thiếu công tác giáo dục
hướng nghiệp và tư vấn chọn nghề nên đối tượng tuyển sinh luôn trong trạng
thái loạn thông tin về tuyển sinh. Hơn nữa chính sự đa dạng về kênh thông tin
tuyển sinh cũng là một nhân tố góp phần làm tăng tính cạnh tranh giữa các
trường với nhau.
- Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng “Phản biện xã hội về đổi mới
giáo dục tiểu học trên báo in Việt Nam hiện nay” (2013) của tác giả Trần Thị
Hoa - Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn.
Trên cơ sở đi vào tìm hiểu những nét khái quát về phản biện xã hội, đổi
mới giáo dục tiểu học và báo in - kênh thông tin mang tính phản biện cao tạo
được dư luận xã hội, luận văn chỉ ra những cách thức phản biện xã hội về vấn đề
đổi mới giáo dục tiểu học mà báo in thực hiện, dư luận xã hội về việc đổi mới

giáo dục nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng thu được từ hoạt động phản biện
xã hội đó. Từ đó, tác giả luận văn đi đến đề xuất những ý kiến để vấn đề phản
biện xã hội về đổi mới giáo dục trên báo in được tiến hành hiệu quả, tạo dư luận
xã hội mạnh mẽ để vấn đề đổi mới giáo dục tiểu học được thực hiện đúng hướng
và triệt để hơn.
- Luận văn “Đổi mới chương trình giáo dục thể chất cho sinh viên các
trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc theo hướng bồi dưỡng nghiệp vụ tổ
chức hoạt động thể dục thể thao trường học” (2013) của tác giả Lê Trường Sơn
Chấn Hải – Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nội dung luận văn đã tập trung đánh giá thực trạng thực hiện chương trình
giáo dục thể chất nội khóa trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm nói chung

7


và vùng Trung Bắc nói riêng, đưa ra phương pháp đổi mới chương trình giáo dục
thể chất cho sinh viên các trường đại học sư phạm vùng Trung Bắc Việt Nam.
- Luận văn “Thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử GDVN” (2017)
của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Huyền – Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Trên cơ sở tìm hiểu rõ những thông tin về đổi mới giáo dục trên báo điện tử
GDVN về nội dung và hình thức, luận văn cung cấp cái nhìn cụ thể về thực tiễn về
việc đăng tải thông tin về đổi mới giáo dục trên báo chí của nước ta hiện nay, làm rõ
vai trò của báo chí đến việc đổi mới giáo dục. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng thông tin về đổi mới giáo dục trên báo GDVN.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã đưa ra nhiều phân tích
sâu sắc, thiết thực về vấn đề đổi mới giáo dục, tuyển sinh. Đây là cơ sở nền tảng
cho việc xây dựng hệ thống lý luận của luận văn. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu mới chỉ nghiên cứu tổng quát về đổi mới giáo dục nói chung mà
chưa đi vào khía cạnh cụ thể là vấn đề đổi mới PTTS. Hơn nữa, các đề tài trên
đây nghiên cứu về đổi mới giáo dục dưới nhiều góc độ chuyên môn khác nhau,

nhưng vấn đề này gắn lĩnh vực báo chí – truyền thông lại chưa được khai thác
nhiều, đặc biệt vai trò của loại hình báo điện tử trong tuyên truyền về đổi mới
PTTS chưa được đề cập tới. Đó là khoảng trống luận văn sẽ tiếp cận nghiên cứu,
với mong muốn khái quát và góp một phần tổng hợp, khái quát thực tiễn góp vào
lý thuyết về thông tin về đổi mới PTTS trên trên báo điện tử ở Việt Nam hiện
nay. Trong luận văn, tác giả xin kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà
nghiên cứu đi trước và coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài
nghiên cứu của mình.

8


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, luận
văn đi vào nghiên cứu, dựng lên một bức tranh toàn diện, khái quát về thực
trạng, làm rõ những thành công, hạn chế trong việc thông tin về vấn đề đổi mới
PTTS trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay; từ đó kiến nghị các giải pháp phù
hợp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thông tin về đổi mới
PTTS trên báo điện tử thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn thông tin về vấn đề
đổi mới PTTS trên báo điện tử.
- Thứ hai: Làm rõ thực trạng, thành công, hạn chế và nguyên nhân của
thành công, hạn chế trong thông tin về vấn đề đổi mới PTTS trên báo điện tử
Việt Nam hiện nay.
- Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp hợp lý nhằm góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả thông tin về vấn đề đổi mới PTTS trên báo điện tử Việt Nam
thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thông tin về vấn đề đổi mới phương thức
tuyển sinh trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tác phẩm báo chí liên quan đến vấn đề đổi mới PTTS trên ba trang
báo điện tử: Giaoducthoidai.vn, giaoduc.net.vn, vnexpress.net trong khoảng thời
gian 03 năm, từ 1/1/2015 đến 31/12/2017. Đây là những trang báo điện tử gắn
liền với lĩnh vực giáo dục và đặc biệt là những trang báo được đối tượng độc giả
chủ yếu là học sinh, phụ huynh, các chuyên gia và các nhà quản lý giáo dục rất
quan tâm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, các Chương trình, Đề án về đổi mới tuyển sinh của Bộ GD-ĐT và các

9


bộ, ban, ngành, các trường đại học trên cả nước; những vấn đề lý luận về báo chí
nói chung, báo điện tử nói riêng…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu
Thông qua việc nghiên cứu chủ trương đường lối của Đảng, những quy
định của Bộ GD-ĐT về đổi mới PTTS; thông qua phân tích những đề tài, công
trình nghiên cứu đi trước, luận văn khái quát cơ sở lý luận cần thiết cho luận
văn; thiết kế được hướng nghiên cứu riêng, không trùng lắp về ý tưởng và nội
dung, đồng thời sử dụng các số liệu, kết quả nghiên cứu của các đề tài khác có
trích dẫn nguồn.
- Phương pháp phân tích nội dung

Dựa trên cơ sở phân tích các tác phẩm báo chí viết về vấn đề đổi mới
PTTS, luận văn tập trung phân tích, đánh giá về những ưu điểm, hạn chế trong
nội dung, hình thức các thông thông tin về đổi mới PTTS trong những tác phẩm
báo chí đăng trên ba trang báo khảo sát.
Qua nghiên cứu chủ trương, chính sách và những quy định của Bộ
GD&ĐT về đổi mới PTTS, luận văn đưa ra tiêu chí để lựa chọn, sàng lọc ra
những bài báo về vấn đề này. Theo đó, tiêu chí để lựa chọn những bài viết về đổi
mới PTTS là các tác phẩm có nội dung đăng tải những sự việc, sự kiện, tình
huống, hoàn cảnh mới nảy sinh mới xuất hiện trong công tác tuyển sinh của các
trường ĐH, CĐ.
Cũng như các lĩnh vực khác, những bài viết về đổi mới PTTS có thể xuất
hiện rất đa dạng. Để chọn ra những bài viết về vấn đề này có thể sàng lọc dựa
trên các tiêu chí về nội dung như:
+ Những Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
có liên quan đến đổi mới tuyển sinh
+ Những chính sách mới được bổ sung, điều chỉnh…
+ Những chủ trương, biện pháp, điều chỉnh mới của ngành giáo dục về
lĩnh vực tuyển sinh.
+ Những nhiệm vụ mới trong công tác tuyển sinh
+ Những thành tích mới, cố gắng mới

10


+ Những sự kiện, tình huống, vấn đề, tình hình… mới xuất hiện, mới nảy
sinh về đổi mới PTTS (đang cần được thông tin, phản ánh, giải thích, đánh giá,
bàn luận để rút kinh nghiệm…)
+ Những chân dung con người có vai trò ảnh hưởng đến công tác đổi mới
PTTS…
- Phương pháp khảo sát thống kê: Tác giả luận văn sử dụng để khảo sát số

lượng các tác phẩm viết về đổi mới phương thức tuyển sinh trên báo điện tử, thời
gian 03 năm (từ 01/01/2015 đến 31/12/2017).

- Phương pháp điều tra xã hội học
Phương pháp này được sử dụng để thu thập ý kiến đánh giá của công chúng,
nhà báo, nhà quản lý báo chí và các chuyên gia về thông tin đổi mới phương thức
tuyển sinh trên báo điện tử Việt Nam hiện nay. Tác giả sử dụng phương pháp

nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng, cụ thể:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính: Thông qua tiếp cận, mô tả, phân tích
các tác phẩm báo chí tiêu biểu về vấn đề đổi mới PTTS, luận văn cố gắng phản
ánh đầy đủ, chính xác cách báo điện tử đưa tin về vấn đề đổi mới PTTS, đưa ra
những chủ đề quan trọng phục vụ cho các nghiên cứu về sau, đồng thời trả lời
những câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng: Thông qua việc thu thập và thống
kê dữ liệu bằng số, luận văn khái quát hóa kết quả trong mẫu nghiên cứu, đưa ra
những phân tích, đánh giá khoa học cho toàn bộ tổng thể nghiên cứu.
+ Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Trên cơ sở khảo sát 300
người (100 học sinh, 100 phụ huynh và 100 giáo viên) thông qua việc phát hành
bảng hỏi ngẫu nhiên tại khu vực Hà Nội, luận văn đã thu thập ý kiến đánh giá, nhận
xét của công chúng về hiệu quả, tác động của các tác phẩm báo chí về vấn đề đổi
mới PTTS trên báo điện tử Việt Nam hiện nay.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Luận văn tiến hành phỏng vấn sâu 15 lãnh
đạo, phóng viên, biên tập viên của ba cơ quan báo chí được khảo sát để đưa ra
những đánh giá, nhìn nhận sâu hơn về thông tin đổi mới PTTS trên báo điện tử
Việt Nam hiện nay. Kết quả trả lời là những góc nhìn, quan điểm cụ thể có đóng
góp giúp cho những kết luậ của luận văn thêm khách quan.
11



6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo về mặt lý luận và
thực tiễn về báo chí trong thông tin về vấn đề tuyển sinh tại các cơ sở đào tạo
báo chí – truyền thông. Nội dung luận văn đã làm nổi bật vai trò của báo điện tử
trong truyền thông về vấn đề đổi mới PTTS, đồng thời cung cấp thêm khung lý
luận, những luận giải khoa học cho nghiên cứu sâu về truyền thông báo chí với
vấn đề giáo dục nói chung, với đổi mới PTTS nói riêng trên báo điện tử.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là những tham khảo về mặt thực tiễn liên
quan đến công tác thông tin về lĩnh vực tuyển sinh tại các cơ quan báo chí nói
chung và các cơ quan báo điện tử nói riêng. Góp phần xây dựng các tác phẩm báo
chí phong phú, hấp dẫn và có ý nghĩa với độc giả hơn, qua đó, nâng cao hiệu quả
truyền thông và định hướng dư luận xã hội của những tác phẩm này.
- Giúp các nhà báo nói chung, các nhà báo đang công tác trong lĩnh vực
báo điện tử nói riêng và đặc biệt là cơ quan báo chí, những nhà báo của ba tờ báo
khảo sát có thêm kiến thức và kỹ năng tác nghiệp trong thông tin về lĩnh vực
tuyển sinh.
- Góp phần giúp các cơ quan báo chí nói chung, các cơ quan báo điện tử
nói riêng nắm được nhu cầu của công chúng, từ đó đưa tin về vấn đề đổi mới
PTTS phù hợp với từng đối tượng công chúng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần bảng mã các từ viết tắt, mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu như sau:
Chương 1: Một số lý luận chung về thông tin đổi mới PTTS trên báo điện tử;
Chương 2: Thực trạng thông tin về vấn đề đổi mới PTTS trên báo điện tử
Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
thông tin về đổi mới PTTS trên báo điện tử ở Việt Nam hiện nay.


12


Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC TUYỂN SINH TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Đổi mới
Đổi mới đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển và vận động
của mọi sự vật, hiện tượng. Trong tiếng Anh, dùng từ “Renovation” hay
“Innovation”, tiếng Pháp dùng từ “Rénovation” với nghĩa “Đổi mới”. Từ này
theo nghiên cứu có nguồn gốc từ phương Tây và đã được sử dụng từ rất lâu bởi
các nhà kinh tế học cổ điển như Marx, List, Veblen… Đổi mới là quá trình mang
tính chủ động, nằm trong quy luật vận động và phát triển tự thân của sự vật.
Điều này có nghĩa đổi mới là một công việc diễn ra hằng ngày. Bất kỳ sự vật,
hiện tượng, cá nhân, cộng đồng và dân tộc nào cũng luôn luôn trải qua quá trình
đổi mới như là bản năng để tự thích nghi với những thay đổi của môi trường
sống. Câu nói rất nổi tiếng của Heraclite “Không ai tắm hai lần trên một dòng

13


sông” đã nói lên tinh thần này. Vì thế, đổi mới ít nhiều hàm nghĩa vận động, tức
là sự vật, hiện tượng, cá nhân, cộng đồng, dân tộc và thậm chí cả thế giới muốn
phát triển bình thường cần phải đổi mới thường xuyên và tự đổi mới. Một hệ
thống đạt được tiêu chí này là đạt đến tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất để
được công nhận là hoàn thiện và tối ưu.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ đổi mới. Theo
Schumpeter – một nhà kinh tế học người Mỹ thì đổi mới chính là: “Những tổ
hợp mới, được biểu hiện như một sự ứng dụng một sản phẩm mới, một phương

pháp sản xuất mới, sự mở ra một thị trường mới, sử dụng một nguồn cung cấp
nguyên liệu thô mới, hoặc một phương thức tổ chức mới các ngành [28, tr.132].
Định nghĩa của Schumpeter đã được ứng dụng trong những nghiên cứu
của một số tác giả như Edquist, Hommen hay Rolfstam. Tuy nhiên, các nhà khoa
học sau đã có những bổ sung để khái niệm được rõ nghĩa hơn. Chẳng hạn, dựa
trên cách tiếp cận này, học giả người Đức Edquist cho rằng: “đổi mới là những
sáng tạo mới có tầm quan trọng về kinh tế” [27, tr. 89], do vậy có sự phân biệt
giữa đổi mới và sáng chế. Tuy nhiên, định nghĩa của Edquist, nhìn nhận đổi mới
chủ yếu là từ triển vọng - đó hoàn toàn là tự nhiên, vì “các kết quả của những nỗ
lực đổi mới có thể khó được biết từ trước”. Đổi mới được Edquist nhấn mạnh là
một quá trình phá hủy có sáng tạo. Qua đó, các cấu trúc cũ bị phá hủy và cấu
trúc mới được xây dựng lên [27; tr. 95]. Edquist đã phân loại đổi mới thành hai
loại hình: Đổi mới đột biến (radical innovation) và đổi mới dần dần (incremental
innovation). Ban đầu, ông cho rằng chỉ những đổi mới đột biến mới có ý nghĩa
nhưng sau này, chính ông lại cho rằng những hoạt động đổi mới dần dần chính là
những hoạt động phổ biến hơn và có đóng góp nhiều hơn. Tuy nhiên, cách tiếp
cận của Edquist kém hiệu quả trong việc nắm bắt những cơ chế cơ sở mà thực tế
diễn ra bởi ngoài việc hiểu được đổi mới là gì, con người cũng cần phải nắm
được cách thức mà đổi mới diễn ra.
Để đáp ứng nhu cầu đó, Edler – một nhà kinh tế học người Đức đã mô tả
đặc trưng của đổi mới một cách rõ ràng hơn. Cụ thể, đổi mới là: “sự tìm kiếm, và
phát minh, thử nghiệm, phát triển, bắt chước, và áp dụng những sản phẩm mới,
14


những quy trình sản xuất mới và những cơ cấu tổ chức mới. Quá trình này cũng
mang tích tích lũy, nghĩa là những tri thức có từ trước quyết định những năng
lực khai thác các khả năng kỹ thuật mới” [25, tr.105].
Khái niệm đổi mới được nghiên cứu rõ nét hơn khi đặt trong mối quan hệ
với tăng trưởng kinh tế từ cuối những năm 1950. Các công trình nghiên cứu của

Robert Solow (1959) đã chỉ ra mô hình thực nghiệm rằng 87% sự tăng trưởng
của nền kinh tế Mỹ từ năm 1909 đến năm 1949 là do một nhân tố không xác
định được, gọi là nhân tố đổi mới công nghệ. Robert Solow đã cho rằng: “Đổi
mới nhiều khi hay bị nhầm lẫn với khái niệm sáng chế (invention). Sáng chế là
lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về một sản phẩm hay một quy trình mới. Trong
khi đó, đổi mới là việc đưa các ý tưởng này vào thực tiễn” [16; tr.39].
Cách tiếp cận tân cổ điển về đổi mới không phải là cách tiếp cận duy nhất.
Một loạt các nhà kinh tế học khác như Aschhoff và Sofka (1982) đã phát triển và
tiếp cận vấn đề đổi mới theo phương pháp có tính định hướng, hệ thống và giải
thích vấn đề đổi mới một cách triệt để hơn. Các nhà khoa học này cho rằng đổi
mới không phải là một quá trình tuyến tính trong xã hội mà là một quá trình
mang tính tích lũy, tương tác qua lại, có tính học hỏi đồng thời cũng có cơ chế
phản hồi [5; tr.53].
Trên cơ sở những nghiên cứu cùng kết hợp phân tích những khái niệm trên
đây, có thể dễ dàng nhận thấy cách tiếp cận của các học giả mới chỉ nhìn nhận khái
niệm và quá trình của đổi mới dưới góc độ kinh tế, công nghiệp. Còn trên thực tế,
đổi mới không chỉ là sáng tạo ra các sản phẩm hoặc dịch vụ mới, không chỉ là sự sử
dụng các công nghệ và kỹ thuật sản xuất mới hay sự thực hiện các phương thức mới
để tổ chức hoạt động và các quá trình kinh doanh mới mà hiểu theo nghĩa căn bản,
chung nhất thì đổi mới là quá trình thay đổi những sản phẩm/ quy trình/ hình thức
tổ chức mang tính cải tiến, đột phá, gia tăng để tạo ra những cái mới. Và đổi mới
diễn ra ở tất cả các lĩnh vực chứ không chỉ ở lĩnh vực kinh tế.
Năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “đổi mới” trong
sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước, Người viết: “Công cuộc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải không ngừng đổi
15


mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới, tình hình trong nước vốn
không ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh viết: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân

dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ
kịp nhân dân”. Đổi mới theo Hồ Chí Minh, “…còn là để thắng sức ỳ của thói
quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc khó khăn, nhưng chẳng có việc gì là không
thể đổi mới” [54; tr.88]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới và phát triển là
những khái niệm rất gần gũi, đôi khi được hiểu như nhau. Báo cáo tại Hội nghị
Chính trị đặc biệt năm 1964, Người viết: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta
đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội,
con người đều đổi mới” [54; tr.171].
Ở một khía cạnh khác, khái niệm đổi mới được dùng gần giống với khái
niệm cách mạng và cải cách, tuy nhiên so với cách mạng và cải cách thì đổi mới
“phổ biến hơn”, “nội dung tiến hành rộng rãi hơn” và có thể tiến hành lâu dài
hơn. Bởi đổi mới được tiến hành bất kỳ ở trình độ kinh tế, xã hội nào, ở giai
đoạn lịch sử nào, ở bất kỳ cá nhân hay dân tộc nào... Bên cạnh đó, đổi mới có thể
diễn ra trong tất cả các hoạt động sinh hoạt của con người, không chỉ qua hành
động mà cả tư duy, tâm lý, tình cảm... Chức năng quan trọng của đổi mới chính
là đưa sự sáng tạo và tính mới vào hệ thống (kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, y
tế…). Nếu không có đổi mới, xã hội sẽ rơi vào trạng thái “tĩnh” mà không có
phát triển. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng khẳng định: “Đổi mới
phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”. Do đó, đổi mới
đóng vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của con người và xã hội.
Từ những khái niệm trên đây, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn, tác giả
luận văn xin đưa ra khái niệm về đổi mới để phục vụ cho quá trình nghiên cứu
như sau: “Đổi mới là cách thức để thay đổi một phương thức hành động, tạo lập
một phương thức hành động mới tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước”. Đổi mới là
thay đổi cách nghĩ, cách làm cũ lạc hậu, lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu
phát triển, bằng cách nghĩ, cách làm khác, tiến bộ hơn và hợp với quy luật của sự

16



phát triển. Và đổi mới diễn ra ở tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, giáo dục…, trong đó đổi mới cũng xuất hiện ở cả những phạm vi hẹp hơn
như “đổi mới PTTS…
1.1.2. Phương thức
Thuật ngữ phương thức trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là con
đường, cách thức hoạt động. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, phương thức cũng chính
là phương pháp. Đó là hệ thống những hành động tuần tự nhằm đạt được những
kết quả phù hợp với mục đích đã định. Phương thức định hướng cho con người
xác định, lựa chọn, sử dụng phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn
một cách hiệu quả. Tác giả Phạm Minh Hạc trong cuốn Phương pháp luận Khoa
học giáo dục, đã cho rằng: “Phương thức có cấu trúc khá phức tạp, bao gồm
mục đích được đề ra, hệ thống những hành động (hoạt động), những phương
tiện cần thiết (phương tiện vật chất, phương tiện thực hành, phương tiện trí tuệ),
quá trình làm biến đổi đối tượng, kết quả sử dụng phương thức (mục đích đạt
được)” [32, tr. 138]. Như vậy, khi sử dụng đúng phương thức sẽ dẫn đến kết quả
theo dự định. Nếu mục đích không đạt được thì có nghĩa là phương thức không
phù hợp với mục đích hoặc không được sử dụng đúng. Bất kỳ phương thức nào,
dù là phương thức nhận thức hay phương thức thực hành sản xuất, để thực hiện
có kết quả vào đối tượng nào đó thì cũng phải biết được tính chất của đối tượng,
tiến trình biến đổi của nó dưới tác động của phương thức đó. Nghĩa là phải nhận
thức những quy luật khách quan của đối tượng mà chủ thể định tác động vào thì
mới đề ra những biện pháp hoặc hệ thống những thao tác cùng với những
phương tiện tượng ứng để nhận thức và để hành động thực tiễn.
Theo tác giả Hà Thế Ngữ trong cuốn “Giáo dục học”, có hai cách hiểu về
thuật ngữ phương thức: Cách thứ nhất, phương thức là cách thức nghiên cứu,
nhìn nhận các sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội. Cách thứ hai, phương
thức là hệ thống các phương pháp và cách thức sử dụng để tiến hành một hoạt
động nào đó [57; tr.45].
PGS.TS Nguyễn Văn Giang – Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh thì cho rằng: “Phương thức là tổng thể phương pháp,
17


hình thức, biện pháp, quy trình được sử dụng để thực hiện mục tiêu nào đó.
Theo đó, phương thức được chia thành hai loại: Phương thức chung và phương
thức cụ thể” [57; tr.30].
Còn theo tác giả Lê Tử Thành trong cuốn Logic học và phương pháp luận
nghiên cứu khoa học thì: Phương thức được tạo thành từ tổ hợp những yếu tố
như: Hệ thống các công cụ; hệ thống các mối liên hệ, cơ chế; hệ thống phương
pháp tiếp cận đối tượng. [71, tr.125].
Có thể thấy, khái niệm “Phương thức” bao hàm nội dung rất rộng, được sử
dụng khá nhiều cả trong lý luận và thực tiễn. Từ những khái niệm trên đây kết
hợp với nghiên cứu thực tiễn, tác giả xin đưa ra định nghĩa về phương thức như
sau: “Phương thức là hệ thống các cách thức, quy trình, phương pháp, bao gồm
cả phương pháp chung và các phương pháp cụ thể của quá trình thực hiện một
hành động nào đó để đạt được hiệu quả mong muốn”. Phương thức có mối liên
hệ hữu cơ với mục tiêu của quá trình hành động. Mục tiêu nào nào thì đòi hỏi
phải có phương thức ấy cho phù hợp nhưng không thể ngược lại. Như vậy, gắn
với vấn đề luận văn nghiên cứu thì mục tiêu của đổi mới PTTS sẽ quyết định
phương thức đổi mới như thế nào.
1.1.3. Tuyển sinh
Tuyển sinh là thuật ngữ được dùng ở thời hiện đại với hàm ý chỉ việc
tuyển chọn học sinh vào một cấp học. Trong lịch sử GDVN, tuyển sinh có nguồn
gốc từ “khoa cử”, “khoa bảng”. Khoa cử xuất hiện ở nước ta từ khoảng gần 1000
năm nay. Theo tác giả Đào Duy Anh, ở thời thượng cổ, lịch sử Việt Nam không
chép rõ về trí thức sinh hoạt. Đến thời Bắc thuộc thì nước Việt mới bắt đầu có
Hán học, viên Thái thú Sĩ Nhiếp đã dạy dân Việt thi thư. Đến thời nhà Ngô, nhà
Đinh, nhà Tiền Lê, do nước mới dựng, các triều đại chưa có điều kiện để tổ chức
nền giáo dục [3; tr.105].

Trong suốt chiều dài lịch sử, nền khoa cử nước ta đã chứng kiến nhiều
khoa thi khác nhau. Khoa thi vào các năm 1075, 1247, 1919 đều đánh dấu những
sự kiện lịch sử quan trọng. Khoa thi năm 1075 dưới triều đại nhà Lý gắn với kỳ
thi nho học đầu tiên của người Việt. Khoa thi năm 1247 là khoa thi đầu tiên khai

18


×