Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO bền VỮNG từ THỰC TIỄN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ hà hội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.29 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐAN PHƢỢNG,
THÀNH PHỐ HÀ HỘI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ LINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐAN PHƢỢNG,
THÀNH PHỐ HÀ HỘI HIỆN NAY

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài
do cá nhân tôi nghiên cứu; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực và có nguồn trích dẫn; bố cục, phông chữ của luận văn đúng với quy
định và đề tài chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019
HỌC VIÊN

Đặng Thị Linh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện Khoa học xã hội,
khoa Chính sách công, các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, quan
tâm và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa học.
Thực hiện đề tài “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực
tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội hiện nay” tôi xin được bày tỏ lòng
biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn Ngọc Toàn - người hướng dẫn khoa học
đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, viết luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện thuận lợi để hoàn thành đề tài này.
Mặc dù bản thân đã hết sức cố gắng, song luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp thêm của các
thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
HỌC VIÊN

Đặng Thị Linh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG................................................................................ 9
1.1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................... 9
1.2. Chính sách giảm nghèo bền vững................................................................... 17
Tiểu kết chương ...................................................................................................... 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TẠI HUYỆN ĐAN PHƢỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........ 30
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của Đan Phượng, Hà Nội ..................................... 30
2.2. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Đan Phượng thành phố
Hà Nội...................................................................................................................... 32
2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững của huyện Đan
Phượng, thành phố Hà Nội. .................................................................................... 55
Tiểu kết chương ...................................................................................................... 64
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI HUYỆN
ĐAN PHƢỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................................... 67
3.1. Phương hướng cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững tại huyện Đan Phượng............................................................................ 67
3.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững tại huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội. .................................................. 69
Tiểu kết chương ...................................................................................................... 74
K T LUẬN ............................................................................................................ 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, giữa các
vùng, các nhóm dân cư, đồng thời thể hiện quyết tâm trong nỗ lực thực hiện
Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Với quyết tâm và nỗ lực của cả hệ
thống chính trị và người dân, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ
về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói vào năm 2002, sớm hơn 13
năm so với mục tiêu và sớm hơn 8 năm so với kết quả chung của toàn cầu.
Kết quả này đã tạo nền tảng quan trọng cho quá trình tiếp tục thực hiện mục
tiêu giảm nghèo quốc gia. Với thành quả 35 năm đổi mới nhiều chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo đã được thực hiện và mang lại nhiều hiệu quả
và hiệu ứng xã hội to lớn. Cũng chính từ quá trình này, quan niệm về nghèo
của Việt Nam dần thay đổi, chuẩn nghèo tiếp cận dần với quốc tế trong tiến
trình hội nhập sâu rộng với những cam kết được mở rộng hơn, mang tính thiết
thực hơn.
Có thể nói, tiến trình đổi mới đất nước đã mang lại sự thay đổi to lớn
trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Riêng đối với công tác giảm nghèo, chúng
ta đã có những bước chuyển căn bản về nhận thức và hành động, từ cách tiếp
cận đơn chiều (chuẩn nghèo dựa trên thu nhập là chính) chuyển sang đa chiều
với những tiêu chuẩn gắn liền hơn với đời sống hiện thực của người dân, đặc
biệt nhấn mạnh đến tiêu chuẩn tiếp cận với các dịch vụ xã hội thiết yếu nhất
(giáo dục, y tế, việc làm, v.v..). Để có được những thay đổi có tính chất đột
phá trong tư duy và hành động của các cấp, các ngành và toàn xã hội thì sự
đóng góp của hệ thống chương trình, đề án, chính sách xóa đói giảm nghèo là
không nhỏ. Với hiện thực phát triển của đất nước, hệ thống chính sách nói
1


chung, chính sách giảm nghèo nói riêng luôn có sự cập nhật, thay đổi, đặc biệt
trong bối cảnh hội nhập quốc tế với chủ trương tiếp cận nhanh chóng kịp thời

với những thay đổi của thế giới.
Mặc dù trong tiến trình đổi mới đất nước 35 năm qua chúng ta đã có
đầy đủ các chủ trương, chính sách phục vụ công tác xóa đói giảm nghèo. Từ
các chủ trương ấy, hàng loạt các chương trình trọng điểm như Chương trình
135, chương trình xây dựng các Quỹ hỗ trợ người nghèo, Quỹ việc làm quốc
gia, đặc biệt Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo qua các giai đoạn
từ 2001 đến 2020 , v.v.. nhưng hiệu quả của các chính sách, chương trình này
mang lại chưa đáp ứng được kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Số
lượng các hộ nghèo cần được hỗ trợ cũng như số lượng hộ tái nghèo có xu
hướng tăng trong thời gian vừa qua bất chấp những nỗ lực của các cấp, các
ngành có liên quan. Tại sao có hiện tượng như vậy và vấn đề thực hiện chính
sách giảm nghèo của chúng ta đang vướng mắc ở những khâu nào? Hạn chế
khi chúng ta thực hiện chính sách này từ cơ sở là gì? Cách gỡ của các cấp, các
ngành ra sao? Đó là hàng loạt vấn đề đặt ra đòi hỏi chúng ta có những lời giải
đáp thật sự minh bạch để thúc đẩy chính sách giảm nghèo phát huy hiệu quả
một cách bền vững. Quốc hội cũng đã nhận định, trong đời sống xã hội
“khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng; vẫn còn tồn tại tình trạng
trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước; việc lồng ghép chính
sách, cân đối nguồn lực và công tác quản lý, điều hành thực hiện chính
sách giảm nghèo còn hạn chế”. Sự phát triển kinh tế xã hội gắn với quá
trình hội nhập đã đặt ra câu hỏi đối với công tác giảm nghèo, đã thật sự bền
vững hay chưa?
Với tư cách là thành phố đi đầu cả nước trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội từ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng
đến việc chăm lo đảm bảo an sinh xã hội cho người dân, trong đó có công tác

2


xóa đói giảm nghèo, trong những năm qua Hà Nội đã có những nỗ lực đáng

ghi nhận trong công tác giảm nghèo bền vững. Theo con số thống kê của Sở
Lao động, thương binh và xã hội, tính đến hết năm 2018, tổng số hộ nghèo
của Hà Nội chỉ dừng lại ở con số 23.289 hộ, tỉ lệ 1,16%, tổng số hộ cận nghèo
là 40.727 hộ, tỉ lệ 2,03% [29]. Con số này thể hiện một cách sinh động nhất
những cố gắng của Hà Nội trong công tác phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, công tác giảm nghèo bền vững nói riêng.
Đối với huyện Đan Phượng, trong quá trình hơn 10 được sát nhập về
Hà Nội, với những sự đầu tư của thành phố, sự quan tâm và phấn đấu phát
triển của lãnh đạo và nhân dân huyện, Đan Phượng đã vươn lên thành một
trong những đơn vị hành chính dẫn đầu về các thành tựu phát triển, đặc biệt
trong quá trình xây dựng nông thôn mới và xóa đói giảm nghèo. Ngay từ năm
2015, huyện đã về đích trong công tác xây dựng nông thôn theo các tiêu
chuẩn mới, thúc đẩy sản xuất và đảm bảo đời sống mọi mặt của người dân.
Tuy nhiên, như đánh giá của huyện, công tác xóa đói giảm nghèo tuy đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận nhưng nhiều mục tiêu đặt ra chưa hoàn
thành. Vấn đề thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện
còn thụ động, áp dụng máy móc từ các chính sách khung của trung ương cũng
như của Hà Nội mà chưa có sự biến đổi sáng tạo cho phù hợp với thực tế của
địa phương. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách từ cơ sở (thôn,
xã, thị trấn) chưa được đào tạo bài bản, công việc kiêm nhiệm nên hiệu quả
chưa cao. Sự chồng chéo về chính sách, sự phối hợp giữa các bộ phận chưa
thực sự chặt chẽ, v.v.. là những yếu tố góp phần làm hạn chế chính sách giảm
nghèo bền vững được thực hiện ở địa phương.
Với việc coi những thành công của Đan Phượng trong công tác giảm
nghèo là một trường hợp điển hình nhưng còn tồn tại những vấn đề cần phải
có sự chung tay giải quyết của các cấp, các ngành, sự đồng tâm hiệp lực của

3



các tầng lớp nhân dân, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững từ thực tiễn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội hiện nay”
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công của mình với mong muốn
làm rõ hơn nữa thực trạng của việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
trên địa bàn huyện Đan Phượng để từ đó giải đáp những vấn đề thực tiễn xã
hội đang đặt ra cho công tác giảm nghèo ở Đan Phượng nói riêng, thành phố
Hà Nội nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, có khá nhiều công trình đề cập tới giảm nghèo
bền vững trên cơ sở cách tiếp cận đa chiều về nghèo khổ. Tiêu biểu có thể kể
đến công trình của nhóm tác giả Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Việt Nga, Nguyễn
Thanh Phương và Nguyễn Văn Thục (2015). Báo cáo tổng quan các nghiên
cứu về giảm nghèo ở Việt Nam. MOLISA, IRISH AID,UNDP, Hà Nội. Đây là
một trong những báo cáo quan trọng tổng quan hơn 70 công trình nghiên cứu
trước đó về vấn đề xóa đói giảm nghèo. Điều đặc biệt của công trình này ở
chỗ trên cơ sở tổng quan các công trình theo nhóm như những thành tựu trong
giảm nghèo, so sánh kết quả giảm nghèo với mục tiêu chính sách, các tồn tại
trong lĩnh vực giảm nghèo, vấn đề huy động và phân bổ nguồn lực cho công
tác giảm nghèo, các mô hình giảm nghèo, các thách thức trong lĩnh vực giảm
nghèo, các khuyến nghị trong công tác giảm nghèo, v.v.. các tác giả đã đưa ra
một số ý kiến về việc thay đổi chính sách và những nội dung cần điều chỉnh
trong các giai đoạn phát triển tiếp theo của chương trình giảm nghèo quốc gia.
Đây có thể coi là một trong những cơ sở tổng kết nghiên cứu căn bản, góp
phần xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2016 -2020.
Tiếp tục hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Thắng và các cộng sự
(2018) đã cho ra đời một bản báo cáo với chủ đề Báo cáo nghèo đa chiều ở

4



Việt Nam: Giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh để đảm bảo cuộc sống chất
lượng cho mọi người. Đây là một bản tổng hợp nghiên cứu về các vấn đề
giảm nghèo tập trung trong giai đoạn 2016 - 2018 thuộc Chương trình mục
tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020. Nội dung báo cáo
tập trung vào các vấn đề như: bức tranh tổng thể về nghèo đa chiều ở Việt
Nam theo các nhóm dân cư, thước đo đánh giá nghèo đa chiều, động thái
nghèo, sự chênh lệch mức sống giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số, tình
trạng nghèo trong nhóm người yếu thế trong xã hội, v.v.. Trên cơ sở đó, các
tác giả đánh giá trực tiếp vào các chương trình, dự án giảm nghèo cũng như
đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm bổ sung và phát triển các chính sách
giảm nghèo bền vững hiện có cũng như cơ sở cho việc thực hiện các chính
sách này trong các giai đoạn tiếp theo.
Trong nghiên cứu các vấn đề cụ thể, tác giả Đặng Nguyên Anh (2015)
trong công trình Nghèo đa chiều ở Việt Nam: một số vấn đề chính sách và
thực tiễn đã đánh giá cách tiếp cận và đo lường đối tượng nghèo theo phương
thức truyền thống dựa trên thu nhập. Ông cho rằng cần có cách tiếp cận chuẩn
nghèo một cách đa dạng hơn, thực chất hơn để đảm bảo quyền được tiếp cận
các dịch vụ xã hội cần thiết. Có như vậy chúng ta mới có cơ sở để thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững. Nhìn chung, trên cơ sở cách tiếp cận lý
thuyết hợp lý, có sức thuyết phục, công trình này có thể được coi là một điển
hình về lý luận, cách thức tiếp cận nghèo đa chiều, tạo dựng nền tảng nhận
thức và hành động cho tiến trình giảm nghèo bền vững.
Cùng quan điểm với tác giả Đặng Nguyên Anh, tác giả Nguyễn Văn
Tuân trong công trình Bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Việt Nam đăng trên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101), 2016 đã tiếp cận ở một góc độ
nhỏ hơn, cụ thể hơn của vấn đề nghèo và giảm nghèo đa chiều. Trên cơ sở chỉ
ra thực trạng của vấn đề hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các đối tượng của chính

5



sách giảm nghèo bền vững, tác giả đã đưa ra một số hạn chế trong công tác
này và đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm phát huy hơn hiệu quả của chính
sách. Trong số những nội dung của bài viết, tác giả nhấn mạnh để thực hiện
thành công chiến lược phát triển toàn diện, tạo ra những bước nhảy vọt về sự
tăng trưởng kinh tế, phải thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế cho người
nghèo. Bời đây chính là vũ khí hữu hiệu để tấn công vào đói nghèo, thể hiện
truyền thống nhân văn, nhân ái “lá lành đùm lá rách” của dân tộc, xây dựng
một xã hội bình đẳng, bác ái.
Tác giả Lê Quốc Lý (2012) với công trình Chính sách xoá đói giảm
nghèo thực trạng và giải pháp khẳng định chính sách xóa đói, giảm nghèo đã
được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm và được xây dựng thành chương
trình mục tiêu quốc gia. Qua đó, nhận thức về vai trò quan trọng của xóa đói,
giảm nghèo đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội đã được thay đổi
căn bản ở các cấp, các ngành, nhờ vậy, chính sách xóa đói, giảm nghèo đã đạt
được những thành tựu hết sức ấn tượng, đặc biệt là trong giai đoạn 20012010, như: chính sách xóa đói, giảm nghèo góp phần làm tăng trưởng kinh tế,
ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm thay đổi mức sống
của người nghèo, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, như tác giả đã chỉ rõ, chính sách xóa đói, giảm nghèo vẫn còn bộc
lộ những hạn chế nhất định như: thành tựu chưa thực sự bền vững, chính sách
còn chồng chéo, thiếu thống nhất và đồng bộ, chủ yếu thiên về lượng, chưa
chú trọng đến chất lượng giảm nghèo, còn mang tính ngắn hạn. Đó chính là
những hạn chế, những bất cập mà nếu tập trung giải quyết tốt sẽ trở thành
những định hướng, mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải pháp để xóa đói giảm
nghèo cho giai đoạn tiếp theo.
Nhìn chung, các nghiên cứu nêu trên chỉ tập trung cho các vấn đề giảm
nghèo ở tầm vĩ mô, tức đề cập đến việc thực hiện chính sách giảm nghèo hoặc
ở mức độ cấp quốc gia, tỉnh và thành phố hoặc ở mức độ các nhóm dân cư
6



trọng tâm như nhóm yếu thế, dân tộc thiểu số, v.v.. mà ít công trình đề cập
trực tiếp tới công tác giảm nghèo ở cấp huyện. Đối với Hà Nội, với tư cách là
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, vấn đề xóa đói giảm nghèo
cũng được đặt ra để nghiên cứu. Tuy nhiên, như trên đã nói, vấn đề thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững cho các huyện ngoại thành, đặc biệt khi Hà
Nội mở rộng địa giới hành chính cho đến nay ít được chú ý. Đây chính là lĩnh
vực mà luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu với mục đích làm rõ những vấn đề còn tồn
tại trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại huyện Đan Phượng,
thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
tại huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội để từ đó đánh giá thực trạng và đưa
ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả thức hiện chính sách này trong
thời gian tới tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, Đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về việc thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.
- Thứ hai, nghiên cứu và đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
- Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của việc
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại địa phương này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
tại huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.


7


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn xác định phạm vi nghiên cứu việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững tại huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội trong những năm
từ 2016 cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
xóa đói giảm nghèo.
Luận văn sử dụng cách tiếp cận theo hệ thống, đa ngành, liên ngành về
khoa học xã hội, tiếp cận dựa trên phương pháp nghiên cứu quy phạm về chu
trình thực hiện và đánh giá chính sách công.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với định hướng nghiên cứu đã trình bày ở trên, đề tài sử dụng một số
phương pháp sau:
- Phương pháp thu thập dữ liệu: dùng để rà soát văn bản chính sách
về công tác xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam chủ yếu trong giai đoạn
2016 - 2019;
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: trên cơ sở số liệu và dữ liệu thu
thập được, luận văn tiến hành phân tích và tổng hợp theo định hướng nghiên
cứu đã đề ra nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: thực hiện việc so sánh chính sách,
kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo ở huyện Đan Phượng qua các thời kỳ để
có cái nhìn bao quát nhất về thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo trên
địa bàn nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được triển

khai với 3 chương.
8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Chính sách công
Đứng trên các cách tiếp cận khác nhau bàn về chính sách công, có rất
nhiều quan niệm khác nhau bàn về nội dung này. Trên thế giới, các chuyên
gia nghiên cứu nổi tiếng về khoa học chính sách đưa ra định nghĩa mà cho
đến nay chưa thực sự có một sự thống nhất. Clarke E. Cochran cho rằng về cơ
bản “cụm từ chính sách công luôn chỉ những hành động của chính phủ và
những ý định để thực hiện những hành động đó”, với ông, “Chính sách công
là kết quả đấu tranh của một chính phủ về việc ai giành được cái gì”[32,
tr.20]. Thomas Dye quan niệm “Chính sách công là bất cứ điều gì chính phủ
làm hoặc không làm”[35, tr.10]. Trong khi đó, Charles L. Cochran và Eioise
F. Malone cùng cho rằng “Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị
để thực hiện các chương trình sao cho đạt được các mục tiêu xã hội [36,
tr.21]. Bám sát hơn với thực tế đời sống xã hội, B.Guy Peters quan niệm “nói
một cách đơn giản, chính sách công là tổng hợp những hành động của chính
phủ, gồm cả những hành động trực tiếp hoặc thông qua các cơ quan, gây ảnh
hưởng lên cuộc sống của người dân”[37, tr.45]. Với Thomas A.Birkland
“chính sách là một lời tuyên bố của chính phủ - dù ở cấp độ nào - ở những gì
mà chính sách có xu hướng thực hiện về một vấn đề công ... Chúng ta cũng có
thể định nghĩa chính sách công là những gì mà chính phủ lựa chọn không thực
hiện, việc thiếu một lời tuyên bố dứt khoát về chính sách có thể là bằng chứng
của một chính sách ngầm [38, tr.10-11].
9



Quan niệm về chính sách và chính sách công ở Việt Nam cũng khá đa
dạng và cơ bản cũng chưa có sự thống nhất. Với quan niệm cho rằng chính
sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính
chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa [8, tr.475], các nhà
biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam coi mục đích của chính sách công là
thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở
việc giải quyết vấn đề công. Nói cách khác, chính sách công là công cụ để
thực hiện mục tiêu chính trị của nhà nước.
Các nhà nghiên cứu chính sách ở Việt Nam cũng đưa ra một số định
nghĩa về chính sách công: Tác giả Nguyễn Đăng Thành trong công trình
Đánh giá chính sách công ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp đã đưa ra định
nghĩa về chính sách công. Ông quan niệm “Chính sách công là một công cụ
quan trọng của quản lý nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện các
chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hóa” [40]. Tác giả
Văn Tất Thu, trong công trình Bản chất, vai trò của chính sách công đăng trên
Tạp chí Tổ chức nhà nước, quan niệm “CSC là chính sách của nhà nước, là
kết quả cụ thể hóa chủ trương, đường lối của đảng cầm quyền thành các quyết
định, tập hợp các quyết định chính trị có liên quan với nhau, với mục tiêu, giải
pháp, công cụ cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển kinh tế xã hội và phục vụ người dân” [41]. tác giả Lê Chi Mai trong công trình Chính
sách công đã cho rằng chính sách công “là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi
các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung
đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định”[20].

10



Với những định nghĩa trong và ngoài nước như đã nêu ở trên, chúng ta
có thể thấy chính sách công có các thuộc tính căn bản như: tính nhà nước, tính
công cộng, tính hành động thực tiễn, tính hệ thống, tính kế thừa lịch sử và gắn
với một quốc gia cụ thể với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội
nhất định. Từ các cách tiếp cận khác nhau chúng ta có định nghĩa về chính
sách công khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản có thể hiểu về cơ bản chính sách
công là những quy định về ứng xử của Nhà nước với những hiện tượng nảy
sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện dưới những hình thức khác
nhau một cách ổn định nhằm đạt được mục tiêu định hướng. Nói cách khác,
chính sách công là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà
nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề
công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển.
1.1.2. Thực hiện chính sách
Việc tổ chức thực hiện chính sách (Policy Implementation) là quá trình
biến các chính sách thành những kết quả, trên thực tế là các hoạt động có tổ
chức trong bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính
sách đã đề ra. Nói cách khác, thực hiện chính sách công là quá trình đưa
chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các
văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách công và tổ chức thực hiện
chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công [23, tr.97].
Trong mối quan hệ giữa chính sách công và thực hiện chính sách, nhiều
người cho rằng chính sách công hiểu một cách đơn giản là những chủ trương,
chế độ mà Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có
việc thực hiện chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ
trương, chế độ chỉ là những khẩu hiệu. Công tác tổ chức thực hiện chính sách
nếu không được tiến hành tốt, dễ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí sự
chống đối của nhân dân đối với Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về
11



mặt chính trị và xã hội, gây ra những khó khăn cho Nhà nước trong công
tác quản lý.
Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh,
bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà hoạch định chưa nhận thấy, đến giai
đoạn tổ chức thực hiện mới phát hiện. Quá trình thực hiện chính sách với
những hành động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện
chính sách phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Việc phân
tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có thể đầy đủ, có sức
thuyết phục là sau khi thực hiện chính sách. Qua tổ chức thực hiện, cơ quan
chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại đa số nhân dân
chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không.
Việc đưa chính sách công vào thực tiễn không đơn giản, nhanh chóng.
Đó là quá trình phức tạp, đầy biến động, chịu tác động của một loạt các yếu
tố, thúc đẩy hoặc cản trở công việc thực hiện.
Quy trình của việc thực hiện chính sách bao gồm:
1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công
Tổ chức thực hiện chính sách công là quá trình phức tạp, diễn ra trong
một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, lên chương trình để các
cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ động. Kế hoạch triển khai
thực hiện chính sách công được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc
sống. Các cơ quan triển khai thực hiện chính sách từ trung ương đến địa
phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Kế hoạch tổ chức, điều hành
- Kế hoạch dự kiến các nguồn lực
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện
- Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách công

12



2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách công
Để tham gia quá trình phổ biến, tuyên truyền chính sách công là sự
tham gia của các nhân tố, yếu tố cấu thành gồm:
- Chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách công
- Đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính sách công
- Phương tiện và cách thức tuyên truyền
3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách công
- Phân công, phối hợp các cơ quan, chính quyền điều hành
- Phân công, phối hợp các đối tượng thực hiện
4. Duy trì chính sách công
- Duy trì chính sách công là toàn bộ hoạt động đảm bảo cho chính sách
phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội.
5. Điều chỉnh chính sách công
- Điều chỉnh chính sách công là hoạt động đảm bảo cho chính sách phát
huy tác dụng và phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, ngành.
6. Đôn đốc thực hiện chính sách công
- Đôn đốc thực hiện chính sách công là hoạt động của cơ quan, cán bộ,
công chức có thẩm quyền thực hiện thông qua các công cụ hữu ích nhằm làm
cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các biện
pháp theo định hướng chính sách. Trên thực tế, khi triển khai thực hiện chính
sách, không phải bộ phận nào cũng làm tốt, làm nhanh như nhau, vì thế cần
có hoạt động đôn đốc để vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn
thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong
thực hiện chính sách công.
7. Tổng kết thực thi chính sách công
Tổ chức thực thi chính sách công được tiến hành liên tục trong thời
gian duy trì chính sách. Trong quá trình đó người ta có thể đánh giá từng phần


13


hay toàn bộ kết quả thực thi chính sách, trong đó đánh giá toàn bộ được thực
hiện sau khi kết thúc chính sách. Đánh giá tổng kết trong bước tổ chức thực
thi chính sách được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành
và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.
1.1.3. Khái niệm nghèo và giảm nghèo
Liên hợp quốc (UN) định nghĩa: “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để
tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ
ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất
đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không
được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có
quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro,
không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh”[8].
Trong nhiều năm qua, khái niệm nghèo được chúng ta quan niệm, đánh
giá và xem xét thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xây dựng căn cứ vào
những chi phí nhằm duy trì nhu cầu tối thiểu và vấn đề xác định hộ nghèo hay
không phụ thuộc vào mức thu nhập dưới chuẩn đã được xác định đó. Tuy
nhiên, chuẩn nghèo hiện nay của Việt Nam được đánh giá là thấp so với thế
giới. Trên thực tế, nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm
cận chuẩn nghèo, do đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn
cao, hàng năm cứ 3 hộ thoát nghèo thì lại có 1 hộ trong số đó tái nghèo. Xét
về bản chất, đói nghèo đồng nghĩa với việc bị khước từ các quyền cơ bản của
con người, bị đẩy sang lề xã hội chứ không chỉ là vấn đề thu nhập thấp. Có
nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Nhiều trường hợp không
nghèo về thu nhập nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản như y tế,
giáo dục, thông tin. Mặc dù một số hộ không có tên trong danh sách hộ nghèo
nhưng lại thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng xa học sinh


14


phải học trong những cơ sở tồi tàn, thiếu những trang bị tối thiểu đảm bảo cho
việc dạy và học. Do đó, nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập hay
chi tiêu sẽ dẫn đến tình trạng bỏ sót đối tượng nghèo, dẫn đến sự thiếu công
bằng, hiệu quả và bền vững trong thực thi các chính sách giảm nghèo.
Nhận thức rõ những khiếm khuyến trong xây dựng chuẩn nghèo đơn
chiều, ngày ngày 15 tháng 9 năm 2015 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết
định số 1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương án
tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016 - 2020”, trong đó xác định rõ các nội dung theo hướng tiếp cận
đa chiều, bao gồm:
Thứ nhất là, xây dựng các tiêu chí đo lường nghèo giai đoạn
2016 - 2020
a) Các tiêu chí về thu nhập
- Chuẩn mực sống tối thiểu về thu nhập là mức thu nhập đảm bảo chi
trả được những nhu cầu tối thiểu nhất mà mỗi người cần phải có để sinh sống,
bao gồm nhu cầu về tiêu dùng lương thực, thực phẩm và tiêu dùng phi lương
thực, thực phẩm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong
từng thời kỳ.
- Chuẩn nghèo về thu nhập là mức thu nhập mà nếu hộ gia đình có thu
nhập dưới mức đó sẽ được coi là hộ nghèo về thu nhập. Chuẩn nghèo về thu
nhập dùng để xác định quy mô nghèo về thu nhập của Quốc gia, xác định đối
tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ (gọi là chuẩn nghèo chính sách).
- Chuẩn mức sống trung bình về thu nhập: là mức thu nhập mà ở mức
đó người dân đã đạt được mức sống trung bình của xã hội, bao gồm nhu cầu
về tiêu dùng lương thực, thực phẩm và tiêu dùng phi lương thực, thực phẩm,
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
b) Mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản

15


- Các dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm 5 dịch vụ: tiếp cận về y tế, giáo
dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin;
- Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt gồm 10 chỉ số: (1) trình độ giáo
dục của người lớn; (2) tình trạng đi học của trẻ em; (3) tiếp cận các dịch vụ y
tế; (4) bảo hiểm y tế; (5) chất lượng nhà ở; (6) diện tích nhà ở bình quân đầu
người; (7) nguồn nước sinh hoạt; (8) loại hố xí/nhà tiêu; (9) sử dụng dịch vụ
viễn thông; (10) tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
- Ngưỡng thiếu hụt đa chiều: là mức độ thiếu hụt mà nếu hộ gia đình
thiếu nhiều hơn mức độ này thì bị coi là thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản, từ 1/3 tổng điểm thiếu hụt trở lên.
Thứ hai là, xây dựng chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020
Xây dựng chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 theo hướng: sử dụng kết
hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã
hội cơ bản; xây dựng mức sống tối thiểu để từng bước bảo đảm an sinh xã hội
cho mọi người dân, trước mắt áp dụng chuẩn nghèo chính sách để phân loại
đối tượng hộ nghèo, phù hợp với khả năng cân đối ngân sách, cụ thể như sau:
- Hộ nghèo, là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ chuẩn nghèo
chính sách trở xuống; hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn
chuẩn nghèo chính sách nhưng thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu và thiếu hụt
từ 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Hộ cận nghèo: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn
chuẩn nghèo chính sách nhưng thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu, và thiếu
hụt dưới 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Hộ chưa tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản: là hộ có thu nhập
bình quân đầu người/tháng cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu và thiếu hụt từ
1/3 tổng điểm thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.


16


- Hộ có mức sống dưới trung bình: là hộ có thu nhập bình quân đầu
người/tháng từ dưới chuẩn mức sống trung bình và cao hơn chuẩn mức sống
tối thiểu.
Đây được coi là tư tưởng chỉ đạo căn bản cho công tác xây dựng và
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 và các giai
đoạn tiếp theo.
Với cách tiếp cận như vậy, khi bàn đến vấn đề giảm nghèo chúng ta có
thể hiểu đó là cách thức vận dụng các nguồn lực xã hội, dưới sự điều tiết và
quản lý của Nhà nước để triển khai thực hiện các dự án, chương trình với mục
đích tác động đến những đối tượng người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo nhằm
giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện khó khăn, tạo cơ hội tăng
thu nhập, tiếp cận các dịch vụ và ưu đãi xã hội để duy trì các nhu cầu cơ bản
của con người, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của họ. Và khi bàn đến
vấn đề giảm nghèo bền vững, chúng ta hiểu đó chính là sự hỗ trợ phát triển cơ
sở hạ tầng xã hội, hỗ trợ đào tạo và các điều kiện tiếp cận cơ hội phát triển
kinh tế - xã hội để người nghèo có thể tự vươn lên thoát nghèo, làm giàu bằng
chính khả năng của mình.
1.2. Chính sách giảm nghèo bền vững
1.2.1. Khái niệm chính sách giảm nghèo bền vững
Chính sách giảm nghèo bền vững là những quyết định, quy định của
nhà nước nhằm cụ thể hóa các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, vật
lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động đến các đối
tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối
cùng là xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững, tức là làm cho người nghèo
thoát nghèo bằng chính năng lực của mình. Chính sách giảm nghèo bền vững
được phân loại dựa trên các tiêu chí khác nhau. Dựa trên phạm vi ảnh hưởng


17


của chính sách, chính sách giảm nghèo bền vững được phân thành chính sách
tác động gián tiếp và chính sách tác động trực tiếp đến xóa đói giảm nghèo.
Căn cứ vào bản chất đa chiều của đói nghèo, chính sách giảm nghèo
được phân thành:
- Nhóm chính sách nhằm tăng thu nhập cho người nghèo.
- Nhóm chính sách nhằm tăng cường các khả năng tiếp cận dịch vụ xã
hội cơ bản cho người nghèo.
- Nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro và nguy cơ dễ bị tổn thương.
- Nhóm chính sách tăng cường tiếng nói cho người nghèo.
Căn cứ vào 3 trụ cột tấn công đói nghèo của Ngân hàng thế giới, các
chính sách giảm nghèo bền vững được phân loại thành:
- Chính sách tạo cơ hội cho người nghèo
- Nhóm chính sách trao quyền cho người nghèo
- Nhóm chính sách an sinh xã hội
Mục tiêu chủ đạo của chính sách giảm nghèo bền vững là hỗ trợ và
giúp đỡ người nghèo thoát nghèo cả dưới góc độ nghèo về vật chất, xã hội và
tinh thần. Các chính sách này đều hướng tới mục tiêu nâng cao phúc lợi cho
người nghèo, tăng cường các khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho
người nghèo để từ đó nâng cao đời sống và tiếng nói cho người nghèo. Mỗi
chính sách cụ thể sẽ hướng vào những mục tiêu cụ thể và rõ ràng.
Xóa đói giảm nghèo là một trong 8 trụ cột của Mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ đã được 198 quốc gia phê chuẩn và là một trong 10 vấn đề của phát
triển xã hội đã được Hội nghị thượng đỉnh về phát triển xã hội tại
Copenhagen, Đan Mạch thông qua tháng 5 năm 1995. Điều này cho thấy xóa
đói giảm nghèo là một trong những vấn đề xã hội được các quốc gia đặt lên
hàng đầu, đặt vào vị trí ưu tiên cần được giải quyết trong phát triển xã hội và
là một trong những chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở các

18


quốc gia trên thế giới. Muốn nâng cao phúc lợi cho công dân, trước hết phải
đưa người dân thoát khỏi đói nghèo. Một khi xã hội còn bộ phận người nghèo
đói thì không thể nói xã hội đã tạo đầy đủ phúc lợi cho mọi người. Chính vì
vậy, chính sách giảm nghèo bền vững tạo cơ hội tối thiểu nhất cho bộ phận
người dân yếu thế thoát khỏi nghèo đói kinh niên, có cơ hội về thu nhập, cơ
hội tiêu dùng với tư cách là những công dân bình đẳng trong một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà
nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành
thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời thể hiện quyết
tâm trong việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà Việt
Nam đã cam kết. Việc tập trung thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và các chương trình giảm nghèo đã tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận
tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản; cơ sở hạ tầng của các huyện, xã nghèo
được tăng cường; đời sống người nghèo được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo
cả nước đã giảm từ 22% năm 2005 xuống còn 9,45% năm 2010. Thành tựu
giảm nghèo của nước ta thời gian qua được cộng đồng quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao.
Có thể nói, về cơ bản chính sách giảm nghèo bền vững là một trọng
tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội qua các thời kỳ, đặc biệt là giai
đoạn 2016 - 2020. Đây là chính sách hướng tới việc cải thiện và từng bước
nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các
vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Với những nội dung tổng
quát như vậy, Đảng và Nhà nước xác định đối tượng của chính sách giảm


19


nghèo bền vững là người nghèo, hộ nghèo trên phạm vi cả nước trong đó ưu
tiên người nghèo là người dân tộc thiểu số, người cao tuổi, người khuyết tật,
phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó, địa bàn thực hiện chính sách giảm nghèo được
xác định bao gồm:
a) Huyện nghèo
b) Xã nghèo (xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi;
xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; xã biên giới và xã
an toàn khu)
c) Thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
Việc xác định phạm vi, đối tượng và địa bàn thực hiện chính sách cũng
gắn liền với những nội dung, yêu cầu cụ thể của chính sách, bao gồm:
- Thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ
hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm
theo chuẩn nghèo từng giai đoạn;
- Điều kiện sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là về
y tế, giáo dục, văn hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày
càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã hội cơ bản;
- Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn, bản
đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới,
trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt [42].
1.2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tới chính sách giảm nghèo bền vững
Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ
tiền đề, không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp
luật, kế hoạch, phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những
năm gần đây Đảng và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao

vai trò của chính sách công như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu

20


×