Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn hình phạt tiền theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH HƯƠNG

HÌNH PHẠT TIỀN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội, 2019



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ............ 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền ................ 8
1.2. Phân biệt hình phạt tiền với các hình phạt và biện pháp phạt khác
có liên quan ............................................................................................... 17
Chương 2: QUY ĐỊNH HÌNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH ............................................................. 23
2.1. Quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam .......... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh .............................................................................................. 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ....... 52
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng đúng hình phạt tiền ............................ 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt tiền ........................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự


TAND

: Toà án nhân dân

TANDTC

: Toà án nhân dân tối cao

TANDCC

: Toà án nhân dân cấp cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

KHXH

: Khoa học xã hội

Nxb

: Nhà xuất bản


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt vừa được
quy định với tính chất là hình phạt chính vừa được quy định với tính chất là

hình phạt bổ sung. Đây là một trong những hình phạt có lịch sử lâu đời đã
được quy định trong pháp luật của Nhà nước Việt Nam từ khá sớm. Cùng với
sự phát triển của pháp luật hình sự, các quy định về hình phạt tiền cũng dần
dần được hoàn thiện. Trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, hình phạt tiền
không chỉ được quy định để áp dụng đối với các cá nhân (thể nhân) bị kết án
mà còn để áp dụng đối với pháp nhân thương mại bị kết án về một số tội
phạm nhất định. Có thể thấy, hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung
trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt này của các Cơ
quan bảo vệ pháp luật.
Việc quy định và áp dụng hình phạt này đã thể hiện được chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta là “Trừng trị kết hợp với khoan hồng,
nghiêm trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội”, thể hiện
quan điểm chỉ đạo về đấu tranh phòng, chống tội phạm theo phương châm
“đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội”
Mặc dù vậy, trong thực tiễn xét xử ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trong
phạm vi toàn quốc, việc áp dụng hình phạt tiền còn rất khiêm tốn. Có tình
trạng này là do các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền mặc dù
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần qua các thời kỳ nhưng vẫn còn những hạn
chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng. Bên cạnh đó,
nhận thức về vị trí, vai trò của hình phạt tiền; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
ý thức pháp luật, trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm

1


công tác xét xử còn hạn chế. Điều đó vô hình chung đã làm giảm hiệu lực và
hiệu quả của hình phạt tiền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp

theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với phương châm: “Hoàn
thiện chính sách hình sự, thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng hiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở
rộng áp dụng hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình...” [5, tr 3]. Thêm vào đó, sự phát triển, bổ
sung và đề cao quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013
đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành để
các quyền con người, quyền công dân được bảo vệ và đảm bảo trên thực tế.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật quy định về
hình phạt tiền để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện và đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS hiện hành về hình
phạt tiền theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và quyền
công dân là hết sức cần thiết và cấp thiết.
Với lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Hình phạt tiền theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hình phạt tiền là một loại hình phạt có lịch sử lâu đời, được quy định
trong hầu hết BLHS của các nước trên thế giới và Việt Nam không phải là
một ngoại lệ. Do vậy, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan tâm
nghiên cứu về hình phạt tiền ở nhiều phương diện khác nhau, với cấp độ
nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ
ích mà học viên tham khảo, tiếp thu để thực hiện đề tài luận văn của mình.

2


Trong số những công trình khoa học đề cập đến hình phạt tiền mà học viên có

điều kiện tiếp cận nghiên cứu chủ yếu là các công trình cụ thể sau đây:
+ Hệ thống các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo
ngành luật như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội,
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,
đặc biệt là cuốn giáo trình Luật hình sự Việt Nam-phần chung và phần các tội
phạm do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được Nhà xuất bản khoa học xã
hội phát hành năm 2013 và năm 2014. Trong những cuốn giáo trình này, các
tác giả đều làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hình phạt tiền ở mức
độ khái quát nhất.
Ngoài hệ thống giáo trình nêu trên, đề cập đến hình phạt tiền còn có các
cuốn bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn “Bình luận Khoa học BLHS
năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017” (phần chung) do GS.TS Nguyễn
Ngọc Hòa chủ biên. Trong các cuốn bình luận Khoa học BLHS, các tác giả đã
bình luận làm rõ nội dung của các điều luật quy định hình phạt tiền trên các
mặt: bản chất, nội dung, điều kiện, căn cứ áp dụng....
+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành Luật hình sự và tố
tụng hình sự) có các công trình tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ “Các hình phạt
chính trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Sơn, Viện nghiên cứu
Nhà nước và pháp luật năm 2003; luận án tiến sĩ “Quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả
Lương Ngọc Châm, Học viện khoa học xã hội năm 2015; Luận án tiến sĩ “Xã
hội học hình phạt - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh
Linh, Học viện KHXH năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt bổ sung theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng”, Học viện KHXH
năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội qua thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Hải Dương” của tác giả Vũ
Minh Hải, Học viện KHXH năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Quyết định hình
phạt trong trường hợp đồng phạm từ thực tiễn T.P Đà Nẵng” của tác giả

3



Trương Minh Tuấn, Học viện KHXH năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Tổng hợp
hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn TP. Đà Nẵng” của tác
giả Dương Hoàng Tú, Học viện KHXH năm 2016; Luận văn thạc sĩ “Hình
phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”
của tác giả Nguyễn Xuân Hùng; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” của tác giả Nguyễn Văn
Đức, Học viện KHXH năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” của tác giả Nguyễn Ngọc
Thắng, Học viện KHXH năm 2015.... Những luận án, luận văn nêu trên chủ
yếu đề cập đến hình phạt nói chung (trong đó có hình phạt tiền), tuy nhiên
cũng có những luận văn đề cập riêng về hình phạt tiền từ thực tiễn của một
địa bàn cụ thể trên cả phương diện: lý luận, thực tiễn quyết định, áp dụng và
giải pháp. Đây là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên thực hiện đề
tài luận văn của mình.
+ Sách chuyên khảo, có các công trình tiêu biểu như: cuốn “Hình phạt
và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Văn
Quế, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2000; cuốn “Định tội danh và quyết định
hình phạt” của tác giả Dương Tuyết Miên, NXB Công an nhân dân năm
2004; cuốn “Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ
bảo vệ quyền con người” của tác giả Trịnh Quốc Toàn, NXB Chính trị Quốc
gia, năm 2015; cuốn “Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, NXB Chính trị Quốc gia năm
1995.v.v. Những cuốn sách chuyên khảo này đi sâu nghiên cứu những vấn đề
lý luận về hình phạt được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, nhưng
chủ yếu theo quy định của BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này đã giúp học viên có cách tiếp cận nghiên
cứu lý luận về hình phạt tiền, một trong những loại hình phạt nói chung.
+ Các bài báo khoa học có: “Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền”

của tác giả Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí TAND số 16/2009; “Hình phạt tiền

4


trong BLHS năm 1999” của tác giả Trương Quang Vinh, tạp chí Luật học, số
2/2000; “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh, tạp
chí TAND, số 5/2009; “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền” của tác giả
Nguyễn Hoàng Lâm, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2012; “Cần bổ sung
các điều kiện áp dụng hình phạt tiền... trong luật hình sự Việt Nam” của tác
giả Trần Thúy Hằng, tạp chí Kiểm sát số 18/2010; “Hình phạt tiền áp dụng
đối với người phạm tội trong BLHS năm 2015” của tác giả Mai Thị Thủy và
Đào Thì Nguyệt, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 4/2016.v.v. Những bài báo
khoa học trực tiếp đề cập đến hình phạt tiền cả dưới góc độ lý luận và quy
định của luật thực định (BLHS) là những tài liệu bổ ích để học viên tham
khảo, tiếp thu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn “Hình phạt tiền
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
Như vậy, mặc dù đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
hình phạt nói chung, hình phạt tiền nói riêng, nhưng do mục đích, nhiệm vụ,
phạm vi nghiên cứu khác nhau nên chưa có một công trình nào nghiên cứu hệ
thống, chuyên sâu về hình phạt tiền được quy định trong BLHS năm 2015 từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng
lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài
luận văn của học viên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn pháp luật (quy định và áp
dụng) về hình phạt tiền, luận văn hướng tới mục đích kiến nghị những quy
định cần sửa đổi, bổ sung về hình phạt tiền trong BLHS hiện hành và giải
pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định đó nhằm nâng cao hiệu quả của

hình hình phạt này trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như bảo
vệ và đảm bảo quyền con người trong bối cảnh hiện nay.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hình phạt tiền trên các
bình diện: khái niệm, đặc điểm, mục đích, vị trí, vai trò của hình phạt tiền với
tính cách là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, được quy định đối với cả cá
nhân phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự về hình phạt tiền của TAND tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 - 2018, rút ra
những mặt tích cực, cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
BLHS hiện hành về hình phạt tiền trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu về hình phạt tiền trong phạm vi lý
luận chuyên ngành luật hình sự và Tố tụng hình sự.
+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và
quyết định hình phạt tiền của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
+ Về không gian, thời gian: Số liệu, bản án được thu thập, đánh giá ở
tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận (cơ sở lý luận)
của Chủ nghĩa Mác - LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và
Nhà nước về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp, về bảo vệ và bảo đảm
quyền con người trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

6


Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành luật hình sự về
hình phạt tiền để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Cụ thể được sử dụng gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
chuyên gia... Các phương pháp này được sử dụng kết hợp để làm rõ từng nội
dung nghiên cứu trong luận văn
6. Ý nghĩa của lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm
những vấn đề lý luận về hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đối, bổ sung
hoàn thiện các quy định của BLHS về hình phạt tiền, cũng như trong thực tiễn
áp dụng để đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy,
nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hình phạt tiền

Chương 2: Thực tiễn quy định hình phạt tiền trong luật hình sự Việt
Nam và thực trạng áp dụng hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Hình phạt tiền là một trong những hình phạt được quy định từ lâu trong
hệ thống hình phạt của nước ta. Nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật
hình sự của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay vẫn chưa có quy phạm định
nghĩa về khái niệm hình phạt tiền.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có nhiều định nghĩa khác nhau
về khái niệm hình phạt tiền như: “Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội
phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách Nhà nước” [61, tr.272].
Khái niệm này mặc dù hết sức khái quát nhưng cũng chỉ ra được nội dung của
hình phạt tiền là “buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất định vào
ngân sách Nhà nước”. Tuy nhiên, trong khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ
đặc điểm, tính chất, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng của hình
phạt tiền.
Quan điểm khác thì cho rằng: “Phạt tiền được hiểu là một trong những
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết
tội đối với người bị kết án về những tội phạm được BLHS xác định với nội
dung là tước một khoản tiền nhất định của họ sung vào quỹ của Nhà nước,
thông qua đó giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời

thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [20, tr.183]. Tương tự như quan điểm
này, có tác giả định nghĩa: “Phạt tiền là một trong những biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người
bị kết án về những tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một
khoản tiền nhất định của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó

8


giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm
tội mới, đồng thời thực hiện phòng ngừa, giáo dục chung” [55, tr.84].
Đây là những khái niệm đầy đủ về hình phạt tiền trong đó đã phản ánh
được bản chất, nội dung của hình phạt tiền cũng như đối tượng, phạm vi, chủ
thể, và mục đích áp dụng loại hình phạt này. Nhưng trong hai khái niệm này
đêu diễn đạt “Phạt tiền là hình phạt....”, theo chúng tôi chưa thật sự chính
xác và đúng như BLHS quy định. Bởi vì, phạt tiền theo quy định của pháp
luật có thể là phạt hành chính, có thể là hình phạt. Đồng thời, trong các BLHS
đều dùng thuật ngữ “hình phạt tiền” mà không dùng thuật ngữ “phạt tiền”.
Mặt khác, những khái niệm này, được đưa ra trước thời điểm BLHS năm
2015 được ban hành, vì thế chưa phản ánh đầy đủ đối tượng bị áp dụng hình
phạt tiền, đó là pháp nhân thương mại bị kết án.
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong những khái niệm trên, đồng thời
trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền, chúng tôi cho
rằng, trong nội hàm khái niệm hình phạt tiền cần thể hiện đầy đủ bản chất, nội
dung, chủ thể, đối tượng, phạm vi, mục đích áp dụng... Với cách tiếp cận như
vậy, khái niệm hình phạt tiền cần được định nghĩa như sau: “Hình phạt tiền là
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được quy định trong BLHS với tính chất
là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, do Tòa án quyết định trong bản án
kết tội đối với người bị kết án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án về những
tội được Bộ luật này xác định, với nội dung tước một khoản tiền nhất định của

đối tượng bị kết án sung công quỹ của Nhà nước nhằm phòng ngừa riêng,
cũng như phòng ngừa chung”.
1.1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tiền
Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền mang đầy đủ
các đặc điểm chung của hình phạt như: là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
(trừng trị, giáo dục, cải tạo) của Nhà nước; được quy định cụ thể trong BLHS;
do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với đối tượng bị kết án...

9


Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, hình phạt tiền có những đặc
điểm riêng khác với hình phạt còn lại trong hệ thống hình phạt, đó là:
+ Thứ nhất, hình phạt tiền là hình phạt có khả năng tác động về mặt
kinh tế đối với đối tượng bị áp dụng. Đặc điểm này của hình phạt tiền thể hiện
ở nội dung của nó là: “tước một khoản tiền nhất định của đối tượng bị áp
dụng sung công quỹ của Nhà nước”. Vì thế, hình phạt tiền có khả năng tác
động đến ý thức của đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng phải nhận thức
được sự lên án của Nhà nước, nhận thức được tính chất sai trái của hành vi
mà mình thực hiện để có phương hướng sửa chữa. Đồng thời, hình phạt tiền
còn có tác dụng loại trừ, hạn chế những điều kiện về tài sản mà đối tượng có
thể sử dụng để tiếp tục phạm tội.
+ Thứ hai, hình phạt tiền là loại hình phạt lưỡng tính vừa được quy
định là hình phạt chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung.
Cũng như hình phạt trục xuất, hình phạt tiền vừa tồn tại trong hệ thống
hình phạt chính, vừa tồn tại trong hệ thống hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, tính
lưỡng tính này của hình phạt tiền hoàn toàn không cho phép áp dụng trong cùng
một tội phạm, có nghĩa là đối với một tội phạm cụ thể, hình phạt tiền chỉ có thể
áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính. Quy định
như vậy, đúng như một tác giả đã nhận định: “Nhà làm luật đã mở ra khả năng

đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự, tăng cường tính linh hoạt trong việc
vận dụng, định hướng áp dụng hình phạt mà luật đã định”[55, tr.85].
+ Thứ ba, hình phạt tiền được áp dụng đối với cả cá nhân (thể nhân) bị
kết án và pháp nhân thương mại bị kết án.
Nếu như một số hình phạt như hình phạt cải tạo không giam giữ, hình
phạt tù, hình phạt tử hình... chỉ có thể áp dụng đối với cá nhân người bị kết án
(thể nhân) thì hình phạt tiền theo quy định của BLHS hiện hành có thể áp
dụng đối với cá nhân bị kết án và cả pháp nhân thương mại bị kết án. Như

10


vậy, đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền rộng hơn đối tượng bị áp dụng một
số hình phạt khác, do tính chất, nội dung của các loại hình phạt này
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.1.2.1. Mục đích của hình phạt tiền
Với bản chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, nội
dung của hình phạt tiền được thể hiện ở việc tước một số tiền nhất định của
đối tượng (thể nhân hoặc pháp nhân thương mại) bị kết án sung công quỹ Nhà
nước. Mức phạt tiền (khoản tiền bị tước sung vào công quỹ của Nhà nước) phải
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến
tình hình tài sản của đối tượng bị áp dụng, cũng như sự biến động của giá cả,
nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng (đối với cá nhân bị kết án) và
không được thấp hơn 50.000.000 đồng (đối với pháp nhân thương mại bị kết án).
Có thể thấy, sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của đối tượng bị kết án sung
công quỹ của Nhà nước thể hiện tính nghiêm khắc của hình phạt này.
Với nội dung là tước bỏ lợi ích kinh tế (một khoản tiền nhất định) của
đối tượng bị kết án, hình phạt tiền có khả năng tác động về mặt kinh tế (tài
sản) môn nghiệp vụ, cần chú ý giáo dục
phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn

về chính trị của Hội thẩm là “…có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và
kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực” (Điều 82 Luật Tổ chức
TAND năm 2014).
+ Quy định rõ chế độ trách nhiệm của Hội thẩm đối với các bản án,
quyết định mà mình tham gia giải quyết. Trường hợp có nhiều bản án bị hủy,
sửa vì lý do chủ quan của Hội thẩm hoặc do Hội thẩm thiếu trách nhiệm trong
công tác xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc các
chế tài xử lý khác.
+ Cần sửa đổi bổ sung chế độ chính sách đối với Hội thẩm, đặc biệt là
chế độ thù lao thỏa đáng đối với Hội thẩm. Phụ cấp cho Hội thẩm tham gia xét
xử cần nâng mức cao hơn quy định hiện hành không dừng lại ở mức 90.000
đồng/ngày như hiện tại.
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan, tổ chức
và cá nhân khác có liên quan.
Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một
trong những nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp
trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [3,tr4]. Quán
triệt nhiệm vụ này, ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần tăng cường sự
phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Muốn vậy, phải xây
dựng được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, khoa học, trong đó phân định rõ

70


chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và trách nhiệm phối hợp của ba cơ
quan này để tạo ra mối quan hệ cần thiết, bổ sung cho nhau trong suốt quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện

tượng hữu khuynh, tình trạng: “quyền anh quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách
nhiệm cho nhau. Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố tụng cần xác định nội
dung, hình thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế; việc phối hợp phải
được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Kinh nghiệm cho thấy, nếu ba
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với nhau thì
việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự được tiến hành nhanh chóng, kịp
thời và chính xác, việc quyết định hình phạt tiền của Tòa án đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật phù hợp với tình hình tài sản, sự biến động của
giá cả thị trường; hạn chế tối đa những sai sót không đáng có.
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự nói chung, quyết định hình phạt
tiền nói riêng, những người tham gia tố tụng có vai trò không nhỏ đối với việc
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nhất là luật sư bào chữa. Do vậy,
Hội đồng xét xử phải hết sức tôn trọng và lắng nghe ý kiến của họ khi tranh
luận, tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho thấy, phiên tòa nào có luật sư bào
chữa tham gia thì việc giải quyết vụ án sẽ được chính xác, khách quan, công
bằng và nhân đạo hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người
bị hại … được bảo vệ tốt hơn. Đúng như một nhà nghiên cứu đã đánh giá: “Sự
tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự thúc đẩy công tác điều tra, truy tố,
xét xử được đầy đủ và khách quan hơn, định tội đúng hơn, áp dụng hình phạt
có xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và nhân thân bị cáo”. Tuy nhiên, hiện
nay ở nước ta, vai trò của luật sư, của người bào chữa chưa được đề cao đúng
mức trong xã hội, cũng như trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì thế, để phát
huy vai trò của luật sư bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung,
trong hoạt động tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa nói riêng phải đẩy mạnh
triển khai các biện pháp để phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư

71


đã được đề cập trong Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày
05/7/2011. Đồng thời xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo cho luật sư bào chữa
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đúng qui định của pháp
luật và lương tâm nghề nghiệp, nhất là cơ chế bảo dảm cho luật sư thực hiện
tốt việc tranh tụng dân chủ tại phiên tòa.
3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát
xét xử, tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm bài học trong áp dụng hình
phạt tiền
+ Để đảm bảo hoạt động quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tiền
nói riêng của TAND được chính xác, khách quan, có tính khả thi, vấn đề
không kém phần quan trọng là phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án, nhất là vấn đề áp dụng hình
phạt tiền.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra
nhiệm vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trň
giám sát của cơ quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư
pháp” [5, tr4]. Đây là một chủ trương hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế
phải thường xuyên đổi mới và tăng cương hơn nữa. Thực tế cho thấy, ở địa
phương nào, Tòa án cấp nào làm tốt công tác này thì ở đó hoạt động xét xử nói
chung, hoạt động quyết định hình phạt tiền trong giải quyết vụ án nói riêng sẽ
có chất lượng, hiệu quả, sẽ phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, sai
sót trong hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy,
nhưng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nhiệm
vụ cải cách tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của tòa án nói riêng có nơi, có
lúc bị buông lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng chưa cao.
Trong Đảng, chính quyền địa phương, trong ngành tòa án cũng như
trong xã hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, sám sát một

72



cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém trong hoạt động xét
xử của tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành tòa án đối với việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án dường như chưa đạt được
kết quả mong muốn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, giám sát
của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) cũng như cơ quan
thanh tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tế. Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án thì
chưa thực sự phát huy tác dụng vì chưa có các qui định cụ thể, chặt chẽ, đầy
đủ về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án… Về
vấn đề này, trong Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49 –
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với
một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông lỏng, thiếu
kiểm tra, đôn đốc, sự phối giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với nhau
và với cấp ủy đảng địa phương chưa thật sự chặt chẽ” [3,tr24]. Ở tỉnh Quảng
Ninh, những hạn chế, thiếu sót này cũng không ngoại lệ. Chẳng hạn, khi đánh
giá những mặt tồn tại trong công tác của TAND tỉnh Quảng Ninh năm 2018 về
vấn đề này có kết luận: “Lãnh đạo một số Tòa án chưa thật sự chủ động trong
triển khai nhiệm vụ công tác, công tác kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ và
thực thi công vụ của một số vơi chưa thường xuyên, hiệu quả cao… chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra” [58, tr.9].
Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng, hiệu quả
xét xử của tòa án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả xét xử, đảm bảo
việc quyết định hình phạt của tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn
chế những oan sai trong xử lý vụ án cần chú trọng đổi mới và tăng cường hơn
nữa công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo của Tòa án cấp


73


trên nhưng phải đảm bảo: “Khi xét xử, tòa án hoàn toàn độc lập và chỉ tuân
thủ theo pháp luật”. Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần
tránh sự can thiệp quá sâu vào hoạt động quyết định hình phạt của tòa án.
Mặt khác, cần đề cao vai trò của VKS trong kiểm tra, giám sát hoạt
động xét xử, vai trò của cơ quan thanh tra chuyên nghành đối với việc giải
quyết vụ án của Tòa án. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế giám sát của
nhân dân, của công luận đối với hoạt động xét xử của tòa án một cách cụ thể,
công khai, minh bạch, trong đó qui định rõ quyền và nghĩa vụ giám sát của
nhân dân đối với hoạt động xét xử của tòa án.
+ Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của tòa án, cần định kỳ tổng kết
thực tế xét xử để đánh giá những kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm
… và phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm đó trong ngành tòa án nếu có đủ
điều kiện thì xây dựng thành án lệ. Đồng thời, khi tổng kết cần đặc biệt chú ý
đến việc chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động xét xử, nhất là trong
quyết định hình phạt đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp thời,
không để cho những hạn chế, thiếu sót đó tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả xét xử, nhất là đối với hoạt động quyết định hình phạt của
tòa án.
3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất là
phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao
Trong nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/5/20005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng: “Tổ chức
các cơ quan tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý , khoa học và hiện
đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc” [5].
Đây là một phưng hướng hết sức đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tác

động của cuộc cách mạng 4.0. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho TAND định

74


tội danh và quyết định hình phạt đúng, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án
về hình sự, Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng kinh phí, đảm bảo các điều kiện
phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp, đặc
biệt là TAND.
Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các
cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. Tiếp tục đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc của TAND cấp huyện khang trang phù hợp với yêu cầu
sử dụng. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, công tác xét
xử, thi hành án, công tác định giá tài sản; tăng cường áp dụng công nghệ thông
tin vào hoạt động xét xử, tiến tới xây dựng tòa án điện tử. Đặc biệt trong bối
cảnh tỉnh Quảng Ninh đang là một trong ba tòa án được TANDTC áp dụng thí
điểm hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng từ và cấp, tống đạt,
thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử, triển khai phần niên giám
sát hoạt động chuyên môn.
Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp
thời, quyết liệt, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo áp dụng
đúng pháp luật hình sự trong quyết định hình phạt trong đó có hình phạt tiền
của TAND không chỉ ở tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.
Tiểu kết Chương 3
Xuất phát từ thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật hình sự về
hình phạt tiền tại tỉnh Quảng Ninh đặt ra vấn đề phải tìm ra những giải pháp
nâng cao chất lượng xét xử, để đảm bảo quyết định hình phạt đúng, thỏa đáng
đối với người bị kết án. Việc đề ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng qui
định của pháp luật hình sự về hình phạt tiền cần phải quán triệt các yêu cầu mà
thực tiễn đặt ra, trong đó tập trung vào các yêu cầu cơ bản như yêu cầu bảo vệ

quyền con người, yêu cầu cải cách tư pháp, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm, yêu cầu hội nhập quốc tế. Những yêu cầu này có tính chất định hướng,

75


chỉ đạo việc thiết lập hệ thống giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các qui định
của pháp luật hình sự về hình phạt tiền.
Để đáp ứng các yêu cầu trên bảo đảm việc quyết định hình phạt tiền
được đúng quy định của pháp luật, có tính khả thi, cần triển khai thực hiện
đồng bộ các giải pháp như: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự;
Tăng cường nhân lực, vật lực cho hoạt động xét xử các vụ án về hình sự.
Những giải pháp này nếu được triển khai thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ
sẽ đem lại kết quả thiết thực trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là trong áp
dụng hình phạt tiền.

76


KẾT LUẬN
Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, pháp luật hình sự Việt Nam đã sớm qui định về hình phạt tiền là một
trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của nước ta ngày càng được
hoàn thiện.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền trên phạm vi cả nước
cũng như ở từng địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh ngoài những kết
quả đạt được thì vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Những hạn chế, thiếu sót
này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau như: sự hạn chế,
bất cập trong các qui định của pháp luật hình sự và pháp luật có liên quan;
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng còn yếu

kém; (đặc biệt là TAND); kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác của các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung của TAND nói riêng còn hạn chế…
Để đảm bảo chất lượng xét xử, nhất là quyết định hình phạt tiền cần
phải triển khai đồng bộ các giải pháp khác nhau như: tiếp tục hoàn thiện các
qui định của BLHS năm 2015 và các qui định của BLTTHS năm 2015 có liên
quan đến việc áp dụng hình phạt tiền; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp
luật hình sư; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa TAND với các cơ quan
hữu quan; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát xét xử,
tổng kết thực tiễn; đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, điều kiện, phương tiện
công tác cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nhất là TAND ... Các giải
pháp này nếu được triển khai đồng bộ, liên tục, kiên quyết sẽ đem lại kết quả
thiết thực trong áp dụng hình phạt tiền.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã có nhiều có gắng, nhưng
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả của luận văn kính
mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các
thầy, cô giáo để tác giả tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo luận văn được hoàn thiện
hơn.

77


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hải Băng (2011), “Hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999
và một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND số 01, Hà Nội.
2. Vũ Lai Bằng (1997), “Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam; Những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sĩ, Viện nghiên cứu nhà
nước và pháp luật, Hà Nội;
3. Ban chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014), “Báo
cáo tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội;
4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
6. Bộ Tư pháp – Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2000), số chuyên đề về BLHS
(năm 1999), Hà Nội;
7. C. Mác – Ph. Ăng ghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
8. Lê Cảm (2007), “Hình phạt và hệ thống hình phạt”, Tạp chí TAND, số 14,
Hà Nội
9. Ngô Văn Dũng (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội;
10. Đỗ Văn Chỉnh (2009), “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí
TAND số 5, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Đức (2014), “Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn tỉnh Long An”, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
12. Vũ Thế Đoàn (2011), “Hình phạt tiền quy định trong BLHS năm 1999 và
một số kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí TAND, số 1, Hà Nội.

78


13. Trần Văn Độ (2017, “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm
tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí TAND, số 24, Hà Nội.
14. Đặng Thị Thu Hằng (2019), “Áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên”, Luận văn thạc sĩ, Học
viện KHXH, Hà Nội;
15. Trần Thúy Hằng (2010), “Cần bổ sung sửa đổi các điều kiện áp dụng hình
phạt tiền và hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS”, Tạp chí

Kiểm sát số 18, Hà Nội.
16. Nguyễn Hữu Hậu (2007), “Đề xuất định hướng hoàn thiện các quy định về hình
phạt theo yêu cầu của cải các tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 7, Hà Nội.
17. Nguyễn Ánh Hồng (2017), “Hoàn thiện chính sách hình phạt trong quy
định của BLHS năm 2015 theo tinh thần của các công ước quốc tế về
quyền con người”, Tạp chí khoa học pháp lý số 6.
18. Phạm Thị Phương Hiền (2017), “Hình phạt chính áp dụng đối với pháp
nhân thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 2, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Hòa (2001), “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội;
20. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), (2018), Bình luận khoa học PLHS năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần chung), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
21. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên),Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội;
22. Nguyễn Mạnh Kháng (2000), “Hình phạt một số vấn đề lý luận”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội
23. Nguyễn Mạnh Kháng (2002), “Quan điểm tiếp cận hiệu quả của hình
phạt”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8, Hà Nội
24. Nguyễn Minh Khuê (2014), “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ
thống hình phạt Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 1, Hà Nội

79


25. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Các hình phạt chính không tước tự do trong luật
hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luận học, Học viện KHXH, Hà Nội;
26. Nguyễn Minh Khuê (2015), “Đảm bảo hiệu quả của các hình phạt chính
không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và

pháp luật số 2, Hà Nội.
27. Nguyễn Hoàng Lâm (2012), “Hoàn thiện quy định về hình phạt tiền trong
BLHS Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7, Hà Nội
28. Võ Khánh Linh (2016), “Tính quyết định xã hội của hình phạt: Một số
khía cạnh lý luận” Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội số 10, Hà Nội.
29. Võ Khánh Linh (2017), “Xã hội học hình phạt – Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Luận án tiến sĩ, Học viện KHXH, Hà Nội;
30. Nguyễn Quang Lộc (2017), “Một số sửa đổi, bổ sung cơ bản của BLHS
năm 2015” Kỳ I, II, III, Tạp chí TAND số 18, 19, 20, Hà Nội;
31. Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội;
32. Dương Tuyết Miên (2004), “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb
CAND, Hà Nội;
33. Dương Tuyết Miên (2006), “Sự mâu thuẫn giữa hình phạt tiền quy định tại
khoản 1, Điều 30 BLHS với một số tội phạm cụ thể và những bất cập
của hình phạt này”, Tạp chí TAND số 15, Hà Nội.
34. Dương Tuyết Miên (2015), “Về phạt tiền và cải tạo không giam giữ”, Tạp
chí Luật học số 3, Hà Nội.
35. Phùng Thị Hải Ngọc (2015), “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội
36. Đinh Văn Quế (2001), Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
37. Đinh Văn Quế (2018), “Hình phạt và quyết định hình phạt đối với pháp nhân
thương mại phạm tội trong BLHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 8,

80


×