Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG tố TRONG vụ án cố ý gây THƯƠNG TÍCH HOẶC gây tổn hại CHO sức KHỎE của NGƯỜI KHÁC từ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.22 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG VỤ ÁN
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN HƯNG BÌNH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của riêng tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn
dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn có được là do quá trình
lao động
trung thực của tôi.
Hà Nội, ngày tháng 8 năm 2019
NGƯỜI CAM ĐOAN

TRƯƠNG THỊ NGỌC HUỆ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 : MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC ................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố ............ 9
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi........................................................................ 9
1.1.2. Đặc điểm và nội dung hực hành quyền công tố ............................ 14
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt động
tư pháp..................................................................................................... 16
1.2. Khái niệm- Đặc điểm tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ...................................................................... 19
1.2.1. Khái niệm ...................................................................................... 19
1.2.2. Đặc điểm ....................................................................................... 19

1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành quyền
công tố trong các giai đoạn tố tụng ............................................................. 22
1.3.1. Giai đoạn thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .......................... 22
1.3.2. Giai đoạn điều tra vụ án ............................................................... 26
1.3.3. Giai đoạn truy tố ........................................................................... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 32


2.1. Tình hình tội phạm Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 thời gian từ năm 2014 đến năm
2018 ............................................................................................................. 32
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội Quận 9 ............. 32
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ
Chí Minh…………………………………………………………………….34
2.1.3. Tình hình của tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9 ....................................... 35
2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9
Thành phố Hồ Chí Minh ............................................................................. 38
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân ............................................... 47
2.3.1. Những hạn chế, tồn tại .................................................................. 47
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ..................................... 56
Chương 3:YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO
SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 9, THÀNH

PHỐ HỒ CHÍ MINH .................................................................................... 60
3.1. Yêu cầu và phương hướng ................................................................... 60
3.1.1. Yêu cầu .......................................................................................... 60
3.1.2. Phương hướng ............................................................................... 62
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác trên địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh ..................................... 62
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố đối với


các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác ......................................................................................................... 62
3.2.2. Nâng cao chất lượng quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác
thực hành quyền công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................... 63
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác thực
hành quyền công tố ................................................................................. 64
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ
công tác chuyên môn, nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân................ 66
3.3. Kiến nghị .............................................................................................. 67
3.3.1. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn giải đáp một số vấn đề
vướng mắc trên thực tế và sửa đổi nội dung quy định không phù hợp... 67
3.3.2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan ..................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ, số bị can về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác bị khởi tố từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn
Quận 9 ............................................................................................................. 35
Bảng 2.2. Số vụ án và bị can bị đình chỉ, tạm đình chỉ về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong các năm từ 2014 2018 trên địa bàn Quận 9 ................................................................................ 40
Bảng 2.3. Số vụ án và bị can về tội tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác kết thúc điều tra được VKS truy tố trong các
năm từ 2014-2018 trên địa bàn Quận 9........................................................... 45


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tình hình kinh tế - xã hội đất nước ngày càng phát triển kéo theo hệ lụy
là tội phạm ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Điều này đặt ra yêu cầu nặng
nề hơn cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghị quyết số
63/2013/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội về tăng cường các
biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm đã nhấn mạnh yêu cầu cụ thể về
các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Để
cụ thể hóa các chủ trương, biện pháp đó, các văn bản pháp luật hình sự, đặc
biệt là quy định của Bộ luật hình sự, BLTTHS ngày càng được hoàn thiện
hơn. Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm thuộc về nhân dân và cả
hệ thống chính trị, trong đó, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, trong đó có
VKS. Trách nhiệm đó được VKS thực hiện thông qua công tác thực hiện chức
năng của mình, nhất là công tác THQCT. Trước yêu cầu cải cách tư pháp,
trách nhiệm của VKS càng được đặt ra nặng nề hơn. Nghị quyết số 08/NQTN ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp
trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị đã khẳng định
“VKSND tiếp tục thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tư pháp … tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra…”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định VKSND có chức
năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm thực hiện “nhiệm vụ bảo
vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”[15, tr.27]. Điều này đòi hỏi hoạt động của VKSND nói chung,
hoạt động THQCT nói riêng cần được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thực hiện
1


một cách triệt để, có hiệu quả. Trên cơ sở đó, Ngành kiểm sát cũng đã xác
định rõ nhiệm vụ và đặt ra yêu cầu cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ đó
thông qua nhiều văn bản như Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về
tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, Chỉ thị số
04/CT-VKSTC ngày 10 tháng 7 năm 2015 về tăng cường các biện pháp
phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị nằm ở vị trí cửa ngõ Đông
Bắc của thành phố, nối liền địa bàn kinh tế trọng điểm của khu vực. Quận 9
có diện tích 113,896.200 km2, có 13 phường với dân số 235.268 người [5].
Với địa bàn rộng, dân cư tương đối đông và hàng năm đều gia tăng, kinh tế
ngày càng phát triển đưa đến hệ lụy là tình hình tội phạm cũng ngày càng gia
tăng. Vì vậy, bên cạnh giữ vững ổn định, phát triển kinh tế, Quận 9 còn đối
mặt với không ít những khó khăn về vấn đề đấu tranh phòng chống tội phạm,
trong đó có tội phạm cố ý gây thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. So với các địa phương khác, Quận 9 là khu vực luôn chiếm tỷ lệ
tương đối lớn về loại tội phạm này và hiện nay đang có chiều hướng gia tăng
về số lượng cũng như mức độ nguy hiểm. Công tác THQCT đối với các tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

Quận 9 trong những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực, vai trò của
Viện kiểm sát ngày càng được khẳng định. Hầu hết các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra trên địa bàn quận
được phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo sự
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đã góp phần quan trọng
vào việc giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, qua
thực tiễn công tác của Viện kiểm sát cho thấy, công tác thực hành quyền công

2


tố đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9 cũng có những hạn chế, bất cập do nhiều
nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời.
Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành
phố Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: Thực hành quyền
công tố trong vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngườì khác từ thực tiễn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn
thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
THQCT nói chung và THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng hiện nay đang là chủ
đề được khá nhiều học giả cũng như người làm công tác thực tiễn quan tâm,
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đưa ra quan điểm nghiên cứu dưới
dạng sách tham khảo có thể kể đến một số tác phẩm điển hình như cuốn
“THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê
Hữu Thể, TS Đỗ Văn Đương và CN Nông Xuân Trường. Cuốn sách này tác

giả chủ yếu đưa ra và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền
công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh đó còn
có cuốn “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Nguyễn Hải Phong (chủ biên). Cuốn sách này tác giả chủ yếu đưa ra
và phân tích các vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, chủ trương định hướng của Đảng và đưa ra giải pháp nhằm tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra mà không gắn công tác

3


này với tội phạm cụ thể. Bên cạnh đó, những cuốn bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng Hình sự của các trường như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh hoặc các cuốn bình luận của các tác giả như GS.TS Nguyễn
Ngọc Anh – LS.TS. Phan Trung Hoài, TS. Phạm Mạnh Hùng và các đồng tác
giả, TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng, … cũng nghiên cứu về công
tác thực hành quyền công tố nhưng chỉ đề cập với thời lượng ít và mang tính
chất chung đối với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về chức năng nhiệm
vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự mà không đi sâu nghiên
cứu công tác này cũng như không gắn công tác này với tội phạm cụ thể.
Nghiên cứu dưới góc độ luận văn có tác giả Trịnh Duy Tám với luận
văn thạc sỹ luật học "Áp dụng pháp luật trong THQCT trong giai đoạn điều
tra của VKSND ở Việt Nam hiện nay”; tác giả Nguyễn Mạnh Tùng với luận
văn thạc sỹ luật học “THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án về ma
túy ở Thành phố Hà Nội”; tác giả Phạm Anh Đức với luận văn thạc sỹ
“Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”; tác giả Nguyễn Ngọc Ánh với luận văn thạc sỹ luật học
“THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành
phố Hà Nội”; tác giả Phan Thị Sa với luận văn thạc sỹ luật học “THQCT

trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức,
tỉnh Quảng Ngãi”, tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với luận án tiến sỹ luật học
“Quyền công tố ở Việt Nam”, ... Các công trình này nghiên cứu về công tác
thực hành quyền công tố nói chung, công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn xét xử
gắn với một loại tội phạm cụ thể như tội phạm về ma túy, tội xâm phạm sở
hữu.
Ngoài ra, có nhiều tác giả thể hiện quan điểm nghiên cứu về vấn đề này
dưới dạng các bài viết khoa học được đăng trên các báo, tạp chí như: bài viết

4


“Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình
cải cách tư pháp” của tác giả Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14 –
16/2008; “Bàn về mô hình viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp” của
tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí kiểm sát số 14-16/ 2008; bài viết “Tăng cường
trách nhiệm của công tố trong giai đoạn điều tra trong BLTTHS” của tác giả
Nguyễn Tiến Sơn đăng tạp chí kiểm sát số 09/2015; bài viết “Một số vấn đề
đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Duy Giảng
đăng trên Trang thông tin điện tử của VKS ND tối cao; bài viết “Một số vấn
đề về quyền công tố” của tác giả Trần Văn Độ đăng trên Tạp chí Luật học số
3/2001, bài viết “thực trạng công tác THQCT ,kiểm sát điều tra, kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự tại Viện kiểm sát 02 cấp tỉnh Bình Dương và giải pháp,
kiến nghị” của tác giả Nguyễn Phước Trung đăng trên Trang thông tin điện tử
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, …
Các công trình nghiên cứu, các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ
khác nhau khi bàn về hoạt động THQCT dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học nghiên

cứu một cách hệ thống, toàn diện, sâu sắc và đầy đủ về công tác THQCT đối
với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác, nhất là gắn với địa bàn cụ thể là Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
về THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, phân tích thực trạng áp dụng pháp luật để trên cơ sở
đó tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng
công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và các vụ án hình sự nói chung.

5


- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn
đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ:
+ Làm rõ lý luận về THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
+ Làm rõ quy định của BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp luật có
liên quan về THQCT trong các giai đoạn tố tụng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng công tác THQCT đối với các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên
địa bàn Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh và những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình thực hiện công tác này.
+ Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về thời gian: luận văn tập trung khảo sát công tác THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến
năm 2018;
+ Phạm vi về không gian: luận văn khảo sát tình hình thực hiện công
tác THQCT đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác chỉ trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.

6


+ Phạm vi về nội dung: Công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác được Viện kiểm sát thực hiện trong cả giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Tuy nhiên, với thời gian ngắn và khả năng nghiên cứu có hạn, luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác này ở hai giai đoạn
là điều tra và truy tố.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khác nhau, cụ thể là các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, nghiên cứu án điển hình nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và
thực tiễn của đề tài.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài

Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đi sâu vào phân tích
một cách tương đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống quy định về hoạt động của
Viện kiểm sát khi THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và việc áp dụng những quy định đó
trên thực tế. Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể góp phần bổ
sung và làm phong phú thêm lý luận về hoạt động THQCT đối với các vụ án
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
dưới góc độ pháp lý hình sự, tố tụng hình sự và đưa ra cơ sở khoa học của
hoạt động hoàn thiện pháp luật về hoạt động này.

7


Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
đối với những người làm công tác thực tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và những người học tập, giảng dạy, nghiên
cứu lập pháp về công tác THQCT đối với các vụ án về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1 : Một số vấn đề lí luận và pháp luật về THQCT đối với các
vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Chương 2: Thực trạng THQCT các vụ án cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ
Chí Minh
Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả THQCT
đối với các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trên địa bàn quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh

8


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN CỐ Ý GÂY
THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC
1.1. Khái niệm - Phạm vi - Đặc điểm của thực hành quyền công tố
1.1.1. Khái niệm - Phạm vi
Khái niệm về quyền công tố:
Chế định VKS được quy định trong pháp luật Việt Nam đã từ rất lâu
nhưng cho đến Hiến pháp năm 1980 thì thuật ngữ “thực hành quyền công tố”
với tư cách là chức năng của Viện kiểm sát mới được chính thức ghi nhận. Từ
thời điểm đó, khái niệm quyền công tố và THQCT đã được nghiên cứu, đề
cập khá nhiều trong khoa học pháp lí nước ta dưới các góc độ khác nhau.
Song, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận
thức đối với vấn đề này, chưa có một quan điểm thống nhất khi bàn về quyền
công tố. Theo Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, công tố có
nghĩa là "điều tra, truy tố và buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án" [34, tr.204].
Theo đó, công tố bao gồm cả hoạt động điều tra và truy tố, buộc tội kẻ phạm
tội trước Tòa án. Theo Từ điển Luật học, công tố “là quyền của Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”[26, tr.188]. Ở Việt Nam
hiện nay, quyền công tố được Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Trên cơ sở
đó có thể hiểu, “quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh Nhà nước đối với
người phạm tội”[26, tr.188]. Trong giới nghiên cứu khoa học, khái niệm
quyền công tố được đưa ra tương đối nhiều nhưng có thể kể đến một số quan
điểm chính sau:
Quan điểm thứ nhất: “Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho

VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực
hiện quyền công tố)” [21, tr.24]. Như vậy, theo quan điểm này, quyền công tố

9


chỉ tồn tại trong lĩnh vực hình sự, đó là quyền của Nhà nước truy tố kẻ phạm
tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự
(duy trì quyền công tố). Và ở Việt Nam, quyền này được giao cho chủ thể duy
nhất là VKSND. Điều này đồng nghĩa với việc công tác thực hiện quyền công
tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là TTHS và công tác này cũng chỉ tồn
tại ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm. Quan
điểm này chưa phản ánh đầy đủ bản chất của quyền công tố. Bởi lẽ, truy tố và
buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, hoạt động của VKS ở giai đoạn
xét xử sơ thẩm trong TTHS. Ngoài hai quyền năng đó, VKS còn có nhiều
quyền năng khác khi THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai
đoạn khác trong TTHS.
Quan điểm thứ hai: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội”[21, tr.26]. Theo quan điểm
này, chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố
tụng khác như CQĐT, Tòa án, Thi hành án. Như vậy, quyền công tố có trong
tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án
đối với các vụ án hình sự. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công
tố với nguyên tắc TTHS, dẫn đến nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản trong
TTHS (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ ba: “Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này
thuộc về nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta
là VKS ) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội” [21, tr.40]. Cụ thể, cơ quan có chức năng THQCT có trách nhiệm
bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để có thể xác định một cách
chính xác tội phạm, người phạm tội và trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can

10


ra trước Tòa án cũng như bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Bên cạnh đó,
theo quan điểm này thì cơ quan có quyền công tố được phép nhân danh Nhà
nước để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và quyền này
chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong TTHS. Ở Việt Nam, VKS ND là cơ
quan duy nhất được Nhà nước giao quyền công tố mà không có bất kỳ cơ
quan nào có thể thay thế được.
Có thể nói rằng, cho đến nay, khi đưa ra khái niệm quyền công tố có rất
nhiều quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm đều có những yếu tố hợp lý
nhưng cũng đều thể hiện những bất cập nhất định. Với nhận thức của mình
khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả ủng hộ khái niệm quyền công tố được
đưa ra tại quan điểm thứ năm nêu trên, bởi một số lý do sau:
Một là, quan điểm này phù hợp với quan điểm truyền thống ở Việt
Nam khi nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố. Theo đó,
quyền công tố là quyền của Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự.
Hai là, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định pháp luật của
Nhà nước ta qua các thời kỳ về quyền công tố. Cụ thể, Hiến pháp, Luật tổ
chức VKS ND và pháp luật tố tụng hình sự của nước ta qua các thời kỳ đều
khẳng định VKSND có chức năng THQCT. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị cũng đã nêu rõ: "VKS các cấp
thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp [1, tr. 8]. Bên cạnh đó, quan điểm của ngành Kiểm sát cũng
đã thể hiện một cách thống nhất từ trước đến nay: "Việc THQCT chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử" [23, tr. 2].

Phạm vi quyền công tố
Về phạm vi không gian: dựa trên quan điểm chính thống về khái niệm
quyền công tố được đưa ra ở trên có thể khẳng định rằng quyền công tố chỉ có

11


trong lĩnh vực TTHS mà không thể có trong lĩnh vực tố tụng khác. Theo đó,
quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với
người phạm tội. Việc buộc tội thì chỉ có trong lĩnh vực TTHS, cho nên quyền
công tố không thể tồn tại trong các lĩnh vực khác không liên quan đến sự buộc
tội như trong tố tụng hành chính, dân sự, kinh tế, ... Vì lẽ đó, quyền công tố
chỉ tồn tại trong lĩnh vực duy nhất có liên quan đến tội phạm và sự buộc tội là
lĩnh vực TTHS.
Về phạm vi thời gian: theo quan điểm khoa học được thừa nhận phổ
biến hiện nay, “phạm vi quyền công tố bắt đầu có từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị” [21,
tr.50-51]. Tác giả cho rằng quan điểm này rất đúng đắn. Bởi lẽ, từ khi tội
phạm được thực hiện, trách nhiệm của cơ quan được giao quyền công tố là
tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm phát hiện
tội phạm và người phạm tội cũng như xác định căn cứ để buộc tội họ. Tuy
nhiên, không phải trong mọi trường hợp THQCT đều kéo dài đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà có thể chấm dứt ở giai đoạn
tố tụng sớm hơn theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bởi vì, không
phải tất cả các vụ án hình sự đều được đưa ra xét xử trước Tòa án mà ở giai
đoạn tố tụng nào đó khi quyền công tố chấm dứt thì quyền THQCT cũng
không còn. Như vậy, phạm vi quyền công tố kết thúc khi bản án có hiệu lực
pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt, nó sẽ kết thúc khi có quyết định
đình chỉ vụ án.
Khái niệm về thực hành quyền công tố

Trên cơ sở khái niệm quyền công tố, khái niệm thực hành quyền công
tố cũng được đưa ra tương đối nhiều. Theo Từ điển tiếng Việt, “thực hành” có
nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tế, thực hành đồng nghĩa với
“thực hiện”” [33, tr.1245]. Như vậy, THQCT có thể được hiểu là áp dụng

12


quyền công tố vào thực tế. THQCT cũng được hiểu là “hoạt động của VKS
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội và buộc tội họ trước
Tòa án” [8, tr.12]. Từ điển Luật học đưa ra khái niệm, “THQCT là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử” [26, tr.188]. Như vậy, để đảm bảo thực hiện quyền công tố
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm thì Nhà nước ta ban hành các văn
bản pháp luật, trong đó quy định cụ thể các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố. Các quyền năng này được giao cho cơ quan có trách
nhiệm THQCT thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Từ năm 1960 đến nay, VKSND là cơ quan duy
nhất được giao chức năng THQCT. Để thực hiện chức năng này, VKSND
phải sử dụng tất cả quyền năng pháp lý về TTHS nhằm phát hiện kịp thời, xử
lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội. Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 cũng đã có quy định về bản chất của chức năng này, theo đó,
THQCT “là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [18, tr. 8].
Phạm vi THQCT là vấn đề hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau trong thực tiễn. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành,

phạm vi THQCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Công tác này được “bắt đầu từ
khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc
việc buộc tội” [8, tr 13]. Việc buộc tội kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp
luật TTHS. Như vậy, phạm vi của công tác THQCT bắt đầu từ khi vụ việc

13


phạm tội xảy ra và kết thúc khi có bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị hoặc khi vụ án bị đình chỉ. Cụ thể, VKSND THQCT ở các giai
đoạn và lĩnh vực sau: THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong
giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử.
1.1.2. Đặc điểm và nội dung THQCT
Đặc điểm của THQCT
Khác với hoạt động của VKSND trong các lĩnh vực tố tụng khác như tố
tụng hành chính, tố tụng dân sự, ... hoạt động THQCT chỉ tồn tại duy nhất
trong lĩnh vực TTHS.
Về chủ thể THQCT: dưới góc độ chức năng của chủ thể được giao
quyền tiến hành tố tụng, THQCT là chức năng mà Nhà nước chỉ giao cho cơ
quan tiến hành tố tụng duy nhất đó là VKS . Các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng khác không có chức năng này.
Hoạt động THQCT mang tính công khai và được thực hiện theo trình
tự, thủ tục tố tụng do pháp luật quy định. Vì vậy, hoạt động của VKS mang
tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật và được giám sát bởi nhiều chủ thể khác
nhau.
Dưới góc độ chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, THQCT là thực
hiện chức năng buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội nhằm bảo đảm
không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội, …

Mục đích của THQCT là nhằm bảo đảm mọi hành vi và người phạm tội
được phát hiện, xử lý một cách kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người
phạm tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị hạn chế quyền con người,
quyền công dân một cách trái luật. Mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn
phải bao hàm cả việc xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội nhưng thực hiện quyền

14


buộc tội đối với người phạm tội vẫn là chủ yếu.
Nội dung của THQCT
Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS đã quy định rõ, nội dung
của công tác THQCT bao gồm:
Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối
với sự kiện phạm tội, người phạm tội: Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, không phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong một số
trường hợp.
Quyết định việc có hạn chế hay không quyền tự do, dân chủ của cá
nhân người phạm tội: Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. trong việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra, truy tố.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án, quyết định truy tố bị can ra tòa).
Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra.
Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến
hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối
với người phạm tội; Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các
tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

15


1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát hoạt
động tư pháp
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp tuy là hai chức năng độc lập của
VKS, có đối tượng và nội dung khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Như đã phân tích ở trên, THQCT là hoạt động của VKSND trong
TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Công
tác này được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự. Chức năng của THQCT là truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, truy tố người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó. Như vậy,
đối tượng hướng tới của THQCT là vạch tội người phạm tội ra trước Tòa án,
nó chỉ tồn tại duy nhất trong lĩnh vực TTHS. VKSND THQCT nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, xử lý kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội nhưng cũng không để xảy ra oan, sai.
Còn “kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS ND để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định của pháp luật” [18, tr.10-11]. Kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm
mục đích kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp: phát hiện vi phạm pháp luật, kiến
nghị, yêu cầu khắc phục vi phạm, đảm bảo quá trình tiến hành tố tụng tuân

16


thủ các nguyên tắc, trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp được thực hiện trong lĩnh vực TTHS và trong quá
trình tiến hành tố tụng đối với vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động.
Như vậy, mối quan hệ giữa hai chức năng này chỉ tồn tại trong lĩnh vực
TTHS. Trong đó, tuy là hai chức năng độc lập nhưng THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, chỉ có một
số hoạt động mang tính độc lập tương đối, còn lại đa số các hoạt động của
chúng đan xen và hỗ trợ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu xét ở từng giai đoạn
tố tụng thì các chức năng này thể hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau
với các nội dung cụ thể khác nhau. Nhưng xét một cách tổng thể thì dù ở giai
đoạn tố tụng nào chúng cũng thể hiện mối quan hệ gắn bó hữu cơ, đan xen,
tác động qua lại và bổ sung một cách tích cực cho nhau, điều này được thể
hiện ở một số khía cạnh sau:
Kết quả của hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở cho việc
THQCT có hiệu quả và ngược lại việc THQCT đảm bảo sự tuân thủ pháp
luật. Khi có cơ sở xác định tội phạm từ tố giác của người dân, tin báo của cơ
quan, tổ chức hoặc thông qua hoạt động điều tra phát hiện dấu hiệu của tội

phạm thì CQĐT sẽ phải thực hiện một số hoạt động điều tra ban đầu để xác
định có dấu hiệu của tội phạm hay không? Nếu đủ căn cứ xác định có dấu
hiệu của tội phạm thì sẽ ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra đồng
thời phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Lúc này VKS với chức năng,
nhiệm vụ của mình sẽ tiến hành kiểm sát việc tuân theo các quy định của pháp
luật về khởi tố vụ án của CQĐT. Trong quá trình kiểm sát điều tra nếu phát
hiện thấy quyết định khởi tố của CQĐT là không có căn cứ hoặc có dấu hiệu
trái pháp luật thì VKS sẽ THQCT của mình bằng cách ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố của CQĐT. Nếu trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu

17


×