Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài tập lớn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.32 KB, 9 trang )

I. MỞ ĐẦU:
Triết học là một hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế giới,
là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết
học Mác-Lênin không chỉ phản ánh thực tiễn xã hội, mà còn là sự phát triển hợp
logic của lịch sử tư tưởng nhân loại. Trong triết học, quy luật là những mối liên
hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố,
các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau. Đặc biệt, triết học còn đóng một vai trò rất to lớn đối với đời
sống xã hội và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

II. CÁC ĐỊNH NGHĨA:
1.1 Nhận thức

Theo quan điểm chủ nghĩa Duy vật biện chứng khách quan: Nhận thức là một
quá trình phả ánh hiện thực khách quan vào bộ não người, nhưng là sự phản ánh
có tính tích cực, năng động, sang tạo của nhận thức, đồng thời thông qua nó thể
hiện mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Một mặt nó thừa nhận vai trò quyết
định của khách thể đối với chủ thể, nhưng mặt khác cũng khẳng định con người
cũng có khả năng nhận thức được hiện thực khách quan, trong đó thực tiễn là cơ
sở, động lực và tiêu chuẩn của nhận thức.
Theo Lênin: Nhận thức là một quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Sự phát triển của nhận thức
loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý luận, lý luận là “sản phẩm” của sự
phát triển của nhận thức, đồng thời thể hiện như là trình độ cao của nhận thức
1.2 Lý luận

Xét về bản chất, lý luận là một hệ thống những trí thức được khái quát từ thực
tiến, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới
khách quan. Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong



mối quan hệ với thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại với nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Chính từ
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức – lý luận của con người mới
được hình thành và phát triển.
1.3 Thực tiễn

Thực tiễn là cơ sở, động lực, tiêu chuẩn và mục đích của nhận thức. Mặt khác,
nhận thức của con người cũng có khả năng nắm bắt được các quy luật khách
quan. Đây là quan điểm mới mẻ mang tính khoa học, cách mạng triết học Mác
xít và cũng là điểm còn thiếu sót, sai lầm trong lịch sử triết học trước Mác.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người đã tác động vào thế giới, buộc thế giới phải
bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người nhận thức chúng từ đó
xây dựng nên lý luận, khoa học, phản ánh bản chất và quy luật vận động của sự
vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Quan điểm này yêu cầy
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn.

III. Nội dung
Mỗi thời đại lịch sử thường có nhiều học thuyết xã hội tác động, ảnh hưởng đến
sự phát triển xã hội, song có một học thuyết nổi bật, trở thành chủ thuyết phát
triển của thời đại. Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin luôn phát triển
trong cuộc đấu tranh với các học thuyết đối lập và nó trở thành chủ thuyết phát
triển của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Thực tiễn lịch sử xã hội đã xác nhận, gần hai thế kỷ qua chủ nghĩa
Mác – Lênin đã thể hiện được ưu thế vượt trội và sức sống mãnh liệt với bản
chất khoa học, cách mạng và nhân văn trong đời sống xã hội nhân loại. Từ sau
thế chiến II, trên thế giới đã xuất hiện hàng loạt học thuyết về xã hội như: “Chủ
nghĩa tự do mới”, “Thuyết hội tụ” (tiêu biểu là Buckinham), “Xã hội công



nghiệp thống nhất” (R.Arông), “Xã hội hậu công nghiệp” (D.Ben), “Nhà nước
công nghiệp mới” (Gi.Ganbrai), “Chủ nghĩa hậu hiện đại”... Từ những năm 70
của thế kỷ XX, các nhà tương lai học A.Tossler và H.Toffler đã công bố những
tác phẩm khá nổi tiếng như: “Cú sốc tương lai”, “Làn sóng thứ ba”, “Thăng
trầm quyền lực”, “Chiến tranh và chống chiến tranh – sự sống còn của loài
người ở buổi bình minh của thế kỷ XXI”, “Tạo dựng một nền văn minh mới”..
Có thể khẳng định rằng, tất cả các học thuyết và các quan điểm nói trên có một
giá trị ở một phương diện nhất định và có một ảnh hưởng nhất định trong một
phạm vi nhất định của đời sống xã hội; song nhất quyết chúng không thể trở
thành chủ thuyết phát triển của thời đại. Bởi lẽ, thứ nhất, tất cả chúng đã không
phản ánh được những quy luật phát triển khách quan của lịch sử loài người và
không thể hiện được nhu cầu, lợi ích, sức mạnh của lực lượng tiên phong của
nhân loại (giai cấp công nhân) thúc đẩy lịch sử tiến lên; thứ hai, trong khi mô tả
đời sống xã hội chúng chỉ chú ý đến yếu tố kỹ thuật, tuyệt đối hóa vai trò của
công nghệ để đi đến phủ nhận sự đối kháng về lợi ích giữa các tập đoàn người,
phủ nhận đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, xóa nhòa ranh giới giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Về thực chất, các học thuyết và quan điểm nói
trên là tiếng nói của giai cấp tư sản muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ
nghĩa xã hội hiện thực.
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta 25 năm qua
có được là do sự nghiệp đổi mới được dẫn dắt và soi sáng bởi chủ nghĩa Mác –
Lê-nin; là do Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lê-nin trong thực tiễn cách mạng. Đại hội XI của Đảng đã rút ra một bài học
kinh nghiệm quan trọng: “Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên
trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo,
phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH”1.


Khẳng định kinh nghiệm nêu trên trong giai đoạn hiện nay là vấn đề có ý nghĩa

lý luận và thực tiễn cấp bách, chẳng những góp phần củng cố niềm tin vào chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, vào con đường đi lên CNXH, mà còn trực tiếp làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác – Lê-nin của các
thế lực thù địch. Tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với xã hội
Việt Nam được quy định bởi yêu cầu phát triển của sự nghiệp đổi mới và sự
vận động của lịch sử cách mạng Việt Nam; bởi yêu cầu đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc trong thế giới hiện nay. Vai trò “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam”
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đối với sự nghiệp đổi mới đất nước của nhân dân ta
là khách quan, vốn có, chứ không phải do chúng ta “cố tình gán ghép” như sự
bịa đặt của một số người. Vai trò đó không phải thể hiện ở những câu chữ, ở
những mỹ từ, mà thể hiện sinh động trong cuộc sống, thông qua hoạt động thực
tiễn của dân tộc và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin luôn là ngọn đuốc soi đường
cách mạng Việt Nam. Hơn tám thập kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Và ngày nay, trước
những biến động phức tạp của tình hình thế giới, sự nghiệp đổi mới đất nước
theo định hướng XHCN của nhân dân ta vẫn tiếp tục phát triển và đạt được
những thành tựu rất đáng khích lệ trên tất cả các lĩnh vực. Thế giới biết đến và
ngưỡng mộ Việt Nam không phải chỉ vì sự anh dũng, ngoan cường của nhân
dân ta trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm; mà còn bởi những thành
tựu to lớn và toàn diện của nhân dân ta trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
CNH,HĐH đất nước; bởi ý chí vươn lên, tinh thần lao động sáng tạo vượt qua
nghèo khó, đưa đất nước tiến lên trên con đường XHCN, phấn đấu vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là bằng chứng hùng
hồn khẳng định tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn


liền với CNXH, con đường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà Đảng, Bác Hồ và

nhân dân ta đã lựa chọn.
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã từng được hình thành và phát triển từ nhiều tiền đề,
điều kiện nhất định. Trong bối cảnh lịch sử mới, những điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng của đất nước và thế giới đương đại vừa đòi hỏi, vừa
tạo điều kiện cho sự phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Để chủ nghĩa
Mác – Lê-nin thực sự là học thuyết cách mạng, khoa học, chỉ dẫn cho nhân loại
đi đến tương lai XHCN, dẫn đường cho sự nghiệp đổi mới nước ta tiếp tục phát
triển, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay là từ những thành công và thất bại của
CNXH hiện thực, cần nghiêm túc phân tích, rút ra những bài học kinh nghiệm,
những vấn đề lý luận, tiếp tục bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, thực hiện thắng lợi những mục tiêu của CNXH.
Nếu như C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã có công trong việc làm cho CNXH từ không
tưởng trở thành khoa học, khai sáng ra học thuyết cách mạng khoa học; nếu như
V.I. Lê-nin đã có công phát triển và hiện thực hoá những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác trên một phần rộng lớn của trái đất, thì các thế hệ những người cộng
sản trong thế kỷ XXI phải tiếp tục bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và
vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, thúc đẩy cách mạng phát triển. Xuất phát từ
thực tế khách quan, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận là yêu cầu quan
trọng nhằm bảo đảm sức sống và phát huy vai trò của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
Thế kỷ chúng ta đang sống đã và đang đặt chủ nghĩa Mác – Lê-nin trước những
thách thức to lớn; nhất là những vấn đề mới nảy sinh và hết sức phức tạp của
thời đại, của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn chỉ ra rằng, khi nào và ở đâu, Đảng
Cộng sản kiên định, nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đề ra đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, thì khi đó, ở đó, cách mạng phát triển, thu được thắng


lợi. Ngược lại, cách mạng sẽ khó khăn, thậm chí thất bại. Trước sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu - sự kiện “chấn động thế giới”, không ít những
luận điểm, quan điểm khác nhau trong dàn “hợp xướng” tiến công, hy vọng có

thể hạ bệ và thay thế chủ nghĩa Mác – Lê-nin; chúng ra sức tuyên truyền về cái
gọi là “hồi kết thúc”, sự “cáo chung”, sự “lạc hậu, lỗi thời” của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin.
Cần tiếp tục khẳng định rằng, sự kiện “chấn động thế giới” đó không phải là
điều minh chứng cho tính chất “lỗi thời”, cho sự “phá sản” của chủ nghĩa Mác –
Lê-nin như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc. Trái lại, điều đó cho thấy rõ
hơn những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN
trong việc nắm bắt bản chất cách mạng, khoa học trong những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và vận dụng những nguyên lý đó vào thực tiễn xây
dựng xã hội mới; đồng thời, cho thấy rõ hơn tính chất cực kỳ nguy hiểm của các
đòn tiến công hết sức tinh vi trong chiến lược chống chủ nghĩa Mác – Lê-nin,
chống CNXH của các thế lực thù địch.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát
triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập
trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản”2. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của chúng ta không phải do ý muốn
chủ quan, mà là tất yếu khách quan, phản ánh quy luật phát triển của đất nước,
của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới; là do bản chất cách mạng khoa học và
giá trị to lớn, bền vững của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Khẳng định điều đó đòi hỏi
chúng ta càng phải nhận thức đúng bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, kiên định và vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới; đòi hỏi
phải phát triển và đối xử chủ nghĩa đó với tư cách thực sự là “nền tảng”, “kim
chỉ nam” cho hành động.


Thế giới đã, đang và sẽ còn có những biến đổi lớn lao và nhanh chóng, trong đó
lĩnh vực xã hội luôn có diễn biến phức tạp. Quá trình đó đặt ra những vấn đề
bức thiết thúc đẩy triết học phải vượt lên để giải đáp. Mặt khác, nó cũng tạo ra
những tiền đề và điều kiện để triết học có thể thực hiện được vai trò của mình.

Trong xã hội hiện đại, vai trò của triết học Mác được thể hiện tập trung ở những
điểm chủ yếu sau. Nhận thức cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại và
những thành tựu của nó; tìm ra bản chất đích thực của cách mạng này, xem xét
quy luật phát triển và dự báo tương lai của nó. Trên cơ sở đó, khái quát lý luận,
bổ sung và phát triển hệ thống phạm trù, khái niệm, nguyên lý và quy luật của
phép biện chứng duy vật. Nhận thức quá trình toàn cầu hoá (về nguyên nhân,
bản chất, quy luật, mâu thuẫn, xu hướng…) để trên cơ sở đó, đánh giá hiệu quả
tác động của nó đối với đời sống con người và mọi lĩnh vực khác của đời sống
xã hội, bổ sung những yếu tố cần thiết cho chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhận thức
chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá (về bản chất,
quy luật, khả năng điều chỉnh và thích ứng, mâu thuẫn, xu hướng vận động,
khủng hoảng và quá trình phủ định biện chứng của nó để chuyển sang chủ nghĩa
xã hội). Nhận thức sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực (thành tựu và
khuyết tật, nguyên nhân khủng hoảng, con đường và giải pháp thoát khỏi khủng
hoảng). Nhận thức phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, ”ba dòng thác
cách mạng” trên thế giới và dự báo về các phong trào cách mạng này. Đồng
thời, nhận thức sâu sắc quá trình cải cách, đổi mới chủ nghĩa xã hội ở một số
nước và đưa ra dự báo về tương lai của nó.
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin” 3. Lời chỉ giáo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở chúng ta phải trung thành, kiên định chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, với lý tưởng XHCN mà nhân dân ta đang thực hiện. Mặc dù có những
biến động to lớn của tình hình, sự tiến công của các thế lực thù địch, nhưng chủ
nghĩa Mác – Lê-nin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là cơ sở, phương pháp


luận để giải quyết và soi sáng những vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta, của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần quán triệt
sâu sắc quan điểm của Đại hội XI: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không

ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng
lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra.
Làm thế nào để phát triển đất nước mà vẫn giữ được mình trong điều kiện toàn
cầu hoá và tình hình chính trị, quân sự trên thế giới rất phức tạp như hiện nay là
vấn đề đặc biệt hệ trọng đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nội dung cơ
bản của câu trả lời cho vấn đề nêu trên nằm ở việc chúng ta kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lê-nin. Dù trong thế kỷ này sẽ có những biến động bất trắc khó lường,
nhưng chủ nghĩa Mác – Lê-nin vẫn tiếp tục soi sáng những vấn đề cơ bản của
thời đại và sự nghiệp đổi mới của chúng ta, vẫn là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta; độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH vẫn là giá trị cơ bản của nhân loại, là con đường, mục tiêu, lý tưởng mà
Đảng và nhân dân ta phấn đấu. Chỉ có đi theo con đường cách mạng dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, thì dân tộc Việt Nam mới có thể ngẩng cao
đầu, vững bước tiến lên trong thế kỷ XXI.

IV. Kết Luận
Như vậy, các ý tưởng đổi mới đất nước, con người và tổ chức thực hiện sự đổi
mới ở Việt Nam theo mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc và phát triển xã hội chủ
nghĩa nhất thiết phải có tư duy lý luận, trong đó tư duy triết học là chìa khoá
phương pháp luận khoa học. Từ những thành công của chúng ta trong 20 năm


đổi mới vừa qua, có thể khẳng định rằng, triết học Mác - Lênin có vai trò to lớn
và đặc biệt quan trọng đối với đời sống xã hội và sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×