Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

một số chế độ pháp lý và vấn đề thực tiễn về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.19 KB, 37 trang )

Đề án môn học
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì hội nhập, thời kì đem lại cho nước ta nhiều cơ
hội và thử thách to lớn. Nền kinh tế nước ta thật sự đang phải đối mặt với nhiều vận
hội và thử thách mới. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế trong mấy năm gần đây
của nước ta đều xếp vào loại hàng đầu trên thế giới. Kinh tế hàng hóa ngày càng thu
hút nhiều nhà kinh doanh hơn. Mua bán hàng hoá là một nhân tố quan trọng nhất
trong nền kinh tế và nó đặc biệt quan trong trong nền kinh tế thị trường đầy biến
động như ở nước ta hiện nay. Các giao dịch mua bán hàng hóa theo đó mà diễn ra
và chiếm một số lượng chủ yếu trong các giao dich dân sự. Sử dụng pháp luật là
công cụ thực hiện các giao dịch dân sự , và gắn liền với các hoạt động mua bán
hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Các hoạt động trao đổi, mua bán của các
doanh nghiệp hiện nay dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều đã sử
dụng hợp đồng mua bán như một công cụ hữu hiệu để thỏa thuận các điều khoản
giữa các bên. Việc các bên thỏa thuận quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng ngoài những thỏa thuận chung có quy định trong luật định thì cũng bao gồm
những thỏa thuận theo điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp. Bởi vậy việc tạo ra
một môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp đẩy mạnh việc cạnh tranh
lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp
trong thời đại mở cửa giao lưu buôn bán với thế giới.
Từ những kiến thức đã học tại trường và sự hướng dẫn tận tình của TS.
NGUYỄN HỢP TOÀN, em xin trình bày một số chế độ pháp lý và vấn đề thực tiễn
về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đề án môn học
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI MUA BÁN HÀNG
HÓA VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH.
1. Khái niệm đặc điểm Hợp đồng Thương mại mua bán hàng hóa
1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên bình đẳng với nhau làm


phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể.
Mua bán hàng hóa là một hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền, người mua
có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên ( điều
46- Luật Thương mại Việt Nam năm 1997)
Hợp đồng quyền và nghĩa vụ giữa các bên nhằm làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ pháp lý. Căn cứ vào đối tượng có thể coi hợp đồng mua bán hàng hoá là
một thương mại. Hợp đồng mua bán hàng hoá là hợp đồng được giao kết giữa các
thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên khác không phải là thương
nhân trong việc mua bán tất cả các động sản, kể cả động sản được hình thành tương
lai và những vật gắn liền với đất đai.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên
mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo
thỏa thuận
1.2. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
Hoạt động mua bán hàng hóa được phân làm 3 loại:
- Mua bán hàng hóa trong nước
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thi đương nhiên sẽ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật Thương mại 2005 và các luật
chuyên ngành khác.
- Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Hợp đồng mua bán qua sở giao dịch hàng hoá lần đầu tiên được quy định
trong luật thương mại năm 2005 (Điều 64), bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng
quyền chọn. Hợp đồng kỳ hạn là thoả thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên
Đề án môn học
mua cam kết nhận hàng hoá tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. Hợp
đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thoả thuận, theo đó bên mua
quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hoá xác định với mức giá định
trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để được mua quyền

này (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền trước (gọi là giao kết) và phải
trả một khoản tiền nhất định để được mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên
mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua bán hoặc bán
hàng đó.
- Mua bán hàng hóa quốc tế: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm
xuất tái nhập, chuyển khẩu.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận áp
dụng, có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là luật
của một nước thứ ba
2. Pháp luật điều chỉnh
Bộ luật Dân sự được quốc hội thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lực
ngày 01/01/2006 là nguồn luật chung điều chỉnh hợp đồng. Đây là luật chung điều
chỉnh , nêu nguyên tắc áp dụng chung về chủ thể, giao dịch dân sự, nghĩa vụ dân sự
được áp dụng các quan hệ hợp đồng dân sự (nghĩa hẹp), hợp đồng kinh doanh
thương mại… trên cơ sở những quy định áp dụng chung thì có luật áp dụng áp dụng
riêng đối với từng lĩnh vực Luật Thương mại, luật Lao động.
Luật Thương mại thông qua ngày 14/06/2005 và có hiệu lục thực hiện ngày
01/01/2006 được dùng có quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại. Với hợp
đồng mua bán hàng hóa, luật Thương mại đóng vai trò là luật riêng áp dụng, luật
Dân sự là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng được tuân theo quy định chung, áp
dụng luật riêng trước, nếu không có những quy định liên quan thì sẽ áp dụng đến
luật chung tức là luật Dân sự.
Hệ thống các văn bản khác có liên quan như:
Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 quy định chi tiết luật Thương
mại về hoạt động mua bán hàng hóa
Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của chính phủ quy định chi
tiết luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh.
Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
Luật Thương mại về mua bán hàng hóa quốc tế và các đại lí mua bán, gia công và
quá cảnh với nước ngoài

Đề án môn học
Như vậy, những vấn đề cơ bản của mua bán hàng hóa được quy định trong
Bộ luật Dân sự 2005 và luật Thương mại 2005. Hai văn bản này được áp dụng thay
thế cho hai văn bản trước đây là Bộ luật Dân sự 1995 và luật Thương mại 1997 kể
từ ngày 01/01/2006.
II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ GIAO KẾT, THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP
1. Chế độ pháp lý về giao kết hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc giao kết hợp đồng thể hiện ý chí của 2 bên, việc giao kết là quyền tự do
của cỏc bờn, nhưng vẫn cần tuân theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo
sự công bằng, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật. Nguyên tắc được quy định từ
điều 10 đến điều 15 tại Luật Thương mại.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các thương nhân trong hoạt động
thương mại. Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật
trong hoạt động thương mại ( điều 10_ Luật Thương mại ).
Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Tự do
giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong quy định
về chủ thể giao kết trong hợp đồng mua bán đó là các doanh nhân, hoặc các tổ chức,
cá nhân có giấy phép kinh doanh…nguyên tắc này nhắm giúp cho các chủ thể khi
tham gia giao kết thể hiện ý muốn của mình và bảo vệ lợi ích của bản thân. Đi kèm
với nguyên tắc tự do giao kết, tự do thỏa thuận nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Trước hết là với các doanh nghiệp, các thương nhân khi tham gia
giao kết cần phải đảm bảo có tư cách hợp pháp trước pháp luật, chịu trách nhiệm về
bản thân mình trước đối tác và trước pháp luật. Việc giao kết không được trái pháp
luật hay đạo đức xã hội, như việc giao dịch hàng hóa bị pháp luật cấm…thì đều vi
phạm nguyên tắc này. Lợi ích của cá nhân được đảm bảo đồng thời không làm xâm
hại đến lợi ích của tập thể, của xã hội. Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn
toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa,

ngăn cản bên nào.
Nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc áp dụng thói quen trong hoạt động thương
mại đã được thiết lập giữa các bên để mà các bên đó biết hoặc phải biết nhưng
không được trái với quy định của pháp luật.
Các nguyên tắc tiếp theo là nguyên tắc áp dụng tập quán trong hoạt động
thương mại. Tại điều 13_ Luật Thương mại có quy định: trường hợp pháp luật
Đề án môn học
không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được
thiết lập giữa các bên thì dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Luật Thương mại và trong Bộ luật dân sự.
Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng và thừa nhận giá trị pháp
lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
1.2. Chủ thể giao kết hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là các cá nhân và tổ chức.
Đối với các cá nhân, để được thừa nhận là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa,
cá nhân phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự. Theo khoản 1 điều 122 bộ luật dân sự 2005 thì đây cũng là một trong các điều
kiện hiêu lực của hợp đồng.
Chủ thể giao kết hợp đồng có thể là thương nhân, có thể không phải thương
nhân
- Chủ thể là thương nhân
Trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, ít nhất một bên phải là thương
nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn,
dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Quyền hoạt
động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ. Nhà nước thực
hiện độc quyền Nhà nước có thời hạn về hoạt động thương mại đối với một số hàng
hóa, dịch vụ hoặc tại một số địa bàn để bảo đảm lợi ích quốc gia. Chính phủ quy
định cụ thể danh mục hàng hóa, dịch vụ, địa bàn độc quyền Nhà nước. Chính vì

phải ‘đăng ký kinh doanh”, nên về nguyên tắc, thương nhân không thể kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật cấm. Chẳng hạn, một doanh nghiệp mua bán chất
ma túy chắc chắn là vi phạm pháp luật và cũng không có cơ quan nào cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực
mua bán chất ma túy. Pháp luật Việt Nam qui định mọi thương nhân đều có quyền
bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại, không phân biệt thành phần
kinh tế.
Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp tác vì tuy được thừa
nhận là chủ thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh dưới hình thức hộ
kinh doanh, cá thể song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức kinh tế, cũng
chẳng phải là cá nhân. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và thương
Đề án môn học
nhân nước ngoài có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác việc xác định tư
cách thương nhân nước ngoài phải căn cứ nước ngoài phải căn cứ theo pháp luật
của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch. Việc xác định điều kiện để cá nhân,
pháp nhân, hộ gia đình, tổ chức trở thành tư nhân phải dựa trên quy đinh của pháp
luật Việt Nam. Vì vậy, thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập hoặc
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật
nước ngoài công nhận (khoản 1, điều 16 luật Thương mại).
Thương nhân là cá nhân bao gồm cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh. Một cá nhân được công nhân là một thương nhân thì phải có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp.
Pháp nhân là tổ chức kinh tế gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
các tổ chức kinh tế khác có đủ điều kiện theo quy định là thương nhân.
Một tổ chức được công nhận là một pháp nhân khi có đầy đủ các điều kiện
sau ( Điều 84 Bộ luật Dân sự).
+) Được thành lập hợp pháp
+) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ

+) Có tài sản độc lập với cá nhân
+) Tổ chức và tự chịu trách nhiệm về tài sản đó
+) Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập
- Chủ thể không phải là thương nhân
Trong rất nhiều trường hợp, cá nhân không phải là thương nhân cũng được
coi là chủ thể của hợp đồng thương mại. Bên không phải là thương nhân có thể là
mọi chủ thể có đủ năng lực vì hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hoá theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia
đình, tổ hợp và không hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên như một
nghề.
1.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì mà các bên thoả thuận và pháp luật
quy định đối với một hợp đồng. Một hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ có giá trị pháp
lực khi thoả măn tối thiểu những điều kiện về nội dung mà pháp luật quy định. Khi
thiếu một trong những nội dung đó th́ hợp đồng không thể phát sinh hiệu lực. Trong
thực tế, hậu quả xấu đă xảy ra xuất phát từ điểm các bên trong hợp đồng không quy
Đề án môn học
định rơ ràng hoặc đầy đủ những nội dung của hợp đồng dẫn tới có tranh chấp xảy ra
các bên sẽ không có chứng cứ hoặc chứng cứ không rơ ràng và những thiệt hại
không cần thiết có thể xảy ra đối với tất cả các bên và không thể lường trước được.
Luật thương mại năm 2005 đă không quy định về nội dung hợp đồng mua
bán hàng hoá. Trên cơ sở việc xác lập mối quan hệ với bộ luật Dân sự, khi xem xét
vấn đề nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá chúng ta có thể dựa trên các quy
định của bộ luật Dân sự. Theo đó trong hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có thể
thoả thuận về những nội dung sau đây:
- Đối tượng của hợp đồng
Trong mua bán hàng hoá, đối tượng của hợp đồng là một hàng hoá nhất định
đây là điều khoán cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hoá, mà khi thiếu nó hợp
đồng mua bán hàng hoá không thể h́nh thành được do người ta không thể h́nh dung

được các bên tham gia hợp đồng nhằm mục đích gì, trao đổi cái gì. Đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hoá được xác định thông qua tên gọi của hàng hoá. Trong
hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể gi rõ tên hàng bằng tên thông thường
hoặc tên thương mại… để tránh có sự hiểu sai lệch về đối tượng hợp đồng.
- Số lượng hàng hoá
Điều khoản về số lượng hàng hoá xác định về mặt lượng đối với đối tượng
của hợp đồng. Các bên có thể thoả thuận và gi trong hợp đồng về một số lượng
hàng hoá cụ thể hoặc số lượng được xác định bằng đơn vị đo lường theo tập quán
thương mại như chiếc, bộ, tá, mét, mét vuông, mét khối hay bằng một đơn vị nào
khác tuỳ theo tính chất của hàng hoá.
- Chất lượng hàng hoá
Chất lượng hàng hoá giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái
mà người mua biết tường tận với những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy
cách, kích thức, công suất, hiệu quả… xác định cụ thể chất lượng của sản phẩm
thường cũng là cơ sở để xác định giá cả một cách tốt nhất. Trách nhiệm của các bên
thường khác nhau tương ứng với mỗi phươn pháp xác định chất lượng được thoả
thuận. Thông thường có các biện pháp xác định chất lượng như dựa vào mẫu hàng,
dựa vào các tiêu chuẩn, dựa vào mô tả tỉ mỷ, dựa vào nhăn hiệu hàng hoá hoặc điều
kiện kỹ thuật…
Đề án môn học
- Giá cả hàng hoá
Các bên có quyền thoả thuận giá cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng
hoặc nếu không ghi cụ thể th́ phải xác định rơ phương hướng xác định giá, v́ đây là
điều khoản quan trọng trong các cuộc thương lượng để đi đến kư đến hợp đồng. Để
mang lại lợi ích cho cả hai bên, các bên cũng có thể thoả thuận với nhau lựa chọn
h́nh thức giảm giá phù hợp gi trong hợp đồng như giảm giá như giao hàng sớm, do
mua số lượng nhiều và quy định rơ mức giá giảm.
- Phương thức thanh toán
Phương thức thanh toán là các cách thức mà bên mua và bên bán thoả thuận,
theo đó bên mua phải thanh toán cho bên bên bán tiền hàng đă mua theo một

phương thức nhất định. Có nhiều phương thức thanh toán nhưng việc lựa chọn
phương thức nào cũng xuất phát từ nhu cầu của người bán là thu tiền nhanh đầy đủ
và yêu cầu của người mua là nhận được hàng đúng số lượng, chất lượng, thời hạn
như đă thoả thuận và không có rủi ro trong thanh toán. Việc chọn phương thức
thanh toán trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên khi
tham gia qua lệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Sự lựa chọn phương thức thanh toán
cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương thức thanh toán và phí tổn cho việc
thanh toán.
- Thời gian và địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng
Thời gian thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian mà bên bán phải hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng cho bên mua theo đúng đối tượng của hợp đồng đúng địa
điểm đă thoả thuận trong hợp đồng. Bên mua có nghĩa vụ và nhận hàng đúng thời
gian và địa điểm và trả tiền cho bên bán. Các bên có thể thoả thuận với nhau sao
cho hợp lưy căn cứ vào t́nh h́nh thực tiễn, khả năng thực hiện của mỗi bên. Địa
điểm giao hàng có thể do hai bên thoả thuận, phù hợp với điều kiện thực tế, thuận
tiện và có lợi cho cả hai bên. Khi thoả thuận cần thoả thuận cụ thể địa chỉ giao hàng,
đảm bảo nguyên tắc phù hợp với khả năng đi lại của phương tiện vận chuyển, đảm
bảo an toàn cho phương tiện.
1.4. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
- Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào
hàng. Chào hàng là giai đoạn trong đó một bên có “đề nghị về việc kí kết hợp đồng
Đề án môn học
được gửi đích danh cho một hoặc vài người”. Chào hàng có thể là bất kì lời đề nghị
nào “đủ rõ ràng” và “ chỉ rõ tên hàng hóa, xác định một cách trực tiếp hoặc ngầm
định về số lượng và giá cả”. Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng, có nội
dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá, được chuyển cho một hoặc nhiều
nguời nhất định, có giá trị trong một thời gian nhất định. Đơn chào hàng về bản chất
là một đề nghị giao kết hợp đồng, là việc một bên bày tỏ ý chí của mình muốn giao
kết hợp đồng mua bán hàng hoá với một người cụ thể và chịu sự ràng buộc về đề

nghị này đối với bên đã được xác định cụ thể đó. Chào hàng chỉ phát sinh hiệu lực
khi nó tới nơi người được chào hàng. Chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo của
người chào hàng về việc hủy chào hàng gửi đến nơi người được chào hàng trước
hoặc cùng lúc với chào hàng. Chào hàng sẽ mất hiệu lực khi người chào hàng nhận
được thông báo về việc từ chối chào hàng.
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là chấp nhận chào hàng, là giai đoạn
tiếp theo, là sự trả lời của bên được đề nghị chuyển cho bên đề nghị về việc chấp
thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong đề nghị giao kết hợp đồng. Tuyên bố hành
động nào đó của người được chào hàng thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được
gọi là việc chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải khác là
việc chấp nhận đơn chào hàng. Người nhận được chào hàng sau khi đã chấp nhận
cũng có thể suy xét lại và nếu thấy chào hàng đó không có lợi cho mình thì có thể
hủy chấp nhận mà mình đã gửi. Tuy nhiên, việc hủy chấp nhận chào hàng chỉ có thể
được chấp nhận nếu thông báo về việc hủy chấp nhận chào hàng tới nơi người chào
hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực. Thông báo này sẽ được coi
là “ tới nơi” khi thông báo này, hoặc bằng lời nói, hoặc được giao bằng bất cứ
phương tiện nào cho chính người đã chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa
chỉ bưu chính hoặc nơi thường trú nếu không có địa chỉ bưu chính. Nếu bên nhận
chào hàng trả lời có khuynh hướng chấp nhận nhưng trong thư trả lời có chứa đựng
những điểm bổ sung, thêm, bớt một số điều khoản thì đó được coi là từ chối chào
hàng và cũng là gửi một đơn chào hàng mới gọi là chào ngược. Tuy vậy, nếu những
sửa đổi, bổ sung, đề nghị không làm thay đổi điểm cơ bản trong nội dung chào hàng
thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ trường hợp người gửi thông báo ngay lập
tức thể hiện sự phản đối của mình tới người được chào hàng ( người đã có yêu cầu
sửa đổi). Những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng là những điểm liên quan
đến các điều kiện về giá cả, thanh toán, phẩm chất và số lượng hàng hóa, địa điểm
Đề án môn học
và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên hay giải quyết tranh chấp.
Chấp nhận đề nghị chào hàng chỉ có giá trị nếu nó được gửi đến cho người chào

hàng trong thời hạn chấp nhận do người chào hàng quy định có thể bằng bất cứ
phương tiện thông tin liên lạc nào, được tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi,
hoặc vào ngày ghi trên bì thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện
đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hàng quy
định, bắt đầu tính từ thời điểm người được chào hàng nhận được chào hàng.
- Ký kết hợp đồng
Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có
hiệu lực. Bắt đầu từ thời điểm này, các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy
định trong hợp đồng.
1.5. Thời điểm hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa là xác định được thời
điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau. Việc xác định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời kiện khởi
kiện trong vụ án dân sự, có ý nghĩa quan trọng, nhất là khi giải quyết các tranh chấp
về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản đó
theo giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực.
1.6. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
Vấn đề một hợp đồng vô hiệu được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Dân sự
2005 sửa đổi 2010 từ điều 127 đến điều 138. Một hợp đồng vô hiệu khác với hợp
đồng mất hiệu lực vì việc mất hiệu lực có thể xẩy ra ở bất kì thời điêm nào khi xuất
hiện các điều kiện cần thiết và không mang hiệu lực hồi tố. Hợp đồng bị vô hiệu
trong các trường hợp sau:
- Nội dung, mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội (điều 128)
- Trong giao dịch hợp đồng có sự giả tạo ( điều 129)
- Hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện(điều 130)
- Trong quá trình giao dịch có sự nhầm lẫn (điều 131)
- Giao dịch có dấu hiệu của sự đe dọa, lừa dối ( điều 132)
- Giao dịch do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình (

điều 133)
- Giao dịch không tuân thủ quy định về hình thức trong một số trường hợp
do pháp luật quy định
Hợp đồng vô hiệu có hai loại là hợp đồng vô hiệu từng phần và hợp đồng vô
Đề án môn học
hiệu toàn bộ. Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần của hợp đồng đó vô hiệu
nhưng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại. Hợp đồng vô hiệu
toàn bộ khi toàn bộ nội dung của nó vô hiệu.
Việc tuyên bố một hợp đồng vô hiệu toàn bộ hay vô hiệu một phần thuộc
thẩm quyền của tòa án. Để tòa án thực hiện thẩm quyền này thì bên có nhu cầu làm
đơn yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu. bên có nhu cầu ở đây có thể là
một trong các bên tham gia hợp đồng cũng có thể là bên thứ ba có liên quan.
Hợp đồng không có hiệu lực kể từ thời điểm kí kết tuyên bố hợp đồng vô
hiệu, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. . Nếu các bên chưa tiến
hành thì không được phép thực hiện hợp đồng. Nếu đã thực hiện hợp đồng thì các
bên phải khôi phục lại trạng thái ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nếu
không hoàn trả lại bằng hiện vật thì các bên hoàn trả cho nhau bằng tiền. Nếu không
bên nào có lỗi trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu, chi phí cho việc hoàn trả nghĩa
vụ cũng như các thiệt hại thực tế xảy ra do các bên tự chịu, mỗi bên chịu thiệt hại
chi phí của mình. Nếu hợp đồng vô hiệu do lỗi của một bên có lỗi gây ra thiệt hại có
trách nhiệm bồi thường
2. Chế độ pháp lý về thực hiện hợp đồng thương mại mua bán hàng hóa
2.1. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác đã, đang và sẽ là nguyên tắc cơ
bản của việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Cùng với sự phát triển của các quan hệ
xã hội, của hoạt động kinh doanh thương mại và của pháp luật hợp đồng, nguyên
tắc này càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp
tác có mối quan hệ mật thiết với các hình thức lỗi trong trường hợp có vi phạm hợp
đồng. Bởi lẽ, sự thiện chí, hợp tác và trung thực phản ánh ý thức, thái độ của các
bên đối với nhau trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng và đối với việc xử lý

những tình huống có thể ảnh hưởng đến số phận của giao dịch và lợi ích của các
bên. Trong khi đó hành vi vi phạm hợp đồng là những biểu hiện khách quan dưới
dạng hành động hoặc không hành động trái với các nội dung mà các bên đã thỏa
thuận trước đó. Tuy nhiên khi sự vi phạm được gắn liền với yếu tố lỗi thì biểu hiện
khách quan đã được lồng ghép với những dấu hiệu chủ quan, bởi lỗi phản ánh trạng
thái nhận thức của người vi phạm khi có hành vi trái với thỏa thuận thiện chí là một
trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
2.2. Giao nhận hàng hóa
Nghĩa vụ của bên bán là phải giao hàng hóa đúng quy định của hợp đồng và
Đề án môn học
các điều kiện kèm theo việc giao hàng. Việc giao hàng liên quan đến việc giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa. Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận
trong hợp đồng về số lượng , chất lượng cách thức đóng gói, bảo quản và các quy
định khác trong hợp đồng. Thông thường trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận với
nhau về điều kiện kèm theo việc giao hàng thoả thuận về điều kiện giao nhận hàng
hoá nhằm mục đích xác trách nhiệm và chi phí giao hàng của các bên như đối với
vận tải, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu, gánh chịu rủi
ro…
Các bên có thể thoả thuận về địa điểm giao hàng tuỳ theo tính chất của các
hàng hoá trong hợp đồng khi đã thoả thuận về địa điểm giao hàng thì các bên phải
tôn trọng thoả thuận và phải thực hiện đúng thoả thuận đó. Bên bán phải có nghĩa
vụ giao hàng, bên mua phải có nghĩa vụ nhận hàng đúng địa điểm đã thoả thuận.
Trong trường hợp không thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao
hàng được xác định như: Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên
bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó. Trường hợp trong hợp đồng có quy định
về vấn đề chuyển hàng hoá thì bên ngoài có nghĩa vụ giao hàng cho người vận
chuyển đầu tiên. Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển
hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho
chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải
giao hàng tại địa điểm đó, Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại

địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao
hàng tại nơi cứ trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua
bán.
Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có
quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thoả thuận khác.
Trong trường hợp bên bán giao hàng không đúng với thỏa thuận hợp đồng
thì bên mua có quyền từ chối nhận hàng, bên bán chịu hoàn toàn trách nhiệm về
thiệt hại phát sinh dù cho người bán có thể biết hoặc không thể biết về thiệt hại phát
sinh đó. Hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng khi hàng hóa đó thuộc
một trong các trường hợp: không phù hợp với mục đích sử dụng của hàng hoá cùng
chủng loại vẫn thường được sử dụng. Không phù hợp với bất kỳ mục đích cụ thể
nào mà bên mua đã cho bên bán biết hoặc bên bán phải biết vào thời gian giao kết
Đề án môn học
hợp đồng. Không bảo đảm chất lượng như chất lượng của mẫu hàng mà bên bán đã
giao cho bên mua. Không được bảo quản. đóng gói theo cách thức thông thường với
loại hàng hoá đó hoặc không theo cách thức thích hợp để bảo quản hàng hoá trong
trường hợp không có cách thức bảo quản thông thường.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá qua sở giao dịch hàng hoá, việc giao
nhận hàng hoá cũng có những ngoại lệ. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác
về giao nhận hàng hoá thì việc giao nhận hàng hoá sẽ được thực hiện như đối với sự
việc mua bán hàng hoá thông thường. Tuy nhiên, trong hợp đồng kỳ hạn, các bên có
thể thoả thuận về việc thanh toán bằng tiền của bên mua và không nhận hàng khi đó
bên bán không phải giao hàng và bên mua không phải nhận hàng mà bên mua chỉ
phải thanh toán cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa giá thoả
thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch hàng hoá công bố tại thời
điểm hợp đồng được thực hiện mà thôi. Đối với hợp đồng quyền chọn thì nghĩa vụ
giao nhận hàng của các bên chỉ phát sinh khi bên giữa quyền chọn mua thực hiện
quyền mua và bán hàng có hàng để bán, bên giữ quyền bán thực hiện quyền bán mà
bên mua đồng ý mua hàng.
Trường hợp hàng hóa được giao cho người vận chuyển nhưng không được

xác định rõ bằng ký mã hiệu trên hàng hóa, chứng từ vận chuyển hoặc cách thức
khác thì bên bán phải thông báo cho bên mua về việc đã giao hàng cho người vận
chuyển và phải xác định rõ tên và cách thức nhận biết hàng hoá được vận chuyển.
Trường hợp bên bán có nghĩa vụ thu xếp việc chuyên chở hàng hoá thì bên
bán phải ký kết các hợp đồng cần thiết để việc chuyên chở được thực hiện tới đích
bằng các phương tiện chuyên chở thích hợp với hoàn cảnh cụ thể và theo các điều
kiện thông thường đối với phương thức chuyên chở đó.
Trường hợp bên bán không có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá trong
quá trình vận chuyển, nếu bên mua có yêu cầu thì bên bán phải cung cấp cho bên
mua những thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá và việc vận chuyển hàng hoá
để tạo điều kiện cho bên mua mua bảo hiểm cho hàng hoá đó.
nếu hợp đồng chỉ quy định thời hạn giao hàng và không xác định thời điểm
giao hàng cụ thể mà bên bán giao hàng trước khi hết thời hạn giao hàng và giao
thiếu hàng hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì bên bán vẫn có thể giao
phần hàng còn thiếu hoặc thay thế hàng hoá cho phù hợp với hợp đồng hoặc khắc
phục sự không phù hợp của hàng hoá trong thời hạn còn lại.
Đề án môn học
Khi bên bán thực hiện việc khắc phục việc giao thiếu hàng, giao hàng không
phù hợp với hợp đồng mà gây bất lợi hoặc làm phát sinh chi phí bất hợp lý cho bên
mua thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán khắc phục bất lợi hoặc chịu chi phí đó.
2.3. Kiểm tra chất lượng hàng hóa
Trường hợp các bên có thoả thuận để bên mua hoặc đại diện của bên mua
tiến hành kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng thì bên bán phải bảo đảm cho bên
mua hoặc đại diện của bên mua có điều kiện tiến hành việc kiểm tra. Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác, bên mua hoặc đại diện của bên mua trong trường hợp này
phải kiểm tra hàng hóa trong một thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho
phép; trường hợp hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hóa thì việc kiểm
tra hàng hoá có thể được hoãn lại cho tới khi hàng hoá được chuyển tới địa điểm
đến.
Trường hợp bên mua hoặc đại diện của bên mua không thực hiện việc kiểm

tra hàng hóa trước khi giao hàng theo thỏa thuận thì bên bán có quyền giao hàng
theo hợp đồng.
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá
mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông
báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá.
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyến của hàng hoá
mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông
báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. Nhưng bên bán
phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại
diện bên mua đã kiểm tra nêu các khuyến khuyết của hàng hoá không thể phát hiện
được trong qúa trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường vằ bên bán đã biết hoặc
phải biết về các. Khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua.
Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên
mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hoá
không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và
bên bán đã biết hoặc phải biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho
bên mua.
2.4. Nghĩa vụ thanh toán
Thanh toán tiền hàng được coi là nghĩa vụ quan trọng mà người mua phải
thực hiện. Người bán và người mua có thể thoả thuận những biện pháp ràng buộc
chặt chẽ nhằm đảm bảo việc thanh toán được đầy đủ và đúng hạn theo thoả thuận
Đề án môn học
trong trường hợp đồng. Bên mua phải có nghĩa vụ thanh toán và nhận hàng theo
thoả thuận và các bên có thể thoả thuận về phương thức, thời hạn và thời điểm
thanh toán. Khi đó bên mua phải tuân thủ các phương thức thanh toán và thực hiện
thanh toán theo đúng trình tự, thủ tục theo thoả thuận và các quy định của pháp luật
về thanh toán. Bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng
hoá mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua,
trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
Trong trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì bên mua phải

gánh chịu trách nhiệm vật chất. Trường hợp bên mua hàng chậm thanh toán tiền
hàng theo hợp đồng thì phải trả lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm tar,
khi bên vi phạm yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Bên mua có thể ngừng thanh toán trong những trường hợp như bên mua có
bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán. Bên
mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền
tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết. Bên mua có
bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền
tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó.
Trường hợp tạm ngừng thanh toán theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này
mà bằng chứng do bên mua đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên
mua phải bồi thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của pháp
luật.
Trường hợp không có thỏa thuận về địa điểm thanh toán cụ thể thì bên mua
phải thanh toán cho bên bán tại một trong các địa điểm: Địa điểm kinh doanh của
bên bán được xác định vào thời điểm giao kết hợp đồng, nếu không có địa điểm
kinh doanh thì tại nơi cư trú của bên bán. Địa điểm giao hàng hoặc giao chứng từ,
nếu việc thanh toán được tiến hành đồng thời với việc giao hàng hoặc giao chứng
từ.
Thời hạn thanh toán cũng là một yếu tố quan trọng. thời hạn thanh toán được
quy định như sau: Bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao
hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hoá. Bên mua không có nghĩa vụ
thanh toán cho đến khi có thể kiểm tra xong hàng hoá trong trường hợp có thỏa
Đề án môn học
thuận theo quy định tại Điều 44 (Kiểm tra hàng hoá trước khi giao hàng).
Hai bên có thể lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp trên cơ sở tình hình
thị trường hàng hóa, sự hiểu biết và khả năng tài chính và tín nhiệm thương mại của
chủ thể giao kết. Hiện nay một số phương thức thanh toán được các bên kí kết thực
hiện như: phương thức chuyển tiên, phường thức ghi sổ, phương thức nhờ thu,

phương thức uỷ thác mua, thử bảo đảm trả tiền, phương thức tín dụng chứng từ.
2.5. Chuyển quyền sở hữu hàng hóa
Bên bán phải đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán
không bị tranh chấp bởi bên thứ ba. Hàng hóa đó phải hợp pháp. Việc chuyển giao
hàng hoá là hợp pháp.
Bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán
phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ đối với hàng hóa đã bán. Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân
theo bản vẽ kỹ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua
cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của
bên mua.
Trường hợp hàng hoá được bán là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự thì bên bán phải thông báo cho bên mua về biện pháp bảo đảm
và phải được sự đồng ý của bên nhận bảo đảm về việc bán hàng hóa đó.
Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác,
quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được
chuyển giao.
2.6. Chuyển rủi ro
Nếu bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên mua tại một địa điểm nhất định
thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng
hoá đã được giao cho bên mua hoặc người được bên mua uỷ quyền đã nhận hàng tại
địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng từ
xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá.
Nếu hợp đồng có quy định về việc vận chuyển hàng hoá và bên bán không
có nghĩa vụ giao hàng tại một địa điểm nhất định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng
Đề án môn học
hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận
chuyển đầu tiên.
Nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là

người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho
bên mua thuộc một trong các trường hợp sau đây: Khi bên mua nhận được chứng
từ sở hữu hàng hoá. Khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng
hoá của bên mua.
nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi
ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm
giao kết hợp đồng.
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, việc chuyển rủi ro trong các trường hợp
khác được quy định như sau:
- Trong trường hợp không được quy định tại các Điều 57, 58, 59 và 60 của
Luật này thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua, kể
từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp
đồng do không nhận hàng
- Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá không được chuyển cho bên
mua, nếu hàng hoá không được xác định rõ ràng bằng ký mã hiệu, chứng từ vận tải,
không được thông báo cho bên mua hoặc không được xác định bằng bất kỳ cách
thức nào khác
2.7. Bảo hành hàng hóa
Trường hợp hàng hoá mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách
nhiệm bảo hành hàng hoá đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận. Bên bán phải
thực hiện nghĩa vụ bảo hành trong thời gian ngắn nhất mà hoàn cảnh thực tế cho
phép. Bên bán phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
2.8. Chế tài áp dụng đối với vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Sáu loại chế tài trong luật thương mại 2005: Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Phạt vi phạm. Buộc bồi thường thiệt hại. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. Đình chỉ
thực hiện hợp đồng. Huỷ bỏ hợp đồng
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Đề án môn học
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm

thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện
và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trường hợp bên bán giao thiếu hàng
hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng
dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng
hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá,
thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp
đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ
khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm. Trong trường
hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định nêu trên thì bên bị vi phạm có
quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại
hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch
và các chi phí liên quan nếu có, có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu
sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Bên bị vi phạm
phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù lao dịch vụ, nếu bên vi
phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 297 LTM.
Trường hợp bên mua vi phạm hợp đồng thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả
tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong
hợp đồng và tuân thủ đúng theo pháp luật.
Trường hợp buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể gia hạn
một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
- Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 - Luật thương mại 2005 . Như vậy phạt vi
phạm chỉ xảy ra nếu có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
Thương mại 2005 (Phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả
giám định sai)

- Bồi thường thiệt hại
Đề án môn học
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao
gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm
gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
4. Lỗi
Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất
do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp
dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực
tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Nếu bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền
yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn
chế được.
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Xảy ra hành vi
vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Bên bị
vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.
Bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ
bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc tạm ngừng, đình chỉ hoặc
huỷ bỏ hợp đồng. Trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên

kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ
hợp đồng phải bồi thường thiệt hại.
Đề án môn học
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: Xảy ra hành vi vi phạm mà các
bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa
vụ hợp đồng.
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một
bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực
hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo
quy định của Luật này.
- Hủy bỏ hợp đồng
Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp
đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi
bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn
hiệu lực.
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu
một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ
và việc này cấu thành một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ
đó thì bên kia có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng, cung ứng
dịch vụ (này). Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với một lần giao
hàng, cung ứng dịch vụ là cơ sở để bên kia kết luận rằng vi phạm cơ bản sẽ xảy ra

đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó thì bên bị vi phạm có quyền
tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng, cung ứng dịch vụ sau đó,
với điều kiện là bên đó phải thực hiện quyền này trong thời gian hợp lý. Trường hợp
một bên đã tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với một lần giao hàng, cung ứng dịch vụ
Đề án môn học
thì bên đó vẫn có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với những lần giao hàng,
cung ứng dịch vụ đã thực hiện hoặc sẽ thực hiện sau đó nếu mối quan hệ qua lại
giữa các lần giao hàng dẫn đến việc hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng không
thể được sử dụng theo đúng mục đích mà các bên đã dự kiến vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
Sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng,
trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết
tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của
mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải
được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận
thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
3. Giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán
hàng hóa
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một bên có hàng vi vi phạm sẽ phát
sinh tranh chấp. theo điều 317 Luật Thương mại thì có 4 cách giải quyết tranh chấp
như sau:
3.1. Thương lượng giữa các bên
Là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và trong thực tế,
phần lớn các tranh chấp trong kinh doanh thương mại được giải quyết bằng phương
thức này. Nhà nước khuyến khích áp dụng phương thức tự thương lượng để giải
quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên
Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng thực chất được thực hiện bởi cơ
chế giải quyết nội bộ và hoàn toàn xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tranh

chấp. có hai cách để thực hiện việc thương lượng: thương lượng trực tiếp và thương
lượng gián tiếp. thương lượng trực tiếp là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp
gặp nhau bàn bạc, trao đổi và đề xuất ý kiến của mỗi bên nhằm tìm kiếm giải pháp
loại trừ tranh chấp. thương lượng gián tiếp là cách thức các bên tranh chấp gửi cho
nhau tài liệu giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của mình nhằm tìm kiếm giải
pháp quan điểm của mình
3.2. Hòa giải giữa các bên
Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận làm trung gian hòa giải. Kết quả hòa giải phụ thuộc vào thiện chí của các
Đề án môn học
bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kĩ năng của trung gian hòa giải, quyết định
cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà phụ
thuộc hoàn toàn vào các bên tranh chấp
Hình thức giải quyết tranh chấp này có nhiều ưu điểm: thủ tục hòa giải được
tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ
người nào làm trung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải. Họ không
bị gò bó về mặt thời gian như trong thủ tục tố tụng tại tòa án. Hòa giải mang tính
thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích
của cả hai bên. Hòa giải là mong muốn của các bên dàn xếp vụ việc sao cho không
có bên nào bị thua cuộc, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình
kiện tụng tại tòa án.
Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết những tranh chấp
kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ thuật (xây dựng, tài chính ). Vì rằng,
các bên trong vụ việc tranh chấp hoàn toàn có quyền chủ động trong việc tìm kiếm
một hòa giải viên có đủ hiểu biết để tham gia giải quyết tranh chấp. Nhưng trong
thực tiễn kiện tụng tại tòa thì các bên không có quyền lựa chọn cán bộ giải quyết trừ
một số trường hợp phải thay đổi hội đồng xét xử theo quy định của pháp luật. Một
điều quan trọng khác mà các nhà kinh doanh cũng rất quan tâm là khi giải quyết
bằng con đường này các bên kiểm soát được các tài liệu chứng cứ có liên quan
(những bí mật kinh doanh) trong khi giải quyết tại tòa án thì các yêu cầu này không

được đảm bảo do tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Bên cạnh những ưa điểm trên, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa
giải vẫn còn tồn tại những nhược điểm nhất định: Việc hòa giải có được tiến hành
hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa
ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp
thỏa thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của trọng tài
hay của tòa án. Thủ tục này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với
nhau.
3.3. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa theo thủ tục trọng tài
thương mại
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp
không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được các nhà kinh doanh
Đề án môn học
ưa chuộng. Đó là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng
trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu
thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi
hành.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo
quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút
ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được công bố công khai,
rộng rãi. Theo nguyên tắc này họ có thể giữ được bí quyết kinh doanh cũng như
danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do
các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp
cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so
với hình thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài
đưa ra phán quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức
hay tòa án nào.
Nhược điểm: Giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương
đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc thi hành

quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành
bản án, quyết định của tòa án.
3.4. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có
những nhược điểm nhất định.
Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là: Do là cơ
quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao. Nếu
không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra tòa án thì quyền lợi của
người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua kiện có tài sản để thi hành án.
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương thức này cũng có những nhược điểm nhất
định vì thủ tục tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó.
Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai của tòa án tuy là nguyên tắc được xem là
tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi lại là cản trở đối với doanh nhân khi những
bí mật kinh doanh bị tiết lộ.
Đề án môn học
Chính vì những nhược điểm này mà hình thức giải quyết tranh chấp bằng tòa
án ít khi được các thương nhân lựa chọn và các thương nhân thường xem đây là
phương thức lựa chọn cuối cùng của mình khi các phương thức thương lượng, hòa
giải, trọng tài không mang lại hiệu quả.
III. THỰC TIỄN TRONG VIỆC GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
Trong các hợp đồng yếu tố cơ bản nhất là sự thỏa hiệp giữa các ý chí, tức là
có sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải là
tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên khi giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo
đức, trật tự xã hội, trật tự công cộng. Trong những trường hợp thật cần thiết, nhân
danh tổ chức quyền lực công, nhà nước có thể can thiệp vào việc ký kết hợp đồng
và do đó giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng. Tuy nhiên sự can thiệp này phải là
sự can thiệp hợp lý và được pháp luật quy định chặt chẽ để tránh sự lạm dụng, vi
phạm quyền tự do hợp đồng.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp
đồng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Tuy nhiên không thể
suy luận ngược lại: Mọi sự thỏa thuận của các bên đều là hợp đồng. Chỉ được coi là
hợp đồng những thỏa thuận thực sự phù hợp với ý chí của các bên, tức là có sự ưng
thuận đích thực giữa các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp do vậy sự ưng
thuận ở đây phải là sự ưng thuận hợp lẽ công bằng, hợp pháp luật, hợp đạo đức. Các
hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc là
không có sự ưng thuận đích thực. Những trường hợp có sự lừa dối, đe dọa, cưỡng
bức thì dù có sự ưng thuận cũng không được coi là hợp đồng, tức là có sự vô hiệu
của hợp đồng. Như vậy, một sự thỏa thuận không thể hiện ý chí thực của các bên thì
không phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên.
Một số hạn chế của pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán hàng hóa
Một là, thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam là có sự trùng
lặp nhưng lại thiếu nhất quán và không đồng bộ.
Ở nước ta hiện nay, những quy định về hợp đồng được quy định ở rất nhiều
văn bản. Ngoài những văn bản quy định chung như Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Hợp
đồng kinh tế năm 1989 thì trong từng lĩnh vực cụ thể, việc ký kết và thực hiện hợp
đồng còn chịu sự chi phối của các văn bản mang tính chuyên ngành dưới những
Đề án môn học
hình thức khác nhau như: Bộ luật hàng hải Việt Nam, Luật Thương mại, Luật Hàng
không dân dụng Việt Nam, Luật về các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo
hiểm…
Do có sự phân biệt giữa hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự nên ở Việt
Nam dường như tồn tại 2 hệ thống pháp luật hợp đồng tách biệt nhau, không có tính
liên thông, tính hỗ trợ lẫn nhau. Trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế năm 1989 đều có những quy định chung về hợp đồng đã phát sinh sự
trùng lặp trong sự điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Do có sự trùng lặp, mau thuẫn,
không thống nhất nên trong thời gian qua pháp luật về hợp đồng đã gây ra không ít
sự vướng mắc, sự lúng túng trong việc áp dụng pháp luật để tiến hành giao kết hợp
đồng và giải quyết tranh chấp. Bộ luật Dân sự năm năm 1995 là văn bản được ban

hành sau Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 nên có nhiều quy định hoàn thiện
hơn, tiến bộ hơn. Thế nhưng thật đáng tiếc do cách hiểu khác nhau về quan hệ dân
sự và hợp đồng dân sự nên các quy định của Bộ luật này hầu như không được áp
dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Hai là, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay pháp luật hợp đồng của Việt
Nam chưa tương thích với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế. Ở Việt Nam
cũng chưa thừa nhận rộng rãi án lệ, tập quán, thông lệ thương mại là nguồn của
pháp luật hợp đồng.
Ba là, Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật về hợp đồng chưa giải quyết
mối quan hệ giữa pháp luật hợp đồng với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp… cũng
như các điều kiện giao dịch mà các doanh nghiệp tự ban hành.
Những thiếu sót, bất cập, yếu kém của pháp luật hợp đồng ở nước ta đặt ra
yêu cầu phải tiến hành một cuộc cải cách pháp luật hợp đồng cho phù hợp với bối
cảnh mới hiện nay.
2. Thực tiễn trong việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi tiến hành ký kết các hợp đồng mua bán hàng hoá, các chủ thể kinh tế
phải căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả
năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đây đủ điều
kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho
xã hội.
Trong thực tế giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, nhiều khi xảy ra hiện
tượng:

×