Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.41 KB, 120 trang )

M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Lời nói đầu
Trong những năm cuối của thế kỷ XX, nền kinh tế Trung Quốc trỗi dậy mạnh
mẽ, là hiện tượng nổi bật nhất, thu hút nhiều sự chú ý nhất ở khu vực Châu á - Thái
Bình Dương và trên toàn thế giới. Sau hơn 20 năm (1979-2003) thực hiện cải cách
mở cửa, bộ mặt kinh tế xã hội Trung Quốc đã biến đổi sâu sắc.Về nhiều mặt, Trung
Quốc đang chiếm những vị trí đáng kể trong nền kinh tế thế giới, đứng hàng đầu về
tốc độ tăng trưởng với một thực lực kinh tế không nhỏ. Đặc biệt là trong lĩnh vực
ngoại thương, trải qua gần một phần tư thế kỷ, ngoại thương Trung Quốc đã thu
được nhiều thành tựu rực rỡ: từ chỗ xếp hàng thứ 32 trên thế giới về xuất nhập
khẩu (năm 1978) đến nay Trung Quốc đã là cường quốc ngoại thương lớn thứ 5
trên thế giới với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 620,8 tỷ USD năm 2002
(tăng gấp 30 lần so với năm 1978). Hơn thế nữa, vị thế và ảnh hưởng của Trung
Quốc trong thương mại quốc tế ngày càng được nâng cao, ngoại thương Trung
Quốc đang đứng trước những cơ hội mới để phát triển tốt đẹp hơn, đặc biệt là sau
sự kiện Trung Quốc đã trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức thương mại thế
giới ngay vào năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên,
dân cư, chế độ chính trị xã hội và cả về kinh tế với Trung Quốc. Cũng giống như
Trung Quốc, Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, hướng tới việc xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Việt Nam tiến
hành mở cửa, đổi mới đất nước sau Trung Quốc 8 năm và cho đến nay thì những
thành tựu kinh tế, thành tựu phát triển ngoại thương vẫn còn là khiêm tốn so với
những thành quả to lớn của nước bạn và còn chưa xứng với tiềm năng của chính
Việt Nam. Vì vậy, để thành công hơn nữa trong công cuộc phát triển ngoại thương
Việt Nam thì việc tham khảo bài học kinh nghiệm của Trung Quốc là rất cần thiết.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  1
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Với lý do trên, em xin được mạnh dạn nghiên cứu vấn đề “Một số bài học


kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương của Trung Quốc và gợi ý đối với Việt
Nam”. Bản khóa luận này chủ yếu đi sâu vào phân tích các bài học kinh nghiệm
thành công cũng như chưa thành công trong phát triển ngoại thương của Trung
Quốc trong tiến trình mở cửa và cải cách kinh tế từ năm 1979 đến nay, để trên cơ
sở đó tham khảo một cách có phê phán và chọn lọc những kinh nghiệm có tính khả
thi, phù hợp với thực tiễn ngoại thương Việt Nam, đưa ra những gợi ý nhằm thúc
đẩy sự phát triển của ngoại thương đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Khóa luận được xây dựng dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phân
tích, phương pháp thống kê và so sánh.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục bản khóa
luận gồm có 3 chương:
Chương I: Tình hình ngoại thương Trung Quốc từ năm 1979 đến nay
Chương II: Một số bài học kinh nghiệm trong phát triển ngoại thương
của Trung Quốc
Chương III: Một số gợi ý đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam từ bài
học kinh nghiệm của Trung Quốc
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo – Tiến sỹ Vũ Thị Kim Oanh, người đã
tận tình hướng dẫn em trong việc hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em cũng
xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo, bạn bè, Thư viện trường Đại học
Ngoại thương, Viện kinh tế thế giới, Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp
đỡ, tạo điều kiện để khóa luận được hoàn thành.
Hà Nội, tháng 12/2003
Sinh viên thực hiện
Lê Thùy Dương
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  2
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  3
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ

Vi t Namệ
Chương I
tình hình hoạt động ngoại thương trung Quốc từ 1979 đến nay
I. Vài nét về đất nước Trung Quốc
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Trung Quốc là một đất nước có diện tích rộng lớn nằm ở nửa phía Bắc của Đông
bán cầu, phía Đông Nam của đại lục á-âu, phía Đông của Châu á và phía Tây Thái
Bình Dương, có đường biên giới đất liền dài khoảng 22.000 km tiếp giáp với 15 quốc
gia, có vùng biển rộng lớn với tuyến bờ biển dài và rất nhiều đảo, đường biên giới trên
biển dài khoảng 18.000 km. Diện tích Trung Quốc là 960 vạn km
2
, là nước lớn nhất
Châu á, thứ 3 trên thế giới về diện tích lãnh thổ [22].
Với vị trí địa lý rất thuận lợi cùng với diện tích đất đai rộng lớn đã tạo ra cho
Trung Quốc những điều kiện dễ dàng phát triển mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan
hệ mậu dịch với các nước và khu vực lớn ở Châu Âu, Châu Mỹ cũng như Đông Nam
á, Australia và Trung á.
Địa hình Trung Quốc rất đa dạng bao gồm đồng bằng, gò đồi, cao nguyên, bồn
địa, sơn địa, hoang mạc, sa mạc xen kẽ nhau, chủ yếu là địa hình đồi núi, chiếm 70%
diện tích đất đai trong đó gần 1/3 ở độ cao trên 300m, diện tích đất trồng trọt chỉ
khoảng 100 triệu ha, độ phì nhiêu khá cao.
Điều kiện khí hậu rất ưu việt nhưng tương đối khác nhau giữa các vùng, trải rộng
từ Nam tới Bắc là các vùng khí hậu khác nhau: vượt nhiệt đới, nhiệt đới, á nhiệt đới,
noãn ôn đới, hàn nhiệt đới. Lượng mưa dồi dào, bình quân hàng năm ở Trung Quốc là
629mm. Điều kiện nhiệt độ và lượng nước phân phối hợp lý tạo ra điều kiện cho việc
phát triển nông nghiệp, như nghề trồng lúa, trồng bông, các loại hoa quả và nghề cá.
Trung Quốc là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú, trong
đó lượng tài nguyên nước đứng thứ nhất thế giới. Nguồn tài nguyên năng lượng cũng
rất lớn, trữ lượng than thăm dò được là 700 tỷ tấn, đứng thứ nhất thế giới. Sản lượng
dầu thô đứng thứ năm thế giới. Tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc tương đối toàn

diện và đồng bộ, 150 loại khoáng sản được sử dụng trên thế giới đều được phát hiện ở
Trung Quốc, trong đó trữ lượng thăm dò được của hơn 20 loại như: than, vonfram,
sitilium, đồng, chì, kẽm, vanađium, titan... đứng hàng đầu thế giới. Rừng của Trung
Quốc cũng đứng đầu thế giới về chủng loại gỗ với hơn 2500 loại trong đó có 500 loại
cây quý hiếm và 50 loại cây đặc chủng cùng nhiều loại động vật quý hiếm [22].
2. Dân cư
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  4
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Trung Quốc là nước có dân số lớn nhất thế giới, dân số Trung Quốc tính đến cuối
năm 2002 có 1.284.530.000 người [22]. Trung Quốc là một trong những quốc gia có
mật độ dân cư cao nhất và phân bố không đồng đều; mật độ trung bình là 125
người/km
2
; dao động từ 1,5 người ở vùng tự trị Tây Tạng đến 400-500 người/km
2

các vùng đồng bằng phía Đông, nhiều nơi lên đến 1000-1500 người/km
2
như ở vùng
Bắc và Đông Bắc [7].
Tiềm năng về nguồn nhân lực của Trung Quốc là rất lớn và lâu dài. Số người
trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 61% tổng dân số, trong số này có 60% là lao
động nông nghiệp. Năm 1990, Trung Quốc có lực lượng lao động là 756, 6 triệu người
(từ 15-64 tuổi). Theo tính toán, trung bình mỗi năm Trung Quốc có thêm 21 triệu
người bước vào độ tuổi lao động [7].Nguồn nhân lực dồi dào này cùng với truyền
thống lao động cần cù, sáng tạo và công tác giáo dục ở đây rất được coi trọng nên chất
lượng lao động ngày càng tăng lên. Đó là tài sản vô giá và là nhân tố quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước này.
3. Đặc điểm chính trị - xã hội

Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày 01/10/1949.
Sau khi nước CHND Trung Hoa thành lập, Đảng cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo
Cách mạng Trung Quốc đi vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế đất nước. Trong
giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng kinh tế đất nước, do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan, Trung Quốc đã có nhiều va vấp, thất bại.
Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 Đảng cộng sản Trung Quốc (1978) đã đề ra
đường lối cải cách mở cửa “Một trung tâm, hai điểm cơ bản” (xây dựng kinh tế là
trung tâm, 2 điểm cơ bản là kiên trì cải cách mở cửa và kiên trì 4 nguyên tắc: Con
đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự lãnh đạo của Đảng, tư
tưởng Mao Trạch Đông). Đặng Tiểu Bình đã đưa ra lý luận “Xây dựng xã hội chủ
nghĩa mang màu sắc Trung Quốc” với nội dung cơ bản là “Giải phóng tư tưởng, thực
sự cầu thị” tức là đi theo chủ nghĩa Mác nhưng phải xuất phát từ thực tế Trung Quốc.
Từ đó đến nay, Trung Quốc luôn luôn kiên trì công cuộc cải cách mở cửa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, đưa đất nước chuyển sang một thời đại
mới.
Nhìn chung, tình hình chính trị-xã hội Trung Quốc trong những năm gần đây ổn
định, tuy trong nước và quốc tế có nhiều biến động nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc
vẫn giữ vững được quyền lãnh đạo. Nội bộ ban lãnh đạo đã quán triệt quan điểm xuất
phát từ đại cục, tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, về chính
trị-xã hội, Trung Quốc cũng còn nổi cộm 2 vấn đề lớn, đó là: 1- Tệ tham nhũng, buôn
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  5
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
lậu, vấn đề việc làm, chênh lệch giàu nghèo; 2- Trung Quốc đang bước vào giai đoạn
quyết định của cải cách, thời kỳ then chốt của phát triển , có những biến đổi sâu sắc,
đan xen về thành phần kinh tế, lợi ích kinh tế, lối sống, hình thức tổ chức xã hội ... đặc
biệt là sự thay đổi về kết cấu giai tầng, tỷ lệ nòng cốt (giai cấp công nhân và nông dân)
trong Đảng cộng sản Trung Quốc cũng đã thay đổi, đòi hỏi phải đổi mới công tác
chính trị tư tưởng và công tác xây dựng Đảng.
4. Kinh tế Trung Quốc sau hơn 20 năm cải cách mở cửa

* Về tăng trưởng kinh tế
Từ năm 1978, khi bắt đầu cải cách, Trung Quốc đi vào con đường hội nhập với
thế giới và khu vực và đã thu được thành công đáng kể.
Trước cải cách, từ 1952 đến 1978, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của
kinh tế Trung Quốc là 4,4%, thấp hơn bình quân hàng năm của thế giới (4,52%) [15].
Từ năm 1978 đến nay, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của Trung Quốc là
7,6%, cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới. Giai đoạn 1992-1997, kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng ngoạn mục hơn nữa với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
đạt 11%/ năm. Trong đó, GDP Trung Quốc năm 1996 lớn hơn GDP của ASEAN
khoảng 15%, bằng 3% GDP của thế giới, 23% kinh tế Nhật, 12% kinh tế Mỹ [22].
Nhiều nhà quan sát xem sự tăng trưởng này là thần kỳ, đặc biệt là khi so sánh với các
nước xã hội chủ nghĩa cũ trong lúc các này trải qua sự suy thoái kinh tế trầm trọng
trong suốt giai đoạn từ đầu đến giữa thập niên 90. Trong những năm 1997-1999, do
tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, nền kinh tế Trung Quốc cũng chững
lại, và có dấu hiệu suy giảm. Tuy nhiên, ngay sau đó Trung Quốc đã lấy lại được xu
thế tăng trưởng.
Năm 2000 là năm cuối của kế hoạch năm năm phát triển kinh tế xã hội lần thứ
chín ( 1996-2000), cũng là năm đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong nền
kinh tế Trung Quốc. Với những cố gắng gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO),
tái cơ cấu nền kinh tế, tập trung cải cách xí nghiệp quốc doanh, thúc đẩy phát triển
khoa học công nghệ, cải cách cơ bản về nông nghiệp và mở rộng nhu cầu nội địa,
Trung Quốc đã đảo ngược xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế kéo dài liên
tục trong 3 năm qua. Năm 2000, với GDP đạt 8.928 tỷ NDT - tương đương 1.072 tỷ
USD, với mức tăng GDP là 8,3% (theo Cục thống kê quốc gia) [33], theo số liệu của
IMF con số này là 7,5%, GDP bình quân đầu người đạt 850 USD, Trung Quốc đã
hoàn thành vượt mức kế hoạch tăng gấp 4 lần GDP bình quân đầu người của năm
1980 (200 USD). Với kết quả này, Trung Quốc đã lần đầu tiên đặt chân vào hàng ngũ
các quốc gia có GDP trên 1000 tỷ USD [34].
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  6
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ

Vi t Namệ
Bước sang thế kỷ 21, năm 2001 được đánh dấu bằng sự kiện lớn, việc Trung
Quốc chính thức trở thành thành viên thứ 143 của WTO (vào ngày 11 tháng 11) sau 15
năm nỗ lực và cố gắng là một bước tiến lớn của nền kinh tế Trung Quốc theo hướng
nhất thể hoá kinh tế toàn cầu. Sự kiện này cũng đã mở ra những cơ hội và thách thức
mới đối với nền kinh tế Trung Quốc. Trong bức tranh ảm đạm của nền kinh tế thế giới
2001, mặc dù tăng trưởng xuất khẩu chững lại do bị ảnh hưởng của sự suy giảm kinh
tế Mỹ, Nhật Bản và thế giới song Trung Quốc vẫn duy trì được mục tiêu tăng trưởng.
Theo đánh giá của IMF, năm 2001, GDP của Trung Quốc đạt 9593,3 NDT tương
đương khoảng 1100 tỷ USD, tăng 7,3%, thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra (7,5%).
Năm 2002, GDP của Trung Quốc lần đầu tiên phá mốc 10 nghìn tỷ NDT, đạt
10.239,8 tỷ NDT tương đương 1278 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng là 8% [36].
Nhìn chung, trong nhiều năm gần đây Trung Quốc là nước có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao nhất thế giới và trong vòng 10 năm tới Trung Quốc có thể vẫn giữ
được tốc độ tăng trưởng này.
Bảng 1: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc và thế giới
Năm Trung Quốc Thế giới
1999 7,1% 2,8%
2000 7,5% 4,7%
2001 7,3% 2,2%
2002 8,0% 2,8%
2003(dự đoán) 8,6% 3,4%
Nguồn: Đánh giá của IMF và WB, Kinh tế Việt Nam & Thế giới các số 2000-2001, 2001-
2002,2002-2003 ( Chuyên san ra hằng năm của Thời báo Kinh tế Việt Nam)
Tăng trưởng kinh tế nhanh kéo theo thu nhập bình quân đầu người dân Trung
Quốc tăng lên đáng kể. Từ năm 1978 đến năm 2000, thu nhập thực tế của dân cư đô
thị tăng bình quân 6%/ năm, và thu nhập thực tế của dân cư nông thôn tăng với mức
bình quân 8%/ năm. Năm 2001, con số này lần lượt là 8,5% và 4,2%. Năm 2002, con
số tương ứng là 13,4% và 4,8%.Thu nhập của nông dân tăng đã làm số dân nghèo theo
thống kê chính thức giảm mạnh từ mức 33% vào năm 1978 xuống còn 4% vào năm

1997 và 3% vào năm 2001 [22].
* Về công nghiệp
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 15, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đưa
ra mục tiêu “biến Trung Quốc thành nước có tỷ lệ lớn dân phi nông nghiệp, có nền
công nghiệp hiện đại và dịch vụ hiện đại”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 16
vào tháng 11/2002, nội dung: “Thúc đẩy nâng cấp ưu hoá cơ cấu ngành nghề, hình
thành lên cơ cấu ngành nghề: lấy ngành nghề khoa học kỹ thuật cao, mới đi đầu,
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  7
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
ngành nghề cơ sở và chế tạo làm hỗ trợ…” cũng không nằm ngoài mục tiêu xây dựng
một nền kinh tế, trong đó có ngành công nghiệp hiện đại. Trong mấy thập kỷ tiến hành
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá, cho tới nay, có thể thấy mục tiêu của các kỳ đại hội
đang từng bước được thực hiện. Trong vòng 20 năm từ 1978-1997, tốc độ tăng trưởng
bình quân của công nghiệp Trung Quốc là 12%, giá trị sản lượng của các xí nghiệp
công nghiệp từ cấp xã trở lên tăng gấp 14 lần [7]. Năm 2000, Trung Quốc đạt sản
lượng 163 triệu tấn dầu thô, 131 triệu tấn quặng sắt, 1000 triệu tấn than, 128,5 triệu
tấn thép thô, 1355,6 tỷ kwh điện [22]. Đến năm 2001, sản lượng các ngành công
nghiệp này đều tăng lên mức 165 triệu tấn dầu thô, 145,4 triệu tấn quặng sắt, 1110
triệu tấn than, 152,66 triệu tấn thép thô và 1478 tỷ kwh điện [37]. Năm 2002, giá trị
gia tăng của công nghiệp cả năm đạt 4593,5 tỷ NDT, tăng 10,2% so với 2001; giá trị
sản phẩm mới cả năm tăng 24% so với 2001; tổng lượng phát điện cả năm đạt 1654 tỷ
Kwh, tăng 11,7% so với năm 2001; sản lượng than đạt 1380 triệu tấn,tăng 18,9%; sản
lượng dầu thô đạt 167 triệu tấn, tăng 1,8% [21].
Cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc cũng có nhiều thay đổi theo hướng tăng
cường phát triển các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao như điện tử, vi tính, ô tô,
công nghệ viễn thông…
Vào giai đoạn chuyển giao thế kỷ, Trung Quốc đã trở thành trung tâm sản xuất
hàng công nghiệp của thế giới, từ các ngành có hàm lượng lao động cao như dệt may,
giày dép đến các ngành dùng nhiều tư bản và công nghệ cao. Thực tế, Trung Quốc đã

trở thành nước có sản lượng công nghiệp lớn thứ 4 trên thế giới, chỉ sau có Mỹ,
Nhật Bản và Đức.
Hiện nay, Trung Quốc đã chiếm trên 20% sản lượng thế giới trong các ngành đồ
điện gia dụng cao cấp như đầu máy video, DVD, máy điều hoà không khí, tivi màu…
Trong ngành điện thoại di động và máy tính cá nhân, Trung Quốc cũng sản xuất trên
10% sản lượng thế giới [25].
* Về nông nghiệp
Với dân số 1,3 tỷ người - đông nhất trên thế giới - vấn đề lương thực luôn luôn
đứng ở vị trí được coi trọng hàng đầu đối với người dân Trung Quốc. Cuộc cải cách
do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo, bên cạnh chủ trương thúc đẩy phát triển công nghiệp,
dịch vụ, cũng hết sức quan tâm chú trọng tới phát triển nông nghiệp, từng bước hiện
đại hóa ngành nông nghiệp. Từ một đất nước nghèo đói, lượng lương thực thực phẩm
trong nước không đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước, phải thường xuyên nhập khẩu
lương thực thực phẩm với khối lượng lớn, sau hơn 20 năm, bộ mặt nông nghiệp
Trung Quốc đã có nhiều thay đổi đáng kể. Tổng giá trị sản lượng nông lâm ngư nghiệp
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  8
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
và chăn nuôi của Trung Quốc năm 1997, sau khi trừ đi nhân tố giá cả, tăng 3,4 lần so
với 1978, bình quân mỗi năm tăng 6,6%. Năm 1997, Trung Quốc đã vươn lên đứng
đầu thế giới về sản lượng nhiều loại sản phẩm như ngũ cốc (444 triệu tấn), bông (4,6
triệu tấn), hạt có dầu (9,6 triệu tấn), thịt (41,2 triệu tấn) [7]. Trong năm 2000, sản
lượng lương thực Trung Quốc đạt 500 triệu tấn [22]. Năm 2002, GDP nông nghiệp là
1488,3 tỷ NDT, tổng sản lượng lương thực cả năm đạt 457,11 triệu tấn, sản lượng thịt
đạt 65,90 triệu tấn. Nền nông nghiệp không chỉ đảm bảo nhu cầu trong nước mà còn
đáp ứng cho xuất khẩu với khối lượng khá lớn [21].
* Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Liên tục trong các năm gần đây, các nhà đầu tư coi Trung Quốc là một địa chỉ
đầu tư hấp dẫn nhất Châu á và thực tế là từ năm 1993-2001, Trung Quốc luôn đứng
thứ 2 trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, là nước nhận vốn đầu tư lớn

nhất trong số các nước đang phát triển. Những cải cách môi trường đầu tư đã đưa lại
những kết quả tốt đẹp cho hoạt động đầu tư của Trung Quốc, biểu hiện cụ thể trong số
liệu đầu tư ngày càng tăng lên. Từ 1979-1997, Trung Quốc đã thu hút đầu tư nước
ngoài đạt 348,35 tỷ USD, trong đó 63% là đầu tư trực tiếp, đạt trên 220 tỷ USD từ hơn
100 nước và đầu tư vào trên 20 ngành nghề. Trong giai đoạn 1997-2002, đầu tư trực
tiếp nước ngoài tăng nhanh, trong 5 năm đạt 226 tỷ USD, hơn cả giai đoạn 1979-1997
[29]. Đặc biệt, năm 2002, một năm sau khi gia nhập WTO với ảnh hưởng tích cực của
sự kiện này, Trung Quốc lần đầu tiên vượt Mỹ trở thành quốc gia thu hút được FDI
lớn nhất thế giới, với tổng vốn FDI thực tế là 52,7 tỷ USD [21]. Nguồn vốn FDI đang
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế ở đất nước này.
* Về du lịch
Nói đến kinh tế Trung Quốc, không thể bỏ qua du lịch - “ngành công nghiệp
không khói” của đất nước này. Mỗi năm, Trung Quốc thu hàng tỷ USD với hàng chục
triệu lượt người đến tham quan. Năm 1995, số khách du lịch là 46,39 triệu lượt người,
doanh thu đạt 8,7 tỷ USD. Năm 2000, con số này là 698 triệu lượt người, tăng 50 triệu
lượt người so với năm 1999. Riêng năm 2001, tổng doanh thu ngành du lịch đạt
khoảng 59 tỷ USD (496 tỷ NDT), tăng 9,76% so với năm 2000 [22]. Năm 2002, số
người du lịch trong nước cả năm đạt 877,82 triệu lượt người, thu nhập du lịch trong
nước đạt 387,8 tỷ NDT, tăng 10,1%; thu nhập ngoại tệ du lịch quốc tế đạt 20,4 tỷ
USD, tăng 14,6% [21].
Qua hơn 20 năm cải cách, đất nước Trung Quốc đã trải qua nhiều thăng trầm,
chuyển biến, nền kinh tế Trung Quốc vừa phải đối mặt với những khó khăn, thách
thức nhưng cũng gặt hái được rất nhiều thành tựu. Sự phát triển kỳ diệu của Trung
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  9
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Quốc là nhờ đâu nếu không phải từ sự nỗ lực hết mình của người dân Trung Quốc
trong công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu đưa Trung Quốc từng bước hội nhập
với kinh tế thế giới, từng bước trở thành một cường quốc kinh tế lớn mạnh. Chắc chắn
rằng trong những năm tới đây, Trung Quốc sẽ vẫn còn tiếp tục phát triển, nền kinh tế

sẽ ngày càng hội nhập, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế thế giới.
Nền kinh tế Trung Quốc trong hơn 20 năm qua phát triển rất sôi động, nhưng
đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương thì những chuyển biến lại càng diễn ra nhanh
hơn, mạnh hơn. Có thể nói ngoại thương là “đầu tàu” trong phát triển kinh tế Trung
Quốc trong giai đoạn cải cách mở cửa hiện nay. Trong lĩnh vực này, Trung Quốc đã
có những bước tiến thành công, gặt hái nhiều thành tựu. Tuy nhiên để làm được điều
đó thì ngoại thương Trung Quốc đã phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm mới dần dần đi vào đúng quỹ đạo phát triển.
II. Cải cách hoạt động ngoại thương Trung Quốc qua các giai
đoạn
* Sự cần thiết phải cải cách mở cửa ngoại thương Trung Quốc
Trước khi thực hiện cải cách mở cửa nền kinh tế vào cuối năm 1978, Trung Quốc
đã có những quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới nhưng quy mô nhỏ, phạm vi
hẹp. Các quan hệ đã chỉ dừng lại ở một nền ngoại thương kém phát triển và một ít viện
trợ nhằm mục tiêu chính trị. Những hoạt động thông thường như vay nợ, nhận đầu tư
từ nước ngoài, tổ chức du lịch...đều không đáng kể. Chính sách bế quan tỏa cảng vốn
có trong lịch sử vẫn là xu thế cơ bản trong các quan hệ kinh tế đối ngoại của Trung
Quốc. Điều này khiến cho Trung Quốc không tận dụng được những thành quả khoa
học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Nó cũng khiến cho mọi nhân tố tiềm tàng nội tại
của đất nước không được đánh thức dậy. Nền kinh tế bị kìm hãm làm cho khoảng cách
kinh tế của Trung Quốc với các nước phát triển trên thế giới ngày càng xa. Tình hình
kinh tế trong nước những năm 70 đòi hỏi các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải tiến hành
thay đổi chính sách này. Đặng Tiểu Bình khi tổng kết bài học kinh nghiệm trong lịch
sử Trung Quốc đã cho rằng: “Một nhân tố quan trọng khiến Trung Quốc chìm đắm
trong tình trạng lạc hậu và trì trệ là đóng cửa tự bao vây. Kinh nghiệm cho thấy, đóng
cửa tự bao vây, đóng cửa để tự xây dựng thì không thể thành công được, sự phát triển
của Trung Quốc không thể tách rời với thế giới được” [13].
Người Trung Quốc cũng đã thấm thía cái giá quá đắt của chính sách “tự lực cánh
sinh, độc lập tự chủ” cực đoan và phiến diện, thấy rõ tính tất yếu của xu thế hội nhập
và phân công lao động mới trong nền kinh tế thế giới và khu vực mà Trung Quốc

không thể dứng ngoài.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  10
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Không chỉ thực trạng kinh tế yếu kém của đất nước đòi hỏi phải cải cách mở cửa
mà tình hình thế giới vào cuối thập kỷ 70 cũng tạo điều kiện cho sự thay đổi sâu sắc và
toàn diện diễn ra ở Trung Quốc. Đặc biệt vào cuối thập kỷ 70, xu thế đa phương hóa
và chuyên môn hóa, quốc gia hóa trong nền kinh tế thế giới trở nên vô cùng sôi động,
làm cho mối quan hệ giao lưu trao đổi và mậu dịch quốc tế ngày càng được mở rộng
và phát triển mạnh mẽ. Đứng trước tình hình này, hoạt động ngoại thương chủ yếu dựa
vào quyền lực của thể chế kinh tế truyền thống tập trung, tự cấp tự túc, bế quan tự thủ
của Trung Quốc đã trở nên lạc hậu và kém hiệu quả, không thể phù hợp với xu thế mở
rộng quan hệ đối ngoại, hòa nhập kinh tế, tăng cường mậu dịch và hợp tác trên đà phát
triển sôi động trong các nước trên thế giới.
Bên cạnh đó, những thách thức của những tiến bộ khoa học kỹ thuật như vũ bão
và cuộc cách mạng ngành nghề mới trên phạm vi toàn cầu, của phát triển giao lưu và
quốc tế hóa kinh tế cao độ cũng buộc Trung Quốc phải tự xét lại mình, tự đổi mới, tiếp
thu thành quả khoa học kỹ thuật hiện đại, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là khoa học kỹ thuật trở thành sức sản xuất trực
tiếp, trí tuệ đóng vai trò trọng tâm tạo ra những hiệu quả kinh tế gấp nhiều lần trước
kia. Con người không những tác động đến đối tượng sản xuất mà còn có khả năng tạo
ra cả đối tượng sản xuất, những năng lượng mới, những vật liệu mới. Công nghệ mới,
lao động chất xám đã làm cho năng suất lao động phát triển lên đến mức vô cùng to
lớn, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa sản xuất. Nền kinh tế quốc gia đã vượt ra
ngoài phạm vi một nước để tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là xu thế
phát triển của thế giới.
Sự phát triển với tốc độ cao của một số nước Châu á-Thái Bình Dương cũng là
một sức ép góp phần thúc đẩy Trung Quốc mở cửa. Tất cả các nước NICs và các nước
ASEAN do nhận thấy xu thế toàn cầu hóa của nền sản xuất, cho nên đã điều hướng
sản xuất của mình chuyển từ chỗ thay thế nhập khẩu sang chỗ hướng về xuất khẩu,

tham gia mạnh mẽ vào nền thương mại thế giới. Rõ ràng là họ đã trước sau thoát khỏi
tình trạng đóng cửa, vươn mạnh ra bên ngoài, khắc phục tư tưởng sợ phụ thuộc vào
nước ngoài, Chính điều này đã làm cho các nước này có tốc độ tăng trưởng đáng ngạc
nhiên, đặc biệt là Nam Triều Tiên có tốc độ tăng trưởng về xuất khẩu trong những
năm 60 và 70 là 35% và 27%, trong khi đó thì thương mại thế giới chỉ tăng tương ứng
có 9% và 7%. Vào những năm 70 tỷ lệ xuất nhập khẩu đối với GDP của Nam Triều
Tiên và Đài Loan là 34% và 50% [15].
Tình hình này buộc Trung Quốc phải xem lại mình và buộc Trung Quốc phải cải
cách ngoại thương nếu không muốn tụt hậu hơn nữa so với các nước trong khu vực.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  11
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Do đó vấn đề cấp thiết và tiên quyết của Trung Quốc trong chiến lược phát triển ngoại
thương là phải tăng cường khôi phục và thúc đẩy toàn bộ hệ thống mậu dịch đối ngoại
phát triển sống động, tạo điều kiện cho sản xuất, xuất khẩu hàng hóa và nhập khẩu
thiết bị và kỹ thuật tiên tiến của thế giới, góp phần đưa nền kinh tế quốc dân phát triển
nhanh chóng.
Trung Quốc đã tiến hành cải cách ngoại thương nhằm tiến tới thiết lập một hệ
thống thương mại tự do phù hợp với nền kinh tế mở cửa và hòa nhập vào xu thế chung
của nền kinh tế thế giới. Quá trình cải cách này có thể chia làm các giai đoạn chính
như sau:
1. Giai đoạn 1979-1987 (giai đoạn tìm tòi thử nghiệm)
Là chặng đường đầu tiên của mở cửa cải cách nên cách thức thực hiện còn nhiều
bỡ ngỡ, tuy nhiên có thể tập trung vào các chính sách chính sau:
- Mở rộng quyền giao dịch của các chính quyền địa phương, các bộ và các doanh
nghiệp. Cải cách trong giai đoạn này bao gồm việc thực hiện chế độ khoán ngoại
thương theo khu vực và phân bổ thẩm quyền phê chuẩn đăng ký kinh doanh của các
doanh nghiệp cho các tỉnh, thành phố và các khu tự trị.
- Cải cách chế độ kế hoạch hóa trong xuất nhập khẩu, bao gồm từng bước giảm
đáng kể số lượng hàng hóa theo kế hoạch mệnh lệnh, và giảm đáng kể số lượng hàng

hoá xuất nhập khẩu do Chính phủ trực tiếp quản lý. Năm 1985, các Bộ trực thuộc
Chính phủ trung ương đã bắt đầu ngừng ra các mệnh lệnh đối với mua và phân phối
hàng hóa xuất khẩu.
- Điều chỉnh chế độ tài chính trong ngoại thương. Các khoản tài chính của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp sản xuất kiêm xuất nhập khẩu trực
thuộc các Bộ được tổng hợp lại trong tài chính của Chính phủ trung ương. Các doanh
nghiệp lớn có quyền kinh doanh xuất nhập khẩu được kiểm toán một cách độc lập.
Các chính quyền địa phương về mặt nguyên tắc có trách nhiệm với mọi khoản lỗ lãi
trong các hoạt động xuất nhập khẩu mà họ tham gia.
- Cải cách chế độ hoạt động ngoại thương, bao gồm chuyển từ chế độ kinh doanh
một kênh sang chế độ kinh doanh nhiều kênh, chuyển từ chế độ kinh doanh một chức
năng sang chế độ sản xuất kiêm kinh doanh xuất nhập khẩu, cho phép các doanh
nghiệp tham gia vào ngoại thương kinh doanh xuất nhập khẩu một cách độc lập và áp
dụng chế độ đại lý đối với một số loại hàng hóa.
- Thực hiện chế độ giữ lại ngoại hối. Để khuyến khích các chính quyền địa
phương, các bộ và các doanh nghiệp tham gia vào xuất nhập khẩu một cách tích cực,
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  12
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
chế độ giữ lại ngoại hối được áp dụng năm 1979. Nói cách khác, trên cơ sở Nhà nước
thống nhất quản lý ngoại hối và đảm bảo cho những nhu cầu quan trọng của các dự án
quan trọng, các doanh nghiệp có quyền giữ lại một phần ngoại tệ mà họ kiếm được và
có quyền tự quyết đối với việc sử dụng số ngoại tệ này. Họ có thể tham gia vào thị
trường ngoại hối và có thể bán số ngoại hối không sử dụng cho các doanh nghiệp cần
mua.
Với những cải cách bước đầu trong hoạt động ngoại thương, từ sau năm 1978, hoạt
động ngoại thương của Trung Quốc diễn ra khá sôi động. Kim ngạch ngoại thương năm
1979 mới chỉ đạt 29,33 tỷ USD thì đến năm 1987 đã đạt 82,652 tỷ USD nghĩa là tăng 2,8
lần so với năm 1979. Trong thời gian này, ngoại thương Trung Quốc phát triển với tốc độ
trung bình là 14,2% một năm, đưa Trung Quốc từ chỗ xếp thứ 28 trên thế giới về tổng khối

lượng buôn bán lên vị trí thứ 12, về xuất khẩu từ thứ 32 lên thứ 14, về nhập khẩu từ thứ 27
lên thứ 11. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD từ 20 chủng loại tăng
lên tới 48 chủng loại. Thị trường ngoại thương quốc tế cũng được mở mang mọi mặt từ chỗ
có quan hệ ngoại thương với trên 140 nước trong năm 1979 lên 180 nước và khu vực vào
năm 1987 [23].
2. Giai đoạn 1988-1990 (giai đoạn quá độ chuyển sang cải cách chiều
sâu)
- Trọng tâm của giai đoạn này là tăng cường chế độ khoán ngoại thương. Chính
phủ đã bắt đầu áp dụng chế độ này vào năm 1988. Trong phạm vi chế độ này, các
chính quyền địa phương ký kết hợp đồng với Chính phủ về số lượng ngoại hối mà họ
cam kết sẽ thu được, số lượng ngoại hối họ sẽ giao nộp cho Chính phủ và những lợi
ích kinh tế mà họ cố gắng đảm bảo. Những hợp đồng này vẫn không thay đổi từ năm
1988- 1990. Sau đó, các chính quyền địa phương lại ký hợp đồng với các doanh
nghiệp kinh doanh địa phương và thực hiện các mục tiêu ngoại thương của mình theo
quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chế độ này, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tự chịu trách nhiệm
về các khoản lỗ lãi của chính mình. Trách nhiệm này trước hết được áp dụng tại các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong ngành công nghiệp nhẹ, mỹ nghệ và may mặc. Các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất và các chính quyền địa
phương giữ lại một phần lớn các khoản thu ngoại tệ, còn một phần nhỏ được giao nộp
cho Chính phủ. Tuy nhiên, để đổi lấy tỷ lệ giữ lại lớn, họ phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm về các khoản lỗ lãi của mình. Với chế độ khoán ngoại thương, chế độ kế hoạch
hóa ngoại thương cũng được cải thiện thêm một bước. Trừ 21 loại hàng hóa xuất khẩu
vẫn nằm dưới chế độ quản lý thống nhất và vẫn theo chế độ xuất khẩu hai kênh, tất cả
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  13
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
các loại hàng hóa đã được chuyển từ chế độ hai kênh sang chế độ một kênh duy nhất.
Điều này có nghĩa là các chính quyền địa phương sẽ ký hợp đồng trực tiếp với Chính
phủ. Một khi chế độ này được thực hiện thì chế độ tài chính trong ngoại thương cũng

được cải cách theo. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ký hợp đồng trực tiếp với Nhà
nước về các chỉ tiêu lợi ích kinh tế nhất định, và theo thông lệ quốc tế, Nhà nước đã
thực hiện đầy đủ các ưu đãi về thuế xuất khẩu. Ngân sách của các chi nhánh địa
phương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được gắn với các ngân sách của các
chính quyền địa phương và tách ra khỏi ngân sách của Chính phủ trung ương.
- Chế độ quản lý ngoại thương đã được tiếp tục cải cách dưới hệ thống mới này
nhằm xác định lại quyền quản lý các hoạt động thương mại. Từ tháng 10/1988, chức
năng của Bộ ngoại thương cũng đã được đổi mới: ngoài việc nghiên cứu xác định
chiến lược phát triển ngoại thương, quản lý giấy phép, hạn ngạch xuất nhập khẩu, còn
chịu trách nhiệm kế toán ngoại hối, tăng cường giám sát quản lý công tác thống kê, chỉ
đạo công tác kinh doanh và kế toán tài vụ của các xí nghiệp ngoại thương, tham gia
điều tiết mức thuế và cân đối công tác ngoại thương giữa các khu vực.
- Việc thi hành hệ thống hợp đồng trách nhiệm theo hướng cân đối trách nhiệm,
quyền hạn và lợi nhuận của các công ty ngoại thương có tác dụng giải quyết các vấn
đề khác nhau của địa phương, các ngành, các công ty ngoại thương và các xí nghiệp
sản xuất, đồng thời còn đóng vai trò quan trọng thúc đẩy phương thức hoạt động bên
trong của các xí nghiệp, đó là nguyên nhân tạo ra được lợi nhuận và mở rộng ngoại
thương.
Giai đoạn này chỉ kéo dài có 3 năm nhưng ngoại thương Trung Quốc đã có
những bước tiến lớn. Vào năm 1990 kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc đạt
115,4 tỷ USD so với 102,784 tỷ USD năm 1988 tăng lên 12%. Điểm đặc biệt là sau
một thời gian dài nhập siêu đến năm 1990 Trung Quốc đã xuất siêu với thặng dư là
8,746 tỷ USD. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng năm hơn 100 triệu USD từ
48 loại vào năm 1987 đã lên đến 83 loại vào năm 1990. Tỷ trọng hàng công nghiệp
xuất khẩu trong kim ngạch xuất khẩu chiếm 74,5%. Đối với hoạt động nhập khẩu, vào
năm 1989, những thiết bị đồng bộ và kỹ thuật tiên tiến được nhập vào khoảng 4,39 tỷ
USD, đổi mới 400 xí nghiệp trọng điểm và đã sản xuất ra hơn 6000 loại sản phẩm
mới, trong đó một số lượng khá lớn đạt được tiêu chuẩn tiên tiến trên thế giới có sức
cạnh tranh mạnh mẽ. Đến năm 1990, Trung Quốc đã thiết lập được quan hệ thương
mại với 200 nước và khu vực [23].

3. Giai đoạn 1991-2001
Mục tiêu của giai đoạn này là thiết lập một chế độ quản lý và một cơ chế hoạt
động với đặc điểm "chính sách thống nhất, cạnh tranh lành mạnh, quản lý tự chủ,
trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp đối với các khoản lỗ lãi, kết hợp sản xuất với
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  14
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
thương mại, áp dụng chế độ đại lý và thẩm quyền duy nhất trong việc giải quyết các
vấn đề thương mại". Mục tiêu của chế độ mới là nhằm chấm dứt một lịch sử lâu đời
của nền ngoại thương trợ cấp và buộc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Các biện pháp cải cách bao gồm:
- Xoá bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
đồng thời tăng tỷ lệ giữ lại ngoại hối để thực hiện chế độ khoán ngoại thương đối với
các khoản lỗ và lãi. Cụ thể: Tổng công ty ngoại thương trung ương giao khoán xuất
khẩu trực tiếp cho các địa phương, các địa phương chịu trách nhiệm tổ chức xuất
khẩu, thu ngoại tệ về và giao nộp 70%, được giữ lại 30% ở địa phương, chỉ tiêu khoán
được giao cho các xí nghiệp và cơ sở ngoại thương. Nếu thu nhập vượt quá mức chỉ
tiêu khoán thì phần vượt này địa phương được giữ lại 80%. Việc cải cách hệ thống
quản lý ngoại tệ đã giúp các công ty có được nhiều ngoại tệ hơn cho các nhu cầu mở
rộng tái đầu tư của họ. Nhiều xí nghiệp và các viện nghiên cứu khoa học đã được phép
tham gia các hoạt động ngoại thương. Đồng thời với việc thu hẹp, giới hạn các mặt
hàng xuất nhập khẩu cần xin giấy phép, Trung Quốc đã giảm thuế nhập khẩu nhằm
mở rộng tự do thương mại.
- Tự do hơn nữa thị trường ngoại hối. Trước hết hủy bỏ chế độ hai tỷ giá, thống
nhất tỷ giá của đồng Nhân dân tệ với các ngoại tệ khác, chủ yếu dựa vào thị trường
cung và cầu ngoại tệ. Chính sách này được đưa ra nhằm mang lại đầy đủ vai trò quan
trọng của tỷ giá hối đoái, như là một biện pháp điều chỉnh ngoại thương. Thị trường
giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng đã được thành lập, nhằm trợ giúp cho cơ chế
xây dựng tỷ giá hối đoái và nhận ra những tác động có thể làm thay đổi đồng Nhân
dân tệ đối với tài khoản hiện hành. Cuộc cải cách về tỷ giá hối đoái đã thúc đẩy cải

cách trong hệ thống quản lý nhập khẩu. Một số quy định hạn chế phi thuế quan bị hủy
bỏ hoặc là bị giảm bớt, đã mở rộng thêm "tự do" cho hoạt động nhập khẩu.
- Chính phủ ký hợp đồng với các tỉnh, khu tự trị, thành phố hạch toán tài chính
độc lập, công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp sản xuất kiêm xuất nhập
khẩu các loại hàng hóa chuyên ngành nhất định cũng như với các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu khác. Các hợp đồng đó quy định hạn ngạch xuất khẩu, hạn ngạch thu ngoại
hối và hạn ngạch ngoại hối phải nộp cho Chính phủ. Các hạn ngạch trong mỗi hợp
đồng được đánh giá và điều chỉnh theo từng năm.
Nhìn chung, những cải cách trong giai đoạn này đẩy mạnh hơn nữa việc mở rộng
quyền hạn, chủ động sản xuất kinh doanh ngoại thương; khơi dậy tính tích cực, năng
động sáng tạo cho các xí nghiệp sản xuất và các công ty xuất nhập khẩu; đẩy mạnh
việc mở rộng kênh lưu thông, tiêu thụ hàng hóa ra thị trường thế giới; tăng cường sức
cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  15
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
4. Năm 2001 Trung Quốc trở thành thành viên của WTO - một dấu
mốc quan trọng trong phát triển ngoại thương nói riêng và kinh tế nói
chung
4.1. Sự cần thiết gia nhập WTO của Trung Quốc
Xét từ góc độ tiềm lực phát triển của kinh tế Trung Quốc cũng như từ cơ chế hoạt
động toàn cầu của WTO, việc Trung Quốc gia nhập WTO là phù hợp với nhu cầu của
cả hai bên.
* Về phía Trung Quốc:
Trong hơn hai thập kỷ qua, công cuộc cải cách và mở của của Trung Quốc được
tiến hành trong bối cảnh quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá
đã mang lại cho Trung Quốc cả những cơ hội lẫn những thách thức. Cho đến nay, sự
phát triển và thịnh vượng của Trung Quốc phụ thuộc khá nhiều vào các mối liên kết
của Trung Quốc với thế giới bên ngoài. Chính vì vậy, gia nhập WTO là nhu cầu thiết
thực để Trung Quốc:

- Tiếp tục đi sâu cải cách và mở cửa, xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa
- Hoà nhập vào xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
- Tận dụng triệt để hơn nữa kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật, công nghệ, thị trường
và nguồn vốn quốc tế
- Tăng cường xây dựng niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài về triển vọng
phát triển và môi trường đầu tư của Trung Quốc
- Thúc đẩy sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, xúc tiến việc mở rộng các ngành sản
xuất và điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc
tế.
- Tham gia WTO, Trung Quốc sẽ được hoà nhập vào một "Liên hợp quốc về kinh
tế và thương mại" với hơn 140 thành viên, kim ngạch buôn bán hàng năm chiếm trên
90% kim ngạch buôn bán toàn cầu [14]. Lợi ích mà Trung Quốc nhận được là vô cùng
to lớn khi Trung Quốc được hưởng Quy chế Tối huệ quốc (MFN) vô điều kiện, điều
đó chắc chắn sẽ thúc đẩy quá trình giao lưu buôn bán, xuất nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ của Trung Quốc với các nước và khu vực trên thế giới không ngừng tăng lên.
- Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, Trung Quốc sẽ tránh được
những rào cản không đáng có của “chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch”, bảo vệ tối đa quyền
lợi hợp pháp của Trung Quốc trong thương mại quốc tế.
* Về phía WTO
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  16
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Xét từ góc độ tiềm lực phát triển và quy mô to lớn của nền kinh tế–thương mại
Trung Quốc, từ mối quan hệ tương hỗ đôi bên cùng có lợi giữa nền kinh tế Trung
Quốc với các quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới, từ thị trường to lớn cho
tới tư thế và phương thức ứng xử của Trung Quốc trong vai trò một nước lớn có tiếng
nói trên trường quốc tế, tất cả đều chứng minh rằng WTO sẽ không thể được coi là
hoàn chỉnh khi chưa có sự tham gia của Trung Quốc-nước đang phát triển lớn nhất
trên thế giới:

- Không có sự tham gia của Trung Quốc trong việc xây dựng những nguyên tắc
của WTO, phạm vi ứng dụng của những nguyên tắc ấy chắc chắn sẽ hạn chế.
- Không có sự tham gia của một thị trường rộng lớn như Trung Quốc, thị trường
quốc tế khó có thể là thống nhất.
Có thể thấy, Trung Quốc cần WTO và WTO cần Trung Quốc, việc Trung Quốc
gia nhập WTO là phù hợp với lợi ích của cả Trung Quốc và các nước trên thế giới.
Điều đó đã được chứng minh một cách thuyết phục thông qua sự hợp tác thành công
và những thành tựu to lớn mà các bên đạt được trong nhiều năm qua.
4.2. Tóm tắt quá trình đàm phán và gia nhập WTO của Trung Quốc
4.2.1. Tiến trình gia nhập
1948 - Trung Hoa Dân Quốc là một trong số 23 thành viên sáng lập của Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại GATT (tiền thân của WTO)
1950 - Một năm sau ngày thành lập nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, nước
này tuyên bố rút khỏi GATT với lý do GATT chỉ là hội của những nước tư bản.
1986 - Trung Quốc đệ đơn gia nhập GATT
1987 - GATT đã thành lập “Nhóm công tác về địa vị nước tham gia ký kết hiệp
định chung của Trung Quốc”
1989 - Các cuộc đàm phán bị hoãn lại sau sự kiện Thiên An Môn. Nhiều chương
trình tự do hoá kinh tế đã trở nên sai lệch với mục tiêu của các cuộc đàm phàn.
1994 - Trung Quốc thực hiện nhiều cố gắng, nhanh chóng tự do hoá thương mại
để cố gia nhập WTO vào cuối năm nhưng nội bộ vẫn chưa thông suốt và chế độ bảo
hộ còn cao
1995
01/1995 - WTO thay thế cho GATT
07/1995 - Trung Quốc được công nhận là quan sát viên của WTO
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  17
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
11/1995 - Trung Quốc tuyên bố kế hoạch tự do hoá thương mại lớn nhất từ trước
tới nay, kế hoạch này sẽ được thực hiện trong vòng 16 năm nhằm lôi kéo sự ủng hộ

của Mỹ. Trung Quốc dự kiến cắt giảm 30% thuế quan và cho phép thành lập các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nưóc ngoài.
1997 - Khủng hoảng tài chính ở Châu á .
Trung Quốc vẫn giữ ổn định được đồng Nhân dân tệ, tuy nhiên việc tự do hoá đã
chậm lại, Trung Quốc lo sợ việc mở cửa quá nhanh sẽ làm xấu hơn tình trạng kinh tế
cũng như những cải cách vừa đạt được. Mặc dù, Trung Quốc đã cắt giảm thuế nhập
khẩu từ 23% xuống còn 17% nhưng thuế đối với một sồ mặt hàng khác như ôtô…vẫn
còn khá cao.
1999
04/03/1999 - Đại diện thương mại Mỹ Charlene Barshefski đã tới Bắc Kinh đàm
phán nhưng không có kết quả do có những bất đồng lớn trong lĩnh vực nông sản và
dịch vụ.
08/04/1999 - Thủ tướng Chu Dung Cơ thăm Mỹ với nhiều thoả hiệp và nhượng
bộ nhằm hoàn tất đàm phán và ký hiệp định nhưng Mỹ tiếp tục yêu cầu cao hơn
07/05/1999 - NATO ném bom sứ quán Trung Quốc ở Belgrade, đàm phán Trung-
Mỹ bị ngừng lại
11/09/1999 - Trong Hội nghị APEC tại NewZealand, Tổng thống Bill Clinton và
Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã nối lại đàm phán nhưng hai bên vẫn chưa đạt được
thoả thuận.
08/11/1999 - Tổng thống Bill Clinton cử bà Barshefski sang Trung Quốc để cố
đưa ra một thoả thuận chung nhưng không có kết quả.
13/11/1999 - Thủ tướng Chu Dung Cơ hội đàm với Đại diện thương mại Mỹ
Charlene Barshefski
15/11/1999 - Mỹ và Trung Quốc tuyên bố Hiệp định thương mại đã được ký kết.
Trung Quốc cam kết mở cửa nhiều lĩnh vực từ nông sản đến dịch vụ viễn thông. Tổng
thống Bill Clinton thuyết phục Quốc hội Mỹ ban Quy chế thương mại bình thường
vĩnh viễn cho Trung Quốc.
2000
19/05/2000 - EU và Trung Quốc ký kết Hiệp định thương mại
09/2000 - Trung Quốc ký Hiệp định song phương với Thuỵ Sỹ.

10/10/2000 - Tổng thống Bill Clinton ký Quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn sau khi được sự thông qua của Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ
2001
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  18
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
01/2001 - Trung Quốc đã tiến hành một chuỗi các vòng đàm phán đa phương hết
sức gay go với nhiều nước thành viên trong WTO. Sở dĩ thời gian đàm phán kéo dài là
do nhiều nước đã không nhất trí với Trung Quốc về vấn đề trợ cấp nông sản
09/06/2001 - Trung Quốc và Mỹ nhất trí việc Trung Quốc gia nhập WTO kể cả
vấn đề trợ cấp nông sản.
20/06/2001 - EU tuyên bố tiếp tục đàm phán song phương với Trung Quốc về
việc nước này gia nhập WTO
03/07/2001 - Trưởng đoàn đàm phán Bộ thương mại Trung Quốc-ông Long Vĩnh
Đồ- nói rằng “tất cả những vấn đề mấu chốt” đã được giải quyết bằng thương lượng
với các thành viên WTO
13/09/2001 - Trung Quốc và Mêhicô kết thúc đàm phán song phương, hoàn thành
xong cuộc đàm phán thứ 37 cũng là cuộc đàm phán cuối cùng trước khi Trung Quốc
gia nhập WTO.
14/09/2001 - Các thành viên WTO nhất trí điều khoản Trung Quốc gia nhập
WTO tại một cuộc họp bất thường.
17/09/2001 - Trung Quốc cùng các đối tác thương mại chủ yếu ký hiệp định
chính thức về việc Trung Quốc gia nhập WTO.
11/11/2001 - Tại Hội nghị các bộ trưởng của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) diễn ra ở Doha-Quata, Trung Quốc đã hoàn tất thủ tục gia nhập WTO sau 15
năm thương lượng và chính thức trở thành thành viên thứ 143 của Tổ chức này.
4.2.2. Quá trình đàm phán
Đàm phán gia nhập WTO được Trung Quốc tiến hành theo hai phương thức
song song và bổ sung cho nhau. Trong suốt 15 năm, cùng với nhiều cố gắng khác,
Trung Quốc luôn giữ được thái độ tích cực, đã tiến hành gần 30 lần hội nghị Nhóm

công tác đa phương và hàng trăm lần đàm phán song phương.
4.2.2.1. Đàm phán đa phương
Ngày 11/07/1986, Đại sứ Trung Quốc tại Liên hiệp quốc Tiền Giai Đông gửi
công hàm cho GATT, chính thức đề xuất việc chính phủ Trung Quốc xin khôi phục
địa vị nước tham gia ký kết Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT. Đến
tháng 6/1987, GATT đã thành lập “Nhóm công tác về địa vị nước tham gia ký kết
Hiệp định chung của Trung Quốc”. Để đạt được thoả thuận trong các đàm phán đa
phương, từ năm 1986 đến nay Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các biện pháp mở
cửa và cải cách thể chế mậu dịch, tăng cường đàm phán với các bên ký kết hiệp định
chủ yếu. Các cố gắng của Trung Quốc được thể hiện ở các điểm chính sau:
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  19
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
- Đẩy nhanh nhịp độ cải cách mậu dịch:
Đại hội 14 Đảng Cộng sản Trung Quốc(1992) tuyên bố xây dựng nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc, làm cho thể chế kinh tế Trung
Quốc thích ứng với yêu cầu của GATT. Trong những năm 1986-1992, Trung Quốc đã
cải cách mạnh mẽ thể chế quản lý ngoại thương, xoá bỏ dần sự độc quyền nhà nước,
huỷ bỏ dần trợ cấp xuất khẩu, thực hiện hạch toán kinh doanh. Từ 1994, Trung Quốc
huỷ bỏ kế hoạch pháp lệnh đối với tổng mức nhập khẩu, thu ngoại hối xuất khẩu và
dùng ngoại hối nhập khẩu thay bằng kế hoạch mang tính chỉ dẫn. Năm 1994, Trung
Quốc cũng cải cách chế độ tỷ giá theo hướng xoá bỏ tỷ giá cố định và tiến tới thả nổi
tỷ giá. Năm 1996, thực hiện chính sách thả nổi đồng NDT trong các hạng mục thông
thường .
- Mở cửa thị trường có thứ tự :
Không đi ngược lại xu hướng toàn cầu hoá, tự do hóa thương mại, Trung Quốc
đã từng bước mở cửa nền kinh tế theo nhiều tầng nấc:
- Một là, giảm thuế trên quy mô lớn. Từ năm 1992 đến năm 1999, Trung Quốc
liên tục 6 lần cắt giảm thuế quan, hạ mức bình quân từ 43,1% xuống còn 17%.
- Hai là, từng bước mở cửa thị trường trong nước và cam kết trao đổi tự do đồng

Nhân dân tệ ở các hạng mục thông thường .
- Ba là, mở cửa một phần thị trường tiền tệ và bảo hiểm trong nước, cho phép
vốn nước ngoài có điều kiện tự do hơn khi xâm nhập thị trường vốn trong nước. Cuối
năm 1998 đã có 150 ngân hàng nước ngoài kinh doanh ở Trung Quốc.
- Bốn là, trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu á vừa qua, Trung Quốc đã thực
hiện cam kết không phá giá đồng Nhân dân tệ, đồng thời còn tham gia viện trợ cho
vay đối với các nước Thái Lan và Inđônesia để làm dịu và góp phần phục hồi cuộc
khủng hoảng này.
Như vậy, bằng những nỗ lực cải cách và mở cửa cho phù hợp với những cam kết
với các đối tác đàm phán, Trung Quốc đã tiến hành thành công gần 30 lần hội nghị
Nhóm công tác đa phương, chính thức hoá những cam kết đã đạt trong những đàm
phán đa phương.
4.2.2.2. Đàm phán song phương
* Hiệp định thương mại Trung-Mỹ
- Quá trình đi đến ký kết:
Để đi đến ký kết hiệp định thương mại Trung–Mỹ, hai bên đã có một quá trình
đàm phán lâu dài đầy khó khăn. Trong những năm 1986-1989, hai bên đã thực hiện 10
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  20
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
lần đàm phán có tiến triển và đạt được nhiều thoả thuận. Nhưng năm 1989, do sự kiện
Thiên An Môn đàm phán bị hoãn lại. Năm 1992 sau khi Đặng Tiểu Bình đi thị sát các
tỉnh Miền Nam Trung Quốc, kêu gọi Trung Quốc cần học tập kinh nghiệm của Chủ
nghĩa tư bản, thổi luồng gió mới cho những cải cách táo bạo thì hai bên nối lại hội
đàm. Trong thời kỳ 1992-1995, Trung Quốc thực hiện nhiều cố gắng để gia nhập
WTO vào cuối năm 1994 nhưng Mỹ đưa ra yêu cầu cao nên Trung Quốc không chấp
nhận. Trong những năm 1995-1998, Trung Quốc không tỏ ra hăng hái như trước, thậm
chí có lúc lạnh nhạt. Tháng 4/1999, Thủ tướng Chu Dung Cơ thăm Mỹ với nhiều thoả
hiệp và nhượng bộ với Mỹ nhằm hoàn tất đàm phán và ký kết hiệp định nhưng phía
Mỹ tiếp tục đòi yêu cầu cao hơn. Ngày 8/5/1999, Mỹ ném bom sứ quán Trung Quốc ở

Nam Tư làm quan hệ hai bên như “rơi xuống vực”. Đàm phán Trung-Mỹ bị ngưng lại.
Với cuộc gặp gỡ Giang Trạch Dân-Clinton ngày 11/09/1999 trong hội nghị APEC tại
NewZealand, hai bên nối lại đàm phán và ngày 15/11/1999 hai bên Trung Quốc và Mỹ
mới ký được hiệp định thương mại.
- Những nội dung cơ bản của hiệp định Trung-Mỹ:
• Về thuế quan và phi thuế quan: Trung Quốc đã đồng ý giảm mức thuế quan
trung bình từ 22,1% xuống còn 17%, trong vòng 5 năm, xoá bỏ toàn bộ hạn ngạch và
các hạn chế về số lượng, nhưng trong một vài lĩnh vực đặc biệt, các hạn ngạch sẽ được
xoá bỏ trong vòng 2-3 năm.
• Về bù xuất khẩu: Trung Quốc sẽ đồng ý xoá bỏ tất cả các khoản trợ cấp xuất
khẩu
• Về công nghiệp: Trung Quốc cam kết giảm mức thuế chung đối với các sản
phẩm công nghiệp xuống còn 9,4% và 7,1% đối với những sản phẩm Mỹ ưu tiên. 2/3
số cắt giảm này sẽ được hoàn tất trong vòng 3 năm và số còn lại sẽ được hoàn tất
trong vòng 5 năm.
- Về dệt may: Tới năm 2005, Mỹ phải xoá bỏ việc cấp hạn ngạch nhập khẩu đối
với hàng dệt của Trung Quốc.
- Về ô tô: Thuế nhập khẩu ôtô sẽ giảm xuống còn 25%, đối với phụ tùng ô tô
xuống còn 10% vào năm 2006. Các công ty Mỹ sẽ cung cấp tín dụng cho người Trung
Quốc khi họ mua xe
• Về nông nghiệp : Trung Quốc cam kết giảm mức thuế chung đối với các sản
phẩm nông nghiệp từ 45% xuống còn 17% và xuống 14,5%-15% đối với những sản
phẩm Mỹ ưu tiên, các mức cắt giảm này sẽ được hoàn tất sau 4 năm.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  21
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Ngoài ra Hiệp định còn bao gồm những cam kết trong lĩnh vực dịch vụ trong
phạm vi tương đối lớn bao gồm: bảo hiểm, viễn thông, điện ảnh, ngân hàng, chứng
khoán, kiểm toán, dịch vụ y tế, giáo dục.
* Hiệp định thương mại Trung Quốc -EU

Trước đây, Trung Quốc và EU đã nhiều lần thương thuyết để ký hiệp định này
nhưng kết quả đạt được rất hạn chế và hai bên chưa đủ đi đến kết quả cuối cùng.
Nguyên nhân chính khiến hai bên chưa đạt được sự nhất trí trong các vòng đàm phán
trước đây là do phía Trung Quốc từ chối chấp nhận những điều kiện mà EU đưa ra
liên quan đến việc nâng tỷ lệ cổ phần của công ty nước ngoài trong các liên doanh,
trong đó có các liên doanh viễn thông và bảo hiểm tại Trung Quốc lên 49%. Tại nhiều
phiên thảo luận trong 4 vòng đàm phán diễn ra từ đầu năm 2000 đến khi ký kết hiệp
định, các đại diện của Trung Quốc và EU tranh cãi rất gay gắt xung quanh vấn đề mở
cửa khu vực dịch vụ viễn thông, lập liên doanh sản xuất ôtô, bảo hiểm nhân thọ, phân
phối và chính sách buôn bán của Trung Quốc với EU. Tuy vậy qua 3 vòng đàm phán
đầu, hai bên cũng đã thoả thuận được 80% các vấn đề then chốt.
Sau 5 ngày thương lượng căng thẳng, đến ngày 20/05/2000, Trung Quốc và EU
đã chính thức ký kết hiệp định về việc Trung Quốc gia nhập WTO.
Các nội dung chính của hiệp định xoay quanh các vấn đề như sau:
- Trung Quốc đồng ý cắt giảm thuế quan xuống còn 8-10% đối với 150 mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu từ EU
- Các thương gia nước ngoài được phép đưa vào 20% lượng nhập khẩu dầu mỏ
của Trung Quốc
- Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO được 3 năm, các công ty nước ngoài được
nắm 49% cổ phần trong các công ty liên doanh viễn thông và bảo hiểm tại Trung
Quốc.
- Trung Quốc xoá bỏ các hạn chế về sở hữu của người nước ngoài đối với các
cửa hàng bán lẻ trên quy mô lớn.
- Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO , Trung Quốc cấp ngay 7 giấy phép bảo
hiểm cho các hàng của EU, mọi công ty của EU đều có điều kiện pháp lý để được cấp
giấy phép.
Ngoài Mỹ và EU, Trung Quốc còn đạt được nhiều thoả thuận thương mại song
phương với nhiều nước khác nữa. Đến 17/9/2001, Trung Quốc đã ký Hiệp định
thương mại với tổng số 37 thành viên của WTO mà Trung Quốc cần phải ký kết, hoàn
tất quá trình đàm phán gia nhập WTO.

Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  22
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
Đối với Trung Quốc, mục đích căn bản của việc gia nhập WTO là để tăng cường
sức mạnh quốc gia, do đó Trung Quốc quyết không trả giá bằng việc hy sinh ổn định
xã hội và tương lai phát triển. Trung Quốc gia nhập WTO trên cơ sở 3 nguyên tắc là:
- Trung Quốc gia nhập WTO với tư cách một nước đang phát triển
- Nếu không có Trung Quốc thì tổ chức WTO không hoàn chỉnh
- Trung Quốc gia nhập WTO trên cơ sở cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ
Một khi WTO cần Trung Quốc, Trung Quốc thà gia nhập chậm một chút chứ
không chịu vào ngay để đổi lấy tổn thất lớn.
4.3. Một số cam kết của Trung Quốc khi gia nhập WTO
* Các cam kết chung:
- Trung Quốc sẽ phải tuân thủ các nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO
giữa các đối tác thương mại, giữa các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty
trong nước, giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá tiêu thụ nội địa.
- Hệ thống “bảo vệ” nhập khẩu cho phép các thành viên WTO áp dụng các hạn
chế số lượng đối với hàng hoá xuất khẩu từ Trung Quốc nếu việc gia tăng các hàng
hoá này đe doạ sản xuất trong nước của các nước thành viên đó trong vòng 12 năm sau
khi Trung Quốc gia nhập WTO
-Đổi lại, các thành viên WTO đồng ý gỡ bỏ dần dần những hạn chế đối với hàng
xuất khẩu từ Trung Quốc trong vòng 4 năm, riêng đối với Mêhicô thời hạn này sẽ là 6
năm.
* Các cam kết về thuế quan và phi thuế quan
Thuế quan: Trung Quốc đồng ý giảm dần dần mức thuế trung bình từ 22,1%
xuống còn 17% đối với hầu hết các hàng hoá nhập khẩu vào năm 2001 và số còn lại sẽ
được thực hiện tiếp cho đến năm 2010. Vào năm 2010, mức thuế trung bình đối với
hàng hoá công nghiệp là 8,9% và đối với hàng hoá nông nghiệp là 15%. Các mức thuế
này sẽ được áp dụng đối với 65% số nông sản nhập khẩu (ngũ cốc) và 47% số hàng
công nghiệp nhập khẩu (xe con, thiết bị phim ảnh).

Phi thuế quan:
- Nhiều biện pháp phi thuế quan như hạn ngạch, hạn chế số lượng… sẽ được xoá
bỏ. Trong vòng 3 năm tất cả các công ty sẽ có quyền nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối
hàng hoá trên khắp đất nước (trừ một số hạn chế nhất định).
-Nhà nước sẽ vẫn duy trì quản lý đối với một số mặt hàng như: ngũ cốc, thuốc lá,
nguyên liệu, khoáng sản, và một số sản phẩm thép. Các mặt hàng khác như: tân dược
và phân bón vẫn phải chịu quản lý về giá.
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  23
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
* Các cam kết trong các lĩnh vực
Về nông nghiệp
- Trung Quốc sẽ mở rộng nhập khẩu hàng nông sản và bỏ trợ cấp xuất khẩu đối
với sản xuất nông nghiệp.
- Trung Quốc cũng đồng ý hạn chế chi phí trợ cấp nông nghiệp ở mức 8,5% giá
trị sản lượng trong nước (tỷ lệ cho phép thông thường là 10% đối với các nước đang
phát triển).
Về công nghiệp
* Dệt may: Hạn ngạch nhập khẩu sản phẩm dệt may của Trung Quốc sẽ chính
thức chấm dứt vào 12/2004 theo hiệp định dệt may của WTO mặc dù Hệ thống “bảo
vệ” nhập khẩu cho phép các nước thành viên khác áp dụng hạn chế số lượng đối với
hàng hoá xuất khẩu từ Trung Quốc tới cuối năm 2008.
* Năng lượng-dầu mỏ:
- Trung Quốc đồng ý mở cửa các lĩnh vực dầu thô và dầu chế biến cho các
thương gia tư nhân với 4 triệu tấn các sản phẩm dầu và 10% dầu thô nhập khẩu.
- Trung Quốc cũng sẽ mở cửa lĩnh vực phân phối lẻ mặt hàng này sau 3 năm gia
nhập WTO và cho phép các công ty nước ngoài có ít nhất 30% ở mỗi trạm xăng dầu.
- Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường bán buôn sau 5 năm gia nhập WTO.
* Ngành ô tô: Trung Quốc sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu ôtô xuống còn 25% vào
giữa năm 2006. Hiệp định với EU buộc Trung Quốc phải xoá bỏ mọi hạn chế đối với

các loại xe hơi được sản xuất từ các liên doanh của Trung Quốc-EU trong vòng 2 năm.
-Thuế đối với các sản phẩm công nghệ cao như các thiết bị viễn thông sẽ được
xoá bỏ và giảm dần vào năm 2005.
5. Giai đoạn từ 2002 đến nay (giai đoạn quá độ sau khi gia nhập
WTO)
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc tập trung vào vấn đề cải cách cơ chế ngoại
thương theo hướng tự do hơn, phù hợp với các nguyên tắc của WTO hơn. Cụ thể
Trung Quốc tập trung vào 5 vấn đề:
- Xây dựng một cơ chế quản lý ngoại thương tiện lợi, công bằng. Hình thành môi
trường vận hành tiện lợi, công bằng, giảm các giá thành giao dịch, huy động tính tích
cực của các doanh nghiệp trong việc phát triển hướng ra thị trường quốc tế.
- Từng bước xây dựng cơ chế thúc đẩy ngoại thương mới, tích cực và ổn định,
lấy Chính phủ làm chủ đạo, đảm bảo bằng tài chính tiền tệ, trên cơ sở vận hành của thị
trường
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  24
M t s b i h c kinh nghi m trong phát tri n ngo i th ng c a Trung Qu c v g i ý i v i ộ ố à ọ ệ ể ạ ươ ủ ố à ợ đố ớ
Vi t Namệ
- Xây dựng cơ chế giám sát và phản hồi nhanh chóng và hiệu quả.
- Tăng cường công tác lập pháp trong quản lý ngoại thương, cải tiến biện pháp
quản lý, giảm bớt thủ tục hành chính, tăng cường độ minh bạch trong quản lý
- Cải cách hơn nữa chế độ hiệp hội xuất nhập khẩu, khuyến khích phát triển các
cơ quan dịch vụ pháp luật và tư vấn ngoại thương, phát huy vai trò của các tổ chức
trung gian trong việc phối hợp để thúc đẩy ngoại thương phát triển
Từ đầu năm 2002 tới nay, Trung Quốc có một số bước đi cụ thể :
+ Cải cách chế độ phê chuẩn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, hủy bỏ phân biệt
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thực hiện theo tiêu
chuẩn và trình tự như đối với doanh nghiệp nhà nước.
+ Hoàn thiện các biện pháp quản lý xuất nhập khẩu, giảm thuế quan và các biện
pháp phi thuế quan theo đúng cam kết. Đặc biệt, Trung Quốc đã bắt đầu quan tâm tới
vấn đề xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu qua việc công bố thực thi

“Điều lệ quản lý an toàn sinh vật chuyển đổi gien nông nghiệp”
+ Xây dựng cơ chế mới về giảm thuế xuất khẩu, thực hiện chính sách hoàn thuế
xuất khẩu mới.
III. Thực tiễn hoạt động ngoại thương Trung quốc trong
những năm gần đây
1. Về kim ngạch xuất nhập khẩu
Từ khi tiến hành cải cách mở cửa đến nay, hoạt động ngoại thương Trung Quốc
không ngừng gia tăng quy mô, mà biểu hiện trước hết là kim ngạch xuất nhập khẩu
liên tục gia tăng với tốc dộ vào hàng nhanh nhất thế giới, chỉ sau hơn 20 năm, vị thế
của Trung Quốc trong thương mại quốc tế đã được cải thiện rõ rệt, nếu như năm 1978
ngoại thương Trung Quốc vẫn còn đứng thứ 32 trên thế giới thì tới năm 2002, với
những thành công rực rỡ của cải cách mở cửa Trung Quốc đã trở thành cường quốc
đứng thứ 5 trên thế giới về ngoại thương.
Từ sau năm 1978 hoạt động ngoại thương của Trung Quốc diễn ra khá sôi động
nếu so sánh trong tương quan với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Kim ngạch
ngoại thương năm 1978 mới đạt 20,6 tỷ USD, đến năm 1984 đã vọt lên 50 tỷ, tăng gấp
2,5 lần năm 1978. Bốn năm sau, năm 1988 tổng kim ngạch ngoại thương đã tăng gấp
đôi năm 1984, đạt 100 tỷ USD. Năm 1994 ngoại thương Trung Quốc lại nêu kỉ lục
mới gấp đôi năm 1988, đạt hơn 200 tỷ USD, năm 1997 con số đã vượt qua 300 tỷ
USD, lên tới 325,1 tỷ USD [19]. Năm 1978, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc
chỉ bằng 25% của Hàn Quốc và Đài Loan nhưng đến năm 1994 kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc đã bằng 75% của Hàn Quốc và 82% của Đài Loan. Tính đến
Lê Thùy D ng – Anh 6 K38 KTNTươ  25

×