Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Thực tiễn vận dụng lợi thế so sánh nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trung quốc trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và những gợi ý đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------o0o---------

CÔNG TRÌNH THAM DỰ CUỘC THI

Sinh viên nghiên cứu khoa học Trường Đại học Ngoại thương 2013
Tên công trình: THỰC TIỄN VẬN DỤNG LỢI THẾ SO SÁNH NHẰM
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRUNG QUỐC TRONG BỐI

CẢNH KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nhóm ngành: KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ 3 (KD3)

Hà Nội, tháng 05 năm 2013


1

LỜI MỞ ĐẦU

Như Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có những hạn chế, lý thuyết
lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của mọi môn
kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả
một cái giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính
mình." Nghiên cứu lợi thế so sánh đem lại những lợi ích thiết thực cho
quốc gia và các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương. Với
doanh nghiệp, việc nghiên cứu lợi thế so sánh giúp đưa ra chiến lược sản
xuất hàng hóa phù hợp với nhu cầu và thực tế của thị trường thế giới.
Khai thác tối đa lợi thế nguồn lực sẵn có trong nước. Với quốc gia, việc
nghiên cứu đưa ra những lợi thế của đất nước về tự nhiên như Tài
nguyên, khí hậu, đất đai…, những lợi thế tự tạo như nguồn nhân lực giá


rẻ, nguồn vồn đầu tư hay khoa học công nghệ. Từ đó có hướng sản xuất
tập trung, hiệu quả hơn thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển. Mặt khác
khắc phục những điểm yếu của nền kinh tế trong nước, tạo ra các lợi thế
khác bằng các chính sách đầu tư chính phủ, doanh ngiệp thong qua chiến
lược cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành.
Bên cạnh đó nguyên tắc lợi thế so sánh đã được WTO bảo hộ từ rất
nhiều năm qua với khoảng 500 trang hiệp định và 23000 trang cam kết
với 153 thành viên và số thành viên này đang ngày càng tăng lên. WTO
chiếm tới 95% thương mại toàn cầu. Điều đó cho thấy, một quốc gia để
tham gia triệt để và sâu rộng vào nền thương mại toàn cầu nhằm tận dụng
mọi lợi ích từ thể chế này mang lại, bởi vậy nghiên cứu nguyên tắc lợi
thế so sánh ít nhiều đem lại lợi ích trong quá trình hội nhập và khai thác
nguồn lợi trong WTO.
Trung Quốc là một trong những quốc gia có lợi thế so sánh về nhiều
mặt hàng hàng đầu thế giới. Từ sự tương quan về cơ sở kinh tế và truyền


2

thống văn hóa xa xưa giữa Việt Nam và Trung Quốc chúng ta có thể học
tập ở Trung Quốc những điểm tiến bộ để phat triển kinh tế nước nhà.
Sự yếu kém trong lĩnh vực này có thể gây lãng phí tài nguyên nguồn
lực trong nước và vốn đầu tư, khiến xuất nhập khẩu trì trệ, ảnh hưởng tới
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, không thu hút được vốn và đầu
tư nước ngoài…., ảnh hưởng lớn tới sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đã gợi mở cho chúng tôi ý tưởng
lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thực tiễn vận dụng lợi thế so sánh nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế và những gợi ý đối với Việt Nam”.



3

1.

Tính cấp thiết của đề tài

Thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, góp
phần mở rộng phạm vi trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, nâng cao khả
năng tiêu dùng của một nước. Ngoại thương cho phép một nước tiêu
dùng các mặt hàng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng trong giới hạn khả
năng sản xuất của nước đó trong trường hợp không tham gia vào buôn
bán quốc tế.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, các nước đi nhanh trên con đường
tăng trưởng và phát triển kinh tế là các nước có nền ngoại thương mạnh.
Khi nói đến thương mại quốc tế, không thể không nhắc tới lý thuyết lợi
thế so sánh của David Ricardo, đây là quy luật cơ bản trong trao đổi quốc
tế, mang tính khách quan, ổn định và lâu dài. Các quốc gia dù ở trình độ
phát triển nào, nếu tuân theo nguyên tắc này khi tham gia vào thương mại
quốc tế đều thu được lợi ích. Do đó, đi sâu nghiên cứu sự phát triển của
lý thuyết lợi thế so sánh sẽ đem lại những lợi ích thiết thực cho quốc gia
và các doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế.
Theo thống kê của tổ chức WTO, trong những năm trở lại đây,
Trung Quốc là một trong những quốc gia đứng đầu trong lĩnh vực sản
xuất và xuất nhập khẩu. Đó là nhờ Trung Quốc đã áp dụng thành công lợi
thế so sánh. Là một quốc gia đang phát triển, lại là nước lân cận, có nhiều
điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, con người cho đến văn hóa –
chính trị - xã hội với Trung Quốc, Việt Nam có thể tiếp thu nhiều bài học
kinh nghiệm trên con đường phát triển kinh tế định hướng Xã hội Chủ
nghĩa.

Những yêu cầu thực tế cần phải nghiêm túc nghiên cứu tìm ra con
đường phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam đã gợi mở nhóm
nghiên cứu lựa chọn đề tài: “Thực tiễn vận dụng lợi thế so sánh nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh hội nhập Kinh tế Quốc


4

tế của Trung Quốc và những gợi ý đối với Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình.
2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nguyên tắc lợi thế so sánh là nguyên tắc quan trọng trong thương
mại quốc tế, đã có nhiều đề tài nghiên cứu; tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở
nghiên cứu riêng rẽ lý thuyết, chưa đi sâu vào một quốc gia cụ thể. Với
mong muốn cải thiện sức cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế
trong thời kì toàn cầu hóa, đề tài đi sâu nghiên cứu sự tăng trưởng mạnh
mẽ của nền kinh tế Trung Quốc, đánh giá lại về nền kinh tế tế Việt Nam
và đưa ra một số gợi ý cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
3.

Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung

Cung cấp những cái nhìn cơ bản nhât về lý thuyết lợi thế so sánh
trong nền Thương mại Quốc tế hiện đại, từ đó đi sâu phân tích thực tiễn
vận dụng các lợi thế so sánh nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh
tế Trung Quốc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm

nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả cho nền kinh tế Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu trên, trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài sẽ tập
trung giải quyết các mục tiêu cụ thể sau.
- Nghiên cứu Lý thuyết Lợi thế so sánh của David Ricardo và sự
phát triển của Lý thuyết.
- Áp dụng Lý thuyết Lợi thế so sánh phân tích, giải thích sự tăng
trưởng của Trung Quốc và mặt trái của nó; những ảnh hưởng đối tới nền
kinh tế một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
- Nhìn lại nền kinh tế trong nước, làm rõ những mặt còn yếu kém,
đồng thời đề xuất những giải pháp có thể học tập từ Trung Quốc.
4.

Phương pháp nghiên cứu


5

Do đề tài mang tính vĩ mô, nhóm nghiên cứu chủ yếu lấy nguồn
thông tin thứ cấp qua Tổng cục Thống kê Việt Nam và Tổng Cục thống
kê Trung Quốc, các tổ chức quốc tế có uy tín như IMF, World Bank,…
hay những cơ quan Nhà nước như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính,… Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số tài liệu có liên quan, các bản
báo cáo và ý kiến chuyên gia để làm cơ sở lý luận và tham khảo.
5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Không gian: Nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam.
Thời gian: từ năm 1978 - năm Trung Quốc ra nhập thực hiện chính

sách Mở cửa - đến nay.
6.

Kết cấu của đề tài

Ngoài lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của đề tài
được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: một số lý luận chung về lợi thế so sánh và vấn đề tăng
trưởng kinh tế của các nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Chương II: thực tiễn vận dụng lợi thế so sánh nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của trung quốc từ
năm 2001 đến nay
Chương III: một số bài học đối với việt nam từ thực tiễn vận dụng
lợi thế so sánh nhằm phát triển kinh tế bền vững


6

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LỢI THẾ SO SÁNH VÀ
VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA CÁC NƯỚC TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI THẾ SO SÁNH
1.1.1. Lý thuyết cổ điển về lợi thế so sánh của David Ricardo
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith cho thấy một nước có
lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, nước đó sẽ thu
được lợi ích từ ngoại thương, nếu chuyên môn hoá sản xuất theo lợi thế
tuyệt đối. Tuy nhiên chỉ dựa vào lý thuyết lợi thế tuyệt đối thì không giải
thích được vì sao một nước có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn so với nước khác,
hoặc một nước không có một lợi thế tuyệt đối nào vẫn có thể tham gia và

thu lợi trong quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế để phát
triển mạnh các hoạt động thương mại quốc tế. Để khắc phục những hạn
chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối và cũng để trả lời cho câu hỏi trên, năm
1817, trong tấc phẩm nổi tiếng của mình "Những nguyên lý của kinh tế
chính trị", nhà kinh tế học cổ điển người Anh David Ricardo đã đưa ra lý
thuyết lợi thế so sánh nhằm giải thích tổng quát, chính xác hơn về sự xuất
hiện lợi ích trong thương mại quốc tế.
Cơ sở của lý thuyết này chính là luận điểm của D.Ricardo về sự
khác biệt giữa các nước về điều kiện tự nhiên, chất lượng nguồn nhân lực
và điều kiện sản xuất; bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tìm thấy sự khác
biệt này và chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm nhất định dù có
hay không lợi thế về tự nhiên, khí hậu, tay nghề. D.Ricardo cho rằng, trên
thực tế lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia không nhiều, hơn nữa thực tế
cho thấy là phần lớn các quốc gia tiến hành buôn bán với nhau không chỉ


7

ở những mặt hàng có lợi thế tuyệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng
dựa trên lợi thế so sánh. Bằng cách chuyên môn hoá sản xuất một số loại
sản phẩm nhất định của mình để trao đổi lấy hàng nhập khẩu thông qua
con đường ngoại thương, mỗi quốc gia không chỉ thu được những nguồn
lợi nhất định mà còn cho phép người dân của một nước tiêu dùng ngoài
giới hạn khả năng sản xuất của nước đó.
Từ lý thuyết cổ điển của D. Ricardo có thể kết luận:


Khi các quốc gia tập trung chuyên môn hóa sản xuất

để trao đổi các mặt hàng có bất lợi nhỏ nhất hoặc có lợi nhất thì tất

cả các quốc gia đều thu được lợi ngay cả khi không có các lợi thế
tuyệt đối. Do đó, trong trao đổi quốc tế, cơ sở quan trọng nhất, cần
quan tâm đầu tiên là sự phân công lao động và chuyên môn hóa
sản xuất.


Lợi thế so sánh là điều kiện cần và đủ đối với lợi ích

của các thành phần kinh tế trong Thương mại Quốc tế, là cơ sở để
thực hiện việc phân công lao động quốc tế.
Lợi thế tuyệt đối có thể coi là một trường hợp đặc biệt của lợi thế so
sánh. Về cơ bản, lý thuyết của D.Ricardo không có gì khác với A.smith:
ủng hộ tự do hoá XNK, khuyến cáo các chính phủ tích cực thúc đẩy,
khuyến khích tự do hoá thương mại quốc tế.
Cùng với sự phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu của Thương
mại Quốc tế, lý thuyết cổ điển về lợi thế so sánh của D. Ricardo vẫn còn
những hạn chế:


Trên khía cạnh chuyên môn hóa, D. Ricardo giải thích

lý thuyết chủ yếu dựa trên giá trị lao động. Điều đó đồng nghĩa với
việc chấp nhận: (1) hoặc lao động là yếu tố duy nhất để sản xuất ra


8

hàng hóa hoặc lao động được sử dụng với một tỷ lệ cố định như
nhau ở tất cả các loại hàng hoá và (2) lao động là đồng nhất (nghĩa
là chỉ có một loại lao động). Tuy nhiên cả hai giả thiết này không

hợp lý. Cụ thể, lao động không phải là yếu tố sản xuất duy nhất và
nó cũng không thể sự dụng với một tỷ lệ nhất định như nhau ở tất
cả các loại hàng hóa. Hơn nữa, luôn tồn tại khả năng thay thế giữa
vốn, lao động và các yếu tố sản xuất khác trong việc sản xuất hàng
hóa; ngay bản thân lao động cũng luôn có sự khác biệt do đào tạo,
năng suất và mức lương.


Xét về mặt trao đổi, có thể thấy rằng tỷ lệ trao đổi

trong thực tế được quyết định bởi cung - cầu và sự phân chia tổng
lợi ích có được từ thương mại của các quốc gia. Khi xây dựng lý
thuyết, D. Ricardo chưa tính đến điều này. Do đó, không thể dựa
vào lý thuyết của ông để định giá tương đối của các mặt hàng trao
đổi trên thị trường quốc tế.


Các phân tích của D. Ricardo không đề cập tới

chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hoá và hàng rào bảo hộ mậu dịch
mà các nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến
hiệu quả của thương mại quốc tế.
1.1.2. Sự phát triển của lý thuyết về lợi thế so sánh
Nhận ra những hạn chế từ Lý thuyết cổ điển của D. Ricardo, các
nhà kinh tế học hiện đại tiếp tục nghiên cứu lợi thế so sánh dựa trên các
cách tiếp cận khác hơn và mở rộng mô hình nghiên cứu.
1.1.2.1.

Quan điểm của Karl Marx
Karl Marx cho rằng, trong quan hệ quốc tế, các quốc gia hoạt động


ngoại thương đều có lợi nhuận và bao giờ cũng xuất khẩu những hàng
hóa dịch vụ thế mạnh và nhập khẩu những hàng hóa dịch vụ còn hạn chế.


9

Bản chất của lợi nhuận chính là nhờ biết lợi dụng sự chênh lệch của tiền
công và năng suất lao động giữa dân tộc và quốc tế.
1.1.2.2.

Quan điểm của G. Haberler về Chi phí cơ hội
Từ góc độ chi phí cơ hội của G. Haberler, lợi thế so sánh của một

mặt hàng thể hiện ở chi phí cơ hội thấp hơn của mặt hàng đó so với chi
phí cơ hội của mặt hàng khác hay giá tương đối của mặt hàng thấp hơn.
Cách tiếp cận này đã khắc phục được phần nào hạn chế của mô hình D.
Ricardo chỉ xem xét lợi thế so sánh thuần tuý từ góc độ chi phí lao động.
Với cách tiếp cận lợi thế so sánh từ góc độ chi phí cơ hội, có thể sử dụng
đồ thị để minh hoạ các khoản lợi ích thu được từ thương mại và xây dựng
mô hình lý thuyết thương mại chuẩn có tính đến cả yếu tố cung và yếu tố
cầu thông qua việc sử dụng các đường mô phỏng như đường giới hạn khả
năng sản xuất và đường bàng quan.
1.1.2.3.

Lý thuyết Hecksher-Ohlin
Hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher (1879-1852) và

B.Ohlin(1899-1979) trong tác phẩm: “Thương mại liên khu vực và quốc
tế”, xuất bản năm 1933 đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của

D.Ricardo thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình H-O (tên viết tắt của
hai ông) để trình bày Lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có
(hay lý thuyết H-O). Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng Thương mại
Quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng tới
chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố
sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất khiến cho nước đó có chi phí
cơ hội thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) trong
sản xuất những sản phẩm nhất định.


10

Nếu ở mô hình nghiên cứu của Ricardo với chỉ một yếu tố sản xuất
đó là lao động thì Heckscher – Ohlin đã nghiên cứu lợi thế so sánh với
mô hình hai yếu tố sản xuất, đó là lao động và vốn trong điều kiện chi phí
cơ hội tăng. Mô hình thương mại của Heckscher - Ohlin còn gọi là mô
hình 2 x 2 x 2. Từ góc độ mức độ dồi dào tương đối của các yếu tố về
lao động hoặc vốn như là sự ban phát từ tự nhiên đối với một quốc gia
của lý thuyết Hecskcher- Ohlin, mặt hàng có lợi thế so sánh là mặt hàng
sử dụng tương đối nhiều các yếu tố tương đối dồi dào của một quốc gia
như vốn hay lao động. Quốc gia có nguồn lao động dồi dào tương đối sẽ
xuất khẩu những mặt hàng sử dụng tương đối nhiều lao động còn quốc
gia dồi dào tương đối về vốn sẽ xuất khẩu những mặt hàng sử dụng tương
đối nhiều vốn. Như vậy, sự dồi dào về các yếu tố là nguồn gốc còn hàng
hoá sử dụng nhiều yếu tố dồi dào như là kết quả phát sinh từ sự dồi dào
tương đối tác yếu tố. Chẳng hạn, Việt Nam là một quốc gia giàu lao động
tương đối so với phần còn lại của thế giới cho nên Việt Nam nên xuất
khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều lao động như hàng dệt may, giày
dép...và nhập khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều vốn như máy bay, tàu
thuỷ...Cách tiếp cận của Hecskcher- Ohlin chịu sự ràng buộc của rất

nhiều giả định như thương mại hoàn toàn tự do, không có chi phí vận tải,
cán cân thương mại cân bằng... Đây là những ràng buộc để làm bộc lộ rõ
hơn bản chất và cơ chế xuất hiện lợi thế so sánh nhưng rất khó có thể đạt
được.
Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển
phức tạp của Thương mại Quốc tế ngày nay, song quy luật H-O vẫn là
quy luật chi phối động thái phát triển và được nhiều quốc gia vận dụng
trong hoạch định chính sách Công nghiệp và Thương mại. Sự lựa chọn
các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực


11

sản xuất vốn có theo thuyết H-O sẽ là điều kiện cần thiết để các nước
đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động
và hợp tác Thương mại Quốc tế, và trên cơ sở lợi ích thương mại thu
được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở những
nước này.
1.1.2.4.

Lý thuyết của Paul R. Krugman
Khác với Heckscher - Ohlin, Paul R. Krugman xem xét lợi thế so

sánh trong trường hợp nhiều hàng hóa và nhiều nước.
Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng
Để xác định được nước nào có lợi thế so sánh về sản xuất hàng hòa
nào cần phải đặt trong mối quan hệ giữa mức lương nội địa và nước
ngoài – P. R. Krugman đã chỉ rõ điểm then chốt để xác định lợi thế so
sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng.
“Nước nào sản xuất hàng hoá gì phụ thuộc vào tỷ lệ lương giữa Nội

địa và Nước ngoài. Nội địa sẽ có lợi thế chi phí ở hàng hoá nào có năng
suất lao động tương đối cao hơn mức lương tương đối của nó, và Nước
ngoài sẽ có lợi thế ở số hàng hoá khác.” Theo quy luật của lợi thế so
sánh, bằng việc chuyên môn hóa và thực hiện trao đổi quốc tế, cả Nội địa
và Nước ngoài đều hưởng lợi.
Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều nước
Trong quy mô hai nước, mô hình thương mại luôn đúng. Với hai
loại hàng hoá, mô hình thương mại được quyết định bởi lợi thế so sánh
dựa trên đại lượng tương đối về lao động. Trong mô hình nhiều nước, có
sự xuất hiện của tiền, mô hình thương mại được quyết định bởi tiền


12

lương và chi phí lao động tương đối. Tuy nhiên, khi ba nước được đưa ra
xem xét, chuyên môn hoá trong mô hình không đúng.
Mục tiêu trao đổi chỉ xảy ra với hai nước có giá trị trước thương mại
chênh lệch lớn nhất. Ở đây, vai trò của nước trung gian không có câu trả
lời, việc tham gia thương mại của quốc gia đó phụ thuộc vào điều kiện
trao đổi quốc tế. Khi tỷ lệ trao đổi Thương mại Quốc tế được xác định, ta
sẽ biết được nước nào là nước trung gian. Và thương mại sẽ xảy ra chỉ
khi tỷ lệ trao đổi trên thế giới lớn hơn hoặc nhỏ hơn tỷ lệ giá trao đổi nội
địa.
1.1.2.5.

Sự biến mất của lý thuyết cổ điển
Cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần 2 đã làm thay đổi căn bản bộ

mặt thế giớ, hàng loạt phát minh mới ra đời trên tất cả mọi lĩnh vực, đặc
biết khoa học công nghệ thông tin đã cho ra đời nhiều phát minh mới, sản

phẩm, chất liệu mới. Nền kinh tế của thế giới cũng phát triển một cách
vượt bậc, sản xuất vật chất được đẩy mạnh và nhu cầu đặt ra là cần có
nguyên liệu và thị trường tiêu thụ đẩy mạnh sản phẩm.
Các quốc gia trên thế giới không ngừng liên kết − hợp tác để cùng
phát triển và vận dụng ngày càng nhiều công nghệ thông tin và sản xuất,
liên kết đã thành một “Thế giới phẳng”.
Học thuyết cổ điển về Lợi thế so sánh đã không còn phù hợp nữa.
Hiện nay kinh tế thế giới đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng,
đóng góp vào đó là các ngành sản xuất dựa trên sức mạnh của trí não, các
sản phẩm hiện đại sử dụng rất ít tài nguyên thiên nhiên. Với việc phát
minh ra các ngành dựa trên khoa học trong thế kỉ XX, việc tìm tòi, phát
minh ra các sản mới trở nên quan trọng. Những người phát minh ra sản
phẩm có thể có được thu nhập cao. Tuy nhiên việc phát triển nghệ thuật


13

bắt chước và các công ty đang áp dụng công nghệ của dòng công nghệ
sản phẩm mởi lưu chuyển kháp thế giới cũng nhanh dần bằng các dòng
vốn tài nguyên. Lợi ích thu được từ các công nghệ và sản phẩm mới
không còn nhất thiết sẽ thuộc về nơi đã phát minh ra các sản phẩm mà
phải có các tri thức và kĩ năng trong toàn bộ hệ thống để tổ chức sản xuất
với chi phí thấp và gắn kết được toàn bộ hệ thống.
Việc liên kết khu vực, liên kết nhóm quốc gia dẫn đến sự phụ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia, làm lu mờ đi lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên. Theo sự phát triển qua từng thời kì, lợi thế cạnh tranh giữa
các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Theo Porter –
nhà kinh tế học người Mỹ, những nguồn lực về các điều kiện sản xuất
vốn có (con người, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,…) là nhân tố cơ
bản, cũng là nhân tố đầu tiên để xem xét một quốc gia có lợi thế hay

không, và lợi thế như thế nào trên thế giới. Porter xếp những nhân tố này
vào loại lợi thế tĩnh – hay lợi thế cấp thấp, thực chất đây là lợi thế về chi
phí sản xuất. Trong giao lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng
nhiều nguyên liệu, lao động... có lợi thế là chi phí sản xuất thấp, hàng hoá
xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Đồng
thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp đầu tư (FDI) để sử dụng
các nguồn lực đó. Song các lợi thế này không tồn tại lâu dài do sự hạn
chế của tài nguyên, lao động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do
vậy, lợi thế này khó cạnh tranh nổi với những nước có lợi thế cấp cao
(vốn, lao động, trình độ khoa học kỹ thuật cao...) trong khu vực.
Hơn nữa, trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến
những nguồn lực cụ thể như: vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức
là những nguồn lực cụ thể có hình hài, cân đong đo đếm được, tính được
hệ số so sánh mà ta gọi đó là nguồn lực hữu hình. Bên cạnh đó còn có


14

nguồn lực vô hình, khó đo đếm (vị trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn
nhân lực trí tuệ) cần được đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng để có
biện pháp khai thác. Tuy vậy, các nguồn lực hữu hình có thể dự đoán
được kết quả nhưng nguồn lực vô hình thì khó dự đoán cụ thể. Bởi vì sức
mạnh nguồn lực vô hình có thể tăng nhanh và hiệu quả kinh tế lớn khi
khai thác, đôi khi có thể tăng đột biến. Vấn đề đặt ra là cần đầu tư đặc
biệt cho nguồn nhân lực, khai thác triệt để yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý
của đất nước.
1.1.3. Các phương pháp tính toán lợi thế so sánh
Có một số phương pháp xác định lợi thế so sánh và mỗi cách thức
xác định dựa vào một khía cạnh nhất định hoặc dựa vào các yếu tố hình
thành lợi thế so sánh.

Balassa và công thức xác định lợi thế so sánh hiện hữu RCA:
Công thức được sử dụng khá phổ biến trong việc xác định lợi thế so
sánh của từng mặt hàng cụ thể trong từng thời kỳ nhất định. Công thức
này là một trong công cụ được sử dụng để xây dựng cơ sở dữ liệu về lợi
thế so sánh của các thành viên trong Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO).
𝑅𝐶𝐴 = 100 ×

𝑋𝑖𝑗/𝑋𝑤𝑗
𝑋𝑖𝑡/𝑋𝑤𝑡

Trong đó:
RCA là chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu
của mặt hàng i của nước j trong một thời
kỳ nhất định.
Xij là kim ngạch xuất khẩu mặt hàng i
của nước j trong thời kỳ tương ứng.


15

w - thế giới.
t - tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế
giới.
Chỉ số này đưa ra cách xác định mức độ lợi thế so sánh từ quan
điểm cục bộ và cách nhìn có tính đơn lẻ mặc dù đã có bước tiến đáng kể
trong việc khắc phục viêc xem xét lợi thế so sánh chỉ từ góc độ nguồn
cung tạo ra lợi thế so sánh.
Chỉ số Balassa hay còn gọi là BalasaIndex được sử dụng phổ biến
trong việc xác định lợi thế so sánh đối với từng mặt hàng của một quốc

gia hoặc doanh nghiệp, ngành hàng đến từng thị trường cụ thể mà không
tính được cho cả một danh mục hay một gói hàng hoá và dịch vụ của một
quốc gia khi thực hiện giao dịch với từng đối tác cụ thể. Quan hệ thương
mại với từng đối tác trong nhiều trường hợp có ý nghĩa quyết định đến
trình độ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu sự phát triển thương mại
của các quốc gia mà chí số này chưa phản ánh được một cách triệt để và
toàn diện. Bên cạnh đó, chỉ số này phụ thuộc rất nhiều vào kim ngạch
xuất khẩu của một quốc gia, sự biến động của giá trị tiền tệ...và mức độ
biến động của nhu cầu thị trường nhập khẩu về mặt hàng.
1.2. MỘT

SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI

CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1.2.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình
quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (Per Capita Income,
PCI).


16

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay
tổng sản sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế
trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).
Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Products, GNP) là giá trị
tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi

công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập
ròng.
Thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho
dân số.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu
nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng
kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế và được xem xét
trên hai biểu hiện: đó là tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng
năm, hoặc bình quân trong một giai đoạn.
Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một
giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niện tốc độ tăng trưởng − sự tăng thêm
sản lượng nhanh hay châm so với thời điểm gốc.
1.2.2.

Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh

tế
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển
lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng
động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng bốn nhân tố của tăng
trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ.


17

Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng
cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.
 Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động tức là kỹ năng,
kiến thức và kỷ luật của đội ngũ lao động là yếu tố quan trọng nhất của

tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác như tư bản, nguyên vật liệu,
công nghệ đều có thể mua hoặc vay mượn được nhưng nguồn nhân lực
thì khó có thể làm điều tương tự. Các yếu tố như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy được tối đa
hiệu quả bởi đội ngũ lao động có trình độ văn hóa, có sức khỏe và kỷ luật
lao động tốt. Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng
những nước có nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và
phát triển kinh tế một cách ngoạn mục.
 Nguồn tài nguyên thiên nhiên: là một trong những yếu tố sản xuất
cổ điển, những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt
là dầu mỏ, rừng và nguồn nước. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan
trọng để phát triển kinh tế, có những nước được thiên nhiên ưu đãi một
trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao gần như hoàn
toàn dựa vào đó như Ả rập Xê út. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu mỏ là
ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú không quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật
Bản là một nước gần như không có tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ tập
trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản, công nghệ
cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô.
 Tư bản: là một trong những nhân tố sản xuất, tùy theo mức độ tư
bản mà người lao động được sử dụng những máy móc, thiết bị...nhiều
hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo ra sản lượng cao hay thấp.


18

Để có được tư bản, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy sinh tiêu dùng cho
tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài hạn, những
quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng trưởng

cao và bền vững. Tuy nhiên, tư bản không chỉ là máy móc, thiết bị do tư
nhân dầu tư cho sản xuất nó còn là tư bản cố định xã hội, những thứ tạo
tiền đề cho sản xuất và thương mại phát triển. Tư bản cố định xã hội
thường là những dự án quy mô lớn, gần như không thể chia nhỏ được và
nhiều khi có lợi suất tăng dần theo quy mô nên phải do chính phủ thực
hiện. Ví dụ: hạ tầng của sản xuất (đường giao thông, mạng lưới điện quốc
gia...), sức khỏe cộng đồng, thủy lợi....
 Công nghệ: trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế rõ
ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm
lao động và tư bản, ngược lại, nó là quá trình không ngừng thay đổi công
nghệ sản xuất. Công nghệ sản xuất cho phép cùng một lượng lao động và
tư bản có thể tạo ra sản lượng cao hơn, nghĩa là quá trình sản xuất có hiệu
quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... có những
bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy
nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên
cứu; công nghệ có phát triển và ứng dụng một cách nhanh chóng được là
nhờ "phần thưởng cho sự đổi mới" - sự duy trì cơ chế cho phép những
sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng.
1.2.3.

Các chỉ tiêu, công thức tính toán tăng trưởng

kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt
đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm trong một giai đoạn.


19


Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa
hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng công thức:
𝑦 =

𝑑𝑌
× 100(%)
𝑌

(Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y
là tốc độ tăng trưởng).

Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì
sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô
kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng
trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng
chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
Hạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm
thước đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở
thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân
đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ.
Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi
của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có
thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và
bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất
lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài
nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không
hiệu quả, lãng phí.

1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG LỢI THẾ SO SÁNH VÀO QUÁ TRÌNH
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ


20

Thực tiễn nghiên cứu cho thấy việc vận dụng lợi thế so sánh vào quá
trình tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đóng góp đáng
kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, cụ thể:


Đưa ra cái nhìn toàn cảnh về năng lực sản xuất cũng như

cạnh tranh của các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nước. Lượng hóa
cụ thể lợi thế so sánh,hiệu quả kinh tế xã hội và vị thế cạnh tranh của các
ngành trên thị trường thế giới. Từ đó đưa ra những quyết định, chính sách
nhằm:
 Tập trung phát triển, hoàn thiện những ngành, lĩnh
vực có lợi thế so sánh.
 Tìm ra điểm yếu của sản xuất trong nước, đưa ra các
biện pháp khắc phục và cải thiện năng lực sản xuất của doanh
nghiệp trong nước.


Lấy đó làm cơ sở để xây dựng,điều tiết phối hợp các chính

sách thương mại, tài chính và đầu tư quốc tế của Việt Nam sao cho hợp
lý, thuận lợi nhất cho sự giao dịch, lưu chuyển hàng hóa…



Tạo ra sự dịch chuyển lợi thế so sánh đúng quy luật, nhanh

chóng và hiệu quả nhất trong điều kiện có thể.


Có những định hướng, kế hoạch hữu hiệu để phát triển,thúc

đẩy hiệu quả xuât nhập khẩu trong thời gian tới.


Những ngành, sản phẩm có chi phí thấp, lợi thế so sánh và

khả năng cạnh tranh cao có cơ hội thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Qua
đây ta có thể tiếp tục nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm, tạo cơ hội
chuyển giao công nghệ,phát triển cơ sở hạ tầng.


21


Nam.

Nâng cao khả năng hội nhập kinh tế thế giới cho kinh tế Việt


22

CHƯƠNG II: THỰC TIỄN VẬN DỤNG LỢI THẾ SO SÁNH
THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG BỐI CẢNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC TỪ ĐỔI MỚI

ĐẾN NAY
2.1. LỢI THẾ SO SÁNH CỦA TRUNG QUỐC
2.1.1. Lợi thế nguồn lao động:
Với đất nước đông dân đứng đầu thế giới này, lợi thế về nguồn nhân
lực là tất yếu. Cộng với những chính sách đầu tư phát triển của nước này
từ sau cuộc cải cách giáo dục toàn diện và hệ thống năm 1980 cho đến
những thập niên gần đây, Trung Quốc đang tạo ra đội ngũ nhân lực
không những đông đảo mà có chất lượng cao, có trình độ, tay nghề.
2.1.2.

Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên:

Trung Quốc có tài nguyên khoáng sản phong phú, chiếm 12% tổng
lượng thế giới, đứng thứ 3 trên thế giới. Cho đến nay, Trung Quốc phát
hiện 171 loại khoáng sản, trong đó có 158 loại khoáng sản đã được khám
phá rõ trữ lượng(khoáng sản năng lượng 10 loại, khoáng sản kim loại
màu đen 5 loại, khoáng sản kim loại màu 41 loại, khoáng sản kim loại
quý 8 loại, khoáng sản phi kim loại 91 loại, khoáng sản dạng khí khác 3
loại. Trung Quốc đã trở thành một trong những ít nước có tổng lượng tài
nguyên khoáng sản phong phú, chủng loại mỏ tương đối đầy đủ và có
mức độ đồng bộ khá cao trên thế giới. Tính theo trữ lượng khám phá rõ,
25 loại khoáng sản trong 45 loại khoáng sản chủ yếu Trung Quốc đứng
ngôi thứ 3 trở lên trên thế giới, trong đó 12 loại khoáng sản như nguyên
tố đất hiếm, thạch cao, vanađi, titan, tantan, vonfram, graphit, sunfat natri
ngậm nước, barit, quặng magnesit, stibi,…đứng đầu thế giới.


23

2.1.3.


Lợi thế về vị trí địa lý:

Với diện tích 9.6 triệu km², CHNDTH là quốc gia lớn thứ ba hoặc
thứ tư thế giới về tổng diện tích và lớn thứ hai về diện tích đất. Đây là
quốc gia có địa hình đa dạng với với cao nguyên và sa mạc ở khu vực
phía bắc gần Mông Cổ và Siberi của Nga, rừng cận nhiệt đới ở miền nam
gần Việt Nam, Lào, Myanma. Địa hình ở phía tây gồ ghề với các dãy núi
cao Himalaya và Thiên Sơn hình thành biên giới tự nhiên với Ấn Độ và
các quốc gia thuộc khu vực Trung Á. Ngược lại, phía đông là vùng đồng
bằng thấp và có 14.500 km chiều dài bờ biển. Các biển tiếp giáp với
Trung Quốc là Bột Hải, Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Trung
Quốc có bờ biển phía Đông dài 9000km, mở rộng ra Thái Bình Dương,
rất thuận lợi cho việc giao lưu quốc tế của Trung Quốc và phát triển các
ngành kinh tế biển. Ngoài ra, Trung Quốc còn gần lãnh thổ các quốc gia
có nền kinh tế năng động như Nhật Bản, Hàn Quốc, khu vực
ASEAN...rất thuận lợi cho các mối quan hệ hợp tác, giao lưu kinh tế.
2.2.

Thực tiễn tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong

công cuộc hội nhập Kinh tế Quốc tế (từ sau chính sách Mở cửa
1978 đến nay):
2.2.1.

Bối cảnh thế giới (1978 - nay):

− Cách mạng Khoa học – Công nghệ vẫn đang trên đà phát triển

mạnh mẽ cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, cho ra đời nền kinh tế tri thức

tại Trung Quốc, theo đó, hoạt động R&D được chú trọng tăng cường từ
những năm 1990. Sự phát triển mạnh mẽ của Công nghệ thông tin (IT)
dẫn đến xu hướng phân bổ nguồn lực bên ngoài quốc gia, vùng lãnh thổ
(Out-soursing) ngày càng phát triển và trở thành xu thế chính trong


24

tương lai, và thị trường lao động đông dân đứng đầu thế giới này nghiễm
nhiên trở thành mục tiêu tuyển dụng của nhiều công ty lớn toàn thế giới.
− Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế giúp cho thương mại quốc tế, mậu

dịch tự do, dòng vốn FDI...ngày càng có điều kiện phát triển. Bên cạnh
đó, xu hướng tạo lập liên minh kinh tế, tổ chức, khối kinh tế…giúp
cường quốc này cải thiện được nhiều mối quan hệ với nhiều nước. Với
mục tiêu giảm mâu thuẫn, tăng hợp tác, các mối quan hệ Đài Loan –
Trung Quốc, Trung Quốc - ASEAN…mang lại cho nước này nhiều lợi
thế. Gia nhập WTO giúp Trung Quốc xóa bỏ nhiều hàng rào thuế quan,
giá trị xuất, nhập khẩu theo đó tăng lên nhanh chóng.
− Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 bắt đầu từ Thái

Lan, lan sang Philipin, Indonesia, Hàn Quốc, Nhật…rồi toàn Châu Á đặc
biệt là các nước Đông Bắc Á làm Trung Quốc phải xem xét, cải cách,
nâng cấp lại bộ máy quản lý tài chính. Và với những điều chỉnh đúng
đắn, Trung Quốc vực dậy nhanh chóng, để trở thành điểm sáng hi hữu
trong tình hình suy thoái toàn Châu Á, cho nước này cơ hội thu hút FDI
toàn thế giới, ngay cả của Nhật Bản.
2.2.2.

Con đường tăng trưởng kinh tế của Trung


Quốc vận dụng lợi thế so sánh


Chính phủ cam kết phát triển các ngành công nghiệp công

nghệ cao: công nghiệp ô tô, công nghiệp sản xuất thiết bị công nghệ
thông tin, viễn thông…Với lợi thế nhân công trình độ cao giá rẻ, các mặt
hàng điện tử của Trung Quốc được ưa chuộng, có giá cả rất cạnh tranh,
thị trường các loại mặt hàng này ngày càng được mở rộng.


Tận dụng sử bùng nổ công nghệ thông tin toàn cầu, Trung

Quốc phát triển mạnh ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp, gia công các


×