Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu..doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.99 KB, 5 trang )

______________________________________Môn Luật thương mại Việt Nam 2
2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại.
Giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng cần phải xem xét khi
nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại gồm những nội
dung chính sau: Nguyên tắc giao kết hợp đồng, thẩm quyền giao kết hợp
đồng, trình tự giao kết hợp đồng và sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng
mua bán hàng hóa.
2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại.
Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng phải
tuân thủ nguyên tắc cơ bản như đối với một hợp đồng dân sự thông thường.
Theo điều 389 Bộ Luật Dân Sự (BLDS), việc giao kết hợp đồng dân sự cần
tuân thủ các nguyên tắc sau:
• Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được
trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, các cá nhân,
tổ chức không kể là thương nhân hay không phải là thương nhân, nếu có đủ
các điều kiện mà pháp luật quy định đều có thể tham gia giao kết hợp đồng
mua bán hàng hoá trong thương mại mà không bị ai ngăn cản.
Nguyên tắc này cũng cho phép các bên được tự do thoả thuận tất cả
những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên quá
trình giao kết hợp đồng phải đảm bảo hợp pháp và không trái đạo đức xã
hội, hợp đồng phải được giao kết hợp pháp về cả nội dung cũng như hình
thức, đúng thẩm quyền của các bên.
• Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng.
N04_TL4_Nhóm 1________________________________________________
1
______________________________________Môn Luật thương mại Việt Nam 2
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của các quan hệ hợp đồng. Trong


quá trình giao kết hợp đồng, các bên đều bình đẳng với nhau. Không ai được
áp đặt ý chí của mình lên người khác, các bên phải thoả thuận với nhau trên
cơ sở trung thực, ngay thẳng và hợp tác. Tất cả những hợp đồng giao kết do
nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc này.
Vì vậy, những hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại cần phải tuân thủ các nguyên tắc trên. Quá trình giao kết hợp đồng chỉ
cần vi phạm một trong hai nguyên tắc sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu.
2.2. Thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có thể là
cá nhân, pháp nhân, các tổ chức không phải là pháp nhân, tổ hợp tác và hộ
gia đình. Vì vậy, thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại có sự khác biệt đối với từng loại chủ thể.
Đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức, tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh
nghiệp tư nhân, thẩm quyền kí kết hợp đồng thuộc về chính cá nhân đó, tổ
trưởng tổ hợp tác, chủ hộ, chủ doanh nghiệp tư nhân. Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân có thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa
trong thương mại.
Trong trường hợp người có thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng
hóa không thể tự mình tham gia đàm phán và kí kết hợp đồng được thì họ có
thể uỷ quyền cho người khác. Việc uỷ quyền có thể được thực hiện bằng văn
bản. Nội dung uỷ quyền có thể là uỷ quyền thường xuyên hoặc uỷ quyền
theo vụ việc. Về mặt pháp lý, người được uỷ quyền chỉ có thể thực hiện việc
kí kết hợp đồng trong phạm vi được uỷ quyền. Trong trường hợp vượt quá
N04_TL4_Nhóm 1________________________________________________
2
______________________________________Môn Luật thương mại Việt Nam 2
phạm vi được uỷ quyền mà không có sự đồng ý của người uỷ quyền thì
quyền hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp luật.

2.3. Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo quan điểm của pháp luật thương mại quốc tế trình tự kí kết hợp
đồng mua bán hàng hóa được chia làm hai trường hợp: trường hợp các bên
kí kết trực tiếp gặp nhau và trường hợp các bên không trực tiếp gặp nhau.
Trong trường hợp các bên có thể gặp nhau, việc kí kết hợp đồng diễn ra trên
cơ sở đàm phán trực tiếp. Đối với trường hợp các bên kí kết không trực tiếp
gặp nhau, hợp đồng thường được kí kết qua hai giai đoạn: giai đoạn chào
hàng và giai đoạn chấp nhận chào hàng. Ở giai đoạn chào hàng, bên chào
hàng phải thể hiện ý định muốn bán hoặc muốn mua một mặt hàng nào đó
đối với bên kia. Việc chào hàng phải tuân theo một số quy định của pháp
luật như điều kiện hiệu lực của đơn chào hàng, thời hạn hiệu lực của đề nghị,
điều kiện để đơn phương tuyên bố hủy bỏ chào hàng… Thông thường, hợp
đồng sẽ được kí kết nếu đơn chào hàng được chấp nhận vô điều kiện. Bên
được chào hàng sẽ trở thành bên chào hàng mới khi họ đưa ra một số điều
kiện khác với điều kiện khác với điều kiện ban đầu của bên chào hàng. Các
điều kiện mới này được coi như đơn chào hàng mới và bên chào hàng sẽ trở
thành bên được chào hàng.
Vấn đề trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại không được quy định trong Luật thương mại 2005. Vì vậy, vấn đề này
do BLDS 2005 điều chỉnh (từ Điều 390 đến Điều 400 BLDS 2005). Theo
BLDS 2005 thì quá trình giao kết hợp đồng được thực hiện qua hai giai
đoạn:
• Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là hành vi
pháp lý đơn phương của một chủ thể, thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa và chịu sự ràng buộc về đề nghị này
N04_TL4_Nhóm 1________________________________________________
3
______________________________________Môn Luật thương mại Việt Nam 2
của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể. Cả bên bán
và bên mua đều có thể đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng mua bán

hàng hóa và đều phải chịu trách nhiệm về đề nghị đã đưa ra. Đề
nghị giao kết hợp đồng được thể hiện dưới hình thức lời nói, văn
bản hay hành vi cụ thể và có thể được gửi cho một hay nhiều chủ
thể xác định.
• Thứ hai, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên
được đề nghị với bên đề nghị, thể hiện việc toàn bộ chấp nhận toàn
bộ nội dung của đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng với
bên đề nghị. Về nguyên tắc, khi các bên trực tiếp giao tiếp với
nhau thì bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc chấp nhận hay
không chấp nhận đề nghị. Trường hợp cần có thời gian để bên
được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ, bên đề nghị có thể ấn định thời
hạn trả lời. Việc trả lời chấp nhận đề nghị chỉ có hiệu lực trong
thời gian đã được ấn định (Điều 397 BLDS 2005). Bên được đề
nghị có thể chấp nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung đề nghị.
Bên được đề nghị cũng có thể sửa đổi nội dung đề nghị hoặc đưa
them nhưng nội dung mới. Trong trường hợp này, bên được đề
nghị sẽ trở thành người đề nghị mới và người đề nghị trước đó sẽ
trở thành người được đề nghị.
2.4. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương
mại.
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có bản chất là sự thỏa
thuận dựa trên cơ sở quyền tự định đạt của các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì vậy, các bên hoàn toàn có thể sửa đổi hợp đồng để phù hợp với nhu
cầu và lợi ích của mình. Khoản 1, Điều 423 BLDS năm 2005 quy định: “Các
bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa
N04_TL4_Nhóm 1________________________________________________
4
______________________________________Môn Luật thương mại Việt Nam 2
đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Sửa đổi hợp đồng à việc
các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận với nhau làm thay đổi một số

điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết. Quá trình sửa đổi hợp
đồng cũng cần tuân theo các thủ tục như quá trình giao kết hợp đồng trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc sửa đổi hợp đồng phải được ghi
nhận dưới hình thức phù hợp với hình thức của hợp đồng đã giao kết. Khoản
2, Điều 423 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng được lập
thành văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc
sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó”.
N04_TL4_Nhóm 1________________________________________________
5

×