Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MẠNH HÙNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MẠNH HÙNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, dẫn chứng thực tiễn trong luận văn là hoàn toàn khác quan, trung
thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu luận văn không có
sự trùng lặp với bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào đã được
nghiệm thu, công bố./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ MẠNH HÙNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .............. 7
1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự ........ 7
1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự........ 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động tố
tụng hình sự hiện nay .......................................................................... 19
1.4. Đặc điểm, phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................................................................... 24
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NINH ......................................................................................................... 34
2.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác áp dụng các quy định pháp
luật về bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.. 34
2.2. Tình hình thực hiện áp dụng địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh .................................................................................. 39

2.3. Nhận xét, đánh giá chung............................................................. 57
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÓ
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 64
3.1. Dự báo về tình hình có liên quan công tác bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh ......................................................................................... 64
3.2. Giải pháp và kiến nghị bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định
về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................. 68
KẾT LUẬN .............................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 82


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

ANTT:

An ninh, trật tự

BLHS:

Bộ luật Hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên


ĐVPL:

Địa vị pháp lý

TAND:

Tòa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu cải cách tư pháp thì các vấn đề đảm bảo quyền dân chủ và nhân
quyền, đặc biệt là các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS luôn được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ
các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với
hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa quan điểm này của Đảng, thời gian qua, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật mới trong đó
có Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có những thay đổi, bổ

sung, sửa đổi nhiều nội dung quan trọng, trong đó có những quy định về ĐVPL của
bị hại, làm cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân phát huy quyền
và nghĩa vụ trong tham gia hoạt động tố tụng.
Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, tội phạm
không chỉ xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân mà còn xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Cùng với đó, BLHS quy định xử lý
không chỉ đối với các hành vi xâm hại quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức mà trong một số trường hợp xử lí đối với cả hành vi đe dọa xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp. Do Bộ luật TTHS 2003 chưa quy định đầy đủ nên thực
tiễn áp dụng chưa thống nhất. Để khắc phục những vướng mắc bất cập này, Bộ luật
TTHS năm 2015 đã quy định bị hại là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh
thần do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Về quyền của bị hại hoặc người đại diện
của họ, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung các quyền như: Được thông báo, giải
thích quyền và nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp
luật; được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch,
người dịch thuật; đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi

1


thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và
người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; xem biên bản phiên tòa. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình tiến hành các hoạt động tố tụng cần đảm bảo ĐVPL của bị hại trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định pháp luật về hoạt động
tố tụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Trên phương diện thực tiễn, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do

tội phạm gây ra chỉ trở thành bị hại trong TTHS khi họ được cơ quan có thẩm quyền
công nhận là bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách là bị hại.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bị hại trong TTHS ở nước ta hiện
nay cũng như thực trạng về bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế, góp phần
xử lý kịp thời, khách quan nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
Là tỉnh có nền kinh tế phát triển trọng điểm phía Bắc của nước ta, Quảng Ninh
đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, tuy nhiên, Quảng Ninh cũng là tỉnh có tình hình tội phạm diễn biến phức tạp.
Từ năm 2014 đến hết năm 2018, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố, điều
tra 7.222 vụ án, 10.474 bị can với đa dạng các loại tội phạm, chủ yếu là tội phạm ma
túy, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm về kinh tế, môi trường...
Trong quá trình tiến hành các hoạt động điều tra tội phạm, CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh đã quán triệt, nghiêm túc thực hiện yêu cầu đảm bảo pháp chế trong thực hiện
các quy định về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại. Tuy nhiên, với những quy
định mới về ĐVPL của bị hại theo Bộ luật TTHS, việc đảm bảo đúng, đủ các quyền
và nghĩa vụ của bị hại còn những khó khăn nhất định đối với CQĐT Công an tỉnh
Quảng Ninh như: Vấn đề thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
vấn đề tham gia phiên tòa, tranh tụng tại tòa, vấn đề dẫn giải bị hại khi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan….
Trên phương diện lý luận, thời gian qua, vấn đề nghiên cứu lí luận về người bị
hại trong TTHS (theo Bộ luật TTHS năm 1998, Bộ luật TTHS năm 2003) đã được

2


nghiên cứu, đề cập tại các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên,
xuất phát từ quan điểm, nội dung mới về “bị hại” thì đến nay chưa có công trình khoa

học nào nghiên cứu trực tiếp. Bên cạnh đó, lý luận tư pháp hình sự của nước ta quan
tâm nhiều chứng minh tội phạm và người phạm tội. Việc bảo đảm ĐVPL của bị hại
chỉ là nhiệm vụ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tức là thông qua
việc chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vị phạm tội thì ĐVPL của bị hại
được đảm bảo. Do đó, “khoảng trống” lí luận là ĐVPL của bị hại là điều không tránh
khỏi, cần được bổ sung.
Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “ĐVPL của bị hại theo pháp
luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Bị hại là một người tham gia tố tụng được quy định trong luật TTHS năm
2015. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến ĐVPL của người bị hại (1 bộ phận quan trọng cấu thành “bị hại”), như:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS”, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh đi sâu nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự
với tư cách là người tham gia tố tụng độc lập.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại
trong TTHS”, Viện khoa học và Xã hội Việt Nam tiếp cận quyền của người bị hại
dưới góc độ quyền con người, đồng thời nêu ra cơ chế bảo đảm quyền của người bị
hại trong TTHS.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Thịnh Quang Thắng (2010): “Người bị hại trong
TTHS Việt Nam” đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học như: Bản chất, ý
nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài. Tuy nhiên, các dẫn chứng số liệu đều được lấy ở một địa bàn nhỏ hẹp là huyện
Đông Anh -một huyện ngoại thành Hà Nội nên việc nghiên cứu đánh giá còn nhiều
hạn chế.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Hoàng Phương (2015), “ĐVPL của người
bị hại trong TTHS (áp dụng trong thực tiễn TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội)”,
trường Đại học quốc gia đã nghiên cứu địa vị pháp lý của người bị hại trong TTHS,


3


việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của người
bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Ngoài ra còn có các bài báo khoa học có nội dung liên quan đến ĐVPL bị hại
(người bị hại) trên các tạp chí khoa học như: “Bàn về việc tòa án cấp phúc thẩm có
được thay đổi tư cách của người tham gia tố tụng khi xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác
định không đúng”, Tạp chí TAND tối cao số 24/2005. “Một số vướng mắc khi giải
quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí kiểm sát số 7/2008.
“Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự”,
Tạp chí Toà án nhân dân số 13/2008. “Người bị hại trong TTHS”, Tạp chí khoa học
pháp lý số 01/2007. “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình
sự phúc thẩm”, Tạp chí Tòa án. TAND tối cao số 5/2004… Các bài viết, công trình
nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ một số vấn đề lý luận về chế định
quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS Việt Nam nhưng vẫn còn nhiều vấn
đề về lý luận và thực tiễn mà các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến ĐVPL
của bị hại theo Bộ luật TTHS năm 2015.
Như vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nghiên cứu về ĐVPL của bị hại
theo Bộ luật TTHS năm 2015 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, việc nghiên cứu đề tài “ĐVPL
của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” không trùng lặp
với bất kì công trình khoa học nào đã được công bố, nghiệm thu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về ĐVPL của bị hại trong Bộ
luật TTHS năm 2015; khảo sát và đánh giá việc áp dụng các quy định này trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra một số giải pháp thực hiện có hiệu quả các quy định về
bị hại trong thực tiễn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau:
- Nêu nhận thức cơ bản về bị hại và ĐVPL của bị hại trong TTHS.
- Đánh giá khái quát thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về ĐVPL của

bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình
thực hiện và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thực hiện có hiệu quả các quy định pháp
luật về ĐVPL của bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4


4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ĐVPL của bị hại trong luật TTHS Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: ĐVPL của bị hại trong TTHS theo quy định Bộ luật
TTHS năm 2015 và công tác áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về địa vị pháp
lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi chủ thể thực hiện: CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi địa bàn: Tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật và quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê; phân tích,
tổng hợp; phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn; tổ chức tọa đàm khoa học, phỏng
vấn chuyên gia và nghiên cứu tài liệu...
Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự, đánh giá

một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về thực trạng áp dụng các quy định về
quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của bị hại trong Bộ luật TTHS cũng như các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần bổ sung lý luận và sáng tỏ ĐVPL bị hại theo pháp luật
TTHS hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác nghiên cứu, tham mưu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân có
liên quan về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại trong hoạt động liên quan tố tụng.

5


Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc bồi
dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, các trường, trung tâm nghiên cứu, học tập về khoa học luật
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận
văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận về ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về ĐVPL của bị hại
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Dự báo và giải pháp bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.

6



Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự hiện nay
Để làm rõ về khái niệm ĐVPL của bị hại trong TTHS, trước hết chúng ta cần
làm rõ khái niệm “ĐVPL”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “địa vị” đó là vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do
chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng ít hay nhiều; vị trí trong
quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trò, tác dụng mà có còn pháp lý là căn cứ, cơ
sở của pháp luật .Địa vị của cá nhân là vị trí của cá nhân đó trong vai trò xã hội của
mình, thể hiện năng lực, trình độ hoặc vai trò của cá nhân trong mối quan hệ tương
quan với các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này có thể do cá nhân xây dựng tạo
nên hoặc do thừa hưởng từ cá nhân khác (thừa kế chức vụ trong công ty, doanh
nghiệp, tổ chức…). Khái niệm “ địa vị” thường được dùng đi kèm bổ ngữ, tạo thành
khái niệm mang tính tập hợp, ví dụ: “địa vị xã hội”, “ĐVPL”...
Theo Từ điển luật học, “ĐVPL” được hiểu là “vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định pháp luật; ĐVPL của chủ
thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua
đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông
qua ĐVPL có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời,
cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan
hệ pháp luật” [39]. Như vậy “ĐVPL” khác với “địa vị xã hội” ở chỗ nó được pháp luật
quy định và thể hiện rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Như vậy, ĐVPL có thể hiểu: Là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan
hệ pháp luật một cách độc lập.
Đối với khái niệm “bị hại”: Bị hại là khái niệm mới trong TTHS Việt Nam,
được công nhận trong Bộ luật TTHS năm 2015. Trước khái niệm “bị hại” được công

nhận, Bộ luật TTHS năm 2003 công nhận, sử dụng khái niệm “người bị hại”. Khái
niệm người bị hại đã xuất hiện từ rất sớm, khi bắt đầu có thủ tục TTHS. Sau này, khái
niệm người bị hại được các nhà nghiên cứu về tội phạm học đưa vào ứng dụng trong

7


việc xác định những mất mát, tổn thương do tội phạm gây ra từ khía cạnh của tội
phạm học. Đối với Việt Nam, nguời bị hại là khái niệm quen thuộc trong TTHS.
Trong Bộ luật TTHS năm 2003 đưa ra khái niệm “người bị hai” theo đó “người bị
hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người
bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần
hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách
là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết thì
cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại
diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.”.
Tại Bộ luật TTHS năm 2015 thuật ngữ “người bị hại” trong Bộ luật TTHS
2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “bị hại”, theo đó khái niệm bị hại mở rộng hơn
đối tượng bao gồm công dân và pháp nhân, (Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người
bị hại chỉ có công dân). Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong
TTHS, tội phạm không chỉ xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân mà con xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức. Việc
mở rộng khái niệm “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức là sự phù hợp với
thực tiễn hoạt động TTHS, sự thống nhất trong quy định giữa Hiến pháp, BLHS, Bộ
luật TTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác. Bị hại với tư cách
là người tham gia TTHS và được xác định tại Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 về bị
hại: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”.
Như vậy, theo quy định này thì bị hại bao gồm là cá nhân (hoặc người đại diện hợp

pháp của cá nhân bị thiệt hại hoặc pháp nhân (hoặc người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín).
Theo như quy định của BLTTHS năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau đây
- Về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
- Thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản,
uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt
buộc trong tất cả các trường hợp.

8


- Thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có
mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều
kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác
trong vụ án hình sự.
- Công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách
là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Chúng ta cần phân biệt “bị hại” với các khái niệm có nghĩa tương đồng là nạn
nhân của tội phạm. Nội dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái
niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa
gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. Để
gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động gây thiệt
hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong khi đó “Nạn nhân của tội phạm là những cá
nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác”[38, tr8]. Như vậy, nạn nhân
của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại của nạn nhân
không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại
về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt
hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS mới được

xem là bị hại.
Với việc xác nhận “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức đã thể hiện
sự cụ thể nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được coi là nguyên tắc
mang tính hiến định, ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 16), được cụ
thể hóa trong Bộ luật TTHS: bình đẳng giữa chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng ( ví dụ bị hại), bình đẳng về quyền thu thập, đưa ra chứng
cứ, yêu cầu, đề nghị; mọi người tham gia tố tụng đều được hưởng quyền và nghĩa vụ
ngang nhau…
Với tư cách là người tham gia tố tụng hình sự, ĐVPL của bị hại bị chi phối bởi
nhiều yếu tố như: như đặc điểm của mô hình TTHS thẩm vấn hay tranh tụng, kết hợp
giữa mô hình thẩm vấn và mô hình tranh tụng; quan niệm về bị hại trong TTHS; mối
tương quan giữa bị hại và các chủ thể khác tham gia TTHS; hệ thống quy định pháp
luật về TTHS hiện hành... dẫn đến sự khác biệt giữa ĐVPL của bị hại với những người

9


tham gia tố tụng khác như bị can, bị cáo, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ
án, luật sư, người bào chữa, và các chủ thể tham gia tố tụng khác.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: ĐVPL của bị hại trong TTHS là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho bị hại, tạo cho bị hại có
khả năng tham gia quan hệ pháp luật tố tụng một cách độc lập.
1.1.2. Vai trò của bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Vai trò buộc tội
Trước hết, chúng ta cần xác định buộc tội là hoạt động của cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội
phạm. Trong TTHS, buộc tội là chức năng chính của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền
công tố.Tuy nhiên, hiểu rộng ra, trong quá trình xử lí hành vi phạm tội, bị hại trong
trường hợp nhất định cũng thể hiện vai trò “buộc tội”.

Trong TTHS một số quốc gia, bên cạnh khái niệm công tố, việc buộc tội nhân
danh cá nhân được gọi là tư tố (Liên bang Nga, Trung Quốc, Phần Lan, một số bang
của Hoa Kỳ...). thực tế trong quy định Bộ luật TTHS Việt Nam đã có những quy định
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại tạo khả năng và điều kiện
cho bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết, hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp
hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thoả, đó “là tư
tố”. Nội dung này được quy định tại khoản 3 Điều 62 của Bộ luật TTHS năm 2015:
“Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện
của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” và tại Điều 155 của Bộ luật TTHS này:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều:
- Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác);
- Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
- Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội;
- Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác;

10


- Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
- Điều 141. Tội hiếp dâm;
- Điều 143. Tội cưỡng dâm;
- Điều 155. Tội làm nhục người khác;
- Điều 156. Tội vu khống;
- Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của BLHS khi có yêu

cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ,
trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý
muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu,
CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc
người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Đây là một quy định vừa mang tính kế thừa của Bộ luật TTHS năm 2003, vừa
có sự sửa đổi, bổ sung: Một điểm mới đáng chú ý trong Bộ luật TTHS năm 2015 là
quy định cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của người bị hại trong khởi tố vụ án hình sự.
Khoản 2 Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”. Với nội dung này, so với quy
định trong Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã có tiến bộ hơn
khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại là bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc
nào trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử (Khoản 2
Điều 105 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ được rút yêu cầu trước
khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới được đình chỉ). Trong giai đoạn điều tra,
CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản
2 Điều 155… (điểm a khoản 1 Điều 230 Bộ luật TTHS năm 2015); trong giai đoạn
truy tố, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi
có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155… (khoản 1 Điều 248 Bộ luật
TTHS năm 2015); trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra
quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều
155… (điểm a, khoản 1 Điều 282 Bộ luật TTHS năm 2015).

11


Như vậy, chức năng buộc tội trong TTHS là chức năng của Viện kiểm sát truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhưng quyền buộc tội cá nhân vẫn
được tôn trọng ở mức độ nhất định. Không giống quyền công tố, với quyền “tư tố”,
pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí cá nhân của bị hại trong việc tự giải quyết các
sự việc gây thiệt hại cho chính mình trong giới hạn nhất định mà xã hội và cộng đồng
có thể chấp nhận được. Trong mức độ nhất định, đây đã thiện vai trò “buộc tội” của
bị hại trong TTHS.
1.1.2.2. Xác định sự thật vụ án
Mục đích cuối cùng của công tác điều tra tội phạm nói riêng, hoạt động tố tụng
nói chung là xác định sự thật vụ án. Xác định sự thật của vụ án vừa là nguyên tắc vừa
là mục đích quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, và được Bộ luật TTHS
năm 2015 quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 như sau:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị buộc tội”.
Như vậy, theo quy định này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm
cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, trong đó: Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm CQĐT, Viện kiểm sát và Toà
án; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm các cơ
quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm
ngư, các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khi điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải chứng minh các nội dung: Có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm

nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của

12


bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân
và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và các vấn đề khác có ý nghĩa xác
định sự thật vụ án và phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm.
Để chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành hoạt động thu tập chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTHS; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình
tiết làm sáng tỏ vụ án. Với vị trí là người tham gia tố tụng, bị hại có vai trò quan trọng
trong việc xác định sự thật vụ án. Điều này thể hiện ở việc cung cấp cho cơ quan tiến
hành tố tụng những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 86, Bộ luật TTHS năm 2015:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án”. Như vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng mà bị hại cung cấp, đặc
biệt lời khai của bị hại có nội dung trình bày về những tình tiết vụ án, quan hệ giữa
bị hại và các đối tượng liên quan; quan hệ giữa bị hại và bị can, bị cáo, được thu thập
đúng trình tự, thủ tục TTHS. Với vai trò bảo vệ lợi ích cá nhân trong vụ án hình sự
thông qua quyền yêu cầu khởi kiện dân sự trong vụ án hình sự là cơ sở quan trọng để
cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là cơ quan điều tra, định hướng điều tra; việc bị
hại cung cấp những thông tin, tài liệu, tình tiết liên quan giúp cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những
vấn đề cần chứng minh nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong một số trường
hợp thông tin, tài liệu, chứng cư, lời khai của bị hại còn là căn cứ để khởi tố vụ án,
khởi tố bị can.

1.1.2.3. Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra
Bị hại là đối tượng bị hành vi phạm tội của tội phạm gây thiệt hại trực tiếp đến
thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… cho nên mong muốn được bù
đắp thiệt hại do tội phạm gây ra của bị hại là “quyền” chính đáng của bị hại trên cả
phương diện tình cảm và pháp luật. Trên thực tế “quyền” này của bị hại không giống
nhau: có bị hại mong muốn được bù đắp, bồi thường thiệt hại trên mức thiệt hại thực
tế; có bị hại mong muốn bồi thường thiệt hại bằng mức độ thiệt hại thực tế; cá biệt có

13


trường hợp vì cho rằng thiệt hại không đáng kể, “ái ngại” trước hoàn cảnh khó khăn
của tội phạm hoặc vì động cơ có tính chất vụ lợi khác, mà bị hại không yêu cầu việc
bồi thường thiệt hại. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp là
căn cứ quan trọng đề xác định thiệt hại do tội phạm gây ra.
Tuy nhiên, trên thực tế, do bị hại trong vụ án hình sự bị hành vi phạm tội gây
thiệt hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nên sẽ tác động đến tâm lí
bị hại ở những mức độ khác nhau, chi phối, điều khiển hành vi của bị hại. Đối với
những bị hại bị hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm (như trong vụ án hiếp
dâm, cưỡng dâm..) hoặc bị hại có những hành vi sai trái về mặt đạo đức, có hành vi
vi phạm pháp luật; tâm lí lo sợ bị ảnh hưởng đến địa vị chính trị, hạnh phúc, danh dự
của bản thân, gia đình, người thân hoặc của cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức khác có
liên quan đã làm cho bị hại không thể khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng
một cách khách quan, đúng đắn, chính xác, toàn diện.
Từ thực tiễn trên, để xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, thì bị hại có vai trò
quan trọng, nhưng không quyết định đến việc xác định thiệt hại. Cơ quan tiến hành
tố tụng cần thu thập thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, đánh giá cẩn trọng,
chính xác các thông tin, tài liệu, vật chứng từ bị hại cung cấp để xác định tính đúng
đắn, khách quan, phù hợp với các tình tiết, tài liệu liên quan vụ án hình sự.
1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự

Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể trong các
hoạt động của mình. Ví dụ: Địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật
khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật
trong các mối quan hệ pháp luật
Theo Từ điển Luật học thì địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ
thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định
của pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể,
qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình.
Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật

14


khác, đồng thời xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối
quan hệ pháp luật.
Một người có địa vị pháp lý là Bị hại (tham gia tố tụng với tư cách là bị hại: một
chủ thể tham gia tố tụng) thì sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
PLTTHS.
Tuy nhiên, địa vị pháp lý của bị hại không chỉ là quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Hiểu một cách đầy đủ và theo nghĩa rộng nhất, địa vị pháp lý của Bị hại không
chỉ bao gồm quyền và nghĩa vụ của Bị hại mà còn được quyết định bởi mô hình
TTHS, chức năng của TTHS, các nguyên tắc của TTHS, vai trò, vị trí của Bị hại trong
các hoạt động tố tụng và đặc biệt là các địa vị pháp lý của các chủ thể khác (như điều
tra viên, hay địa vị của bị can bị cáo, đặc biệt là địa vị của luật sư bảo vệ quyền của
bị hại...) cũng ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý của bị hại. Tức là quyền và nghĩa
vụ của Bị hại chỉ là 2 yếu tố, 2 nội dung chính quyết định địa vị pháp lý của bị hại.
Ví dụ: Địa vị pháp lý của bị hại trong mô hình tố tụng thẩm vấn khác với địa vị của

bị hại trong mô hình tranh tụng. Nguyên tắc
Do giới hạn luận văn và khả năng nghiên cứu của học viên cũng như do giới hạn
của đề tài chỉ nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo PLTTHS Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh, nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo
nghĩa hẹp, chỉ bao gồm 2 nội dung cơ bản quyết định địa vị pháp lý của chủ thể này
là quyền và nghĩa vụ bị hại (theo PLTTHS Việt Nam) mà không nghiên cứu về sự
ảnh hưởng của mô hình tố tụng, các nguyên tắc và các chức năng của tố tụng ảnh
hưởng đến địa vị pháp lý của bị hại.
1.2.1. Quyền của bị hại
Trong vụ án hình sự, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra. Do đó để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của bị hại thì phải
được thực hiện một số quyền nhất định.
Khác với quyền con người nói chung, quyền của người bị hại (bị hại theo quy
định Bộ luật TTHS năm 2015) trong TTHS là “Quyền có điều kiện chỉ phát sinh khi
cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại và họ tham
gia chủ động hay bị động vào quá trình tố tụng” [27, Tr54]. Là người bị tội phạm trực

15


tiếp gây thiệt hại, bị hại phải gánh chịu những hậu quả do tội phạm gây ra mà họ hoàn
toàn không mong muốn. Tuy nhiên, bị hại chỉ tham gia tố tụng trong trường hợp được
cơ quan có thẩm quyền thừa nhận, tùy từng giai đoạn, thời kỳ mà quyền của bị hại
thay đổi.
Tại Điều 51 của Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “quyền của người bị hại” là:
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Được thông báo về kết quả điều tra;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;

- Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
- Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như
về hình phạt đối với bị cáo.
- Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định
tại Điều 105 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là những quyền cơ bản của
“người bị hại” theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Thực tiễn thi hành Bộ luật
TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, quá trình xử lí vụ án hình sự, bị hại (theo quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015) có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật
vụ án, xác định thiệt hại cho tội phạm gây ra và đồng thời, để đảm bảo quyền bình
đẳng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động TTHS,
Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các quyền của bị hại như sau:
+ Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
+ Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
+ Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
+ Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;

16


+ Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
+ Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và
người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
+ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
+ Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người
thân thích của mình khi bị đe dọa;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người
đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Như vậy, so với Bộ luật TTHS năm 2003 thì quyền của bị hại theo Bộ luật
TTHS năm 2015 đã được bổ sung các quyền: Được thông báo, giải thích quyền và
nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định,
định giá tài sản theo quy định của pháp luật; được thông báo kết quả điều tra, giải
quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị hình phạt;
đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; tự
bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia các hoạt
động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; các quyền khác
theo quy định của pháp luật. Các quyền của bị hại tăng lên đồng nghĩa với việc trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức thực hiện đầy đủ các quyền hợp
pháp của bị hại, góp phần thực hiện yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động TTHS.


17


Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, học viên tập trung nghiên cứu, phân
tích đánh giá các “quyền” của bị hại liên quan công tác điều tra tội phạm của CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh.
1.2.2. Nghĩa vụ của bị hại
Quyền và nghĩa vụ là bộ phận hợp thành ĐVPL của bị hại trong TTHS. Bên
cạnh việc thực hiện quyền của bị hại thì bị hại cũng cần thực hiện nghĩa vụ. nghĩa vụ
có thể được hiểu là việc Nhà nước (ở đây cơ quan tiến hành tố tụng là đại diện) đòi
hỏi công dân (ở đây là bị hại) phải thực hiện những hành vi cần thiết khi Nhà nước
yêu cầu, nếu không thực hiện thì Nhà nước buộc phải áp dụng bằng mọi biện pháp từ
giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Nghĩa vụ của bị hại là cách xử sự mà bị hại
buộc phải thực hiện khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS nhằm đáp ứng việc thực
hiện quyền của các chủ thể khác. Việc buộc bị hại phải thực hiện nghĩa vụ của mình
nhằm đáp ứng cho việc thực hiện trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố
tụng. Điều này thể hiện nguyên tắc thống nhất về quyền và nghĩa vụ trong mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân. Nhà nước tạo mọi khả năng để người bị hại bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời cũng đòi hỏi công dân (bị hại)
thực hiện một số nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Nội dung này phù hợp, thống nhất với quy định tại khoản 2, Điều 5
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá
nhân trong đấu tranh phòng, chống tội pham: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa
vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Cùng với quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, khoản 6, Điều 5 Bộ luật TTHS năm 2015 “nghiêm cấm mọi hành vi cản trở
hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ”
nhằm bảo đảm không gây khó khăn, cản trở cho hoạt động TTHS và khoản 1, Điều
15 của Hiến pháp năm 2013: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”.

Với tư cách là người tham gia tố tụng, bị hại bên cạnh việc được cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác, tổ chức, cá nhân khác đảm bảo các “quyền”
thì bị hại còn là chủ thể tham gia tố tụng có nghĩa vụ nhất định. Đó là nghĩa vụ:
- Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường
hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan
thì có thể bị dẫn giải;

18


- Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
Cùng với quy định trường hợp bị hại bị chết, Bộ luật TTHS năm 2015 còn quy
định trường hợp bị mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người
đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này. Cơ quan,
tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật
hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những
quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này. Đây là nội dung mới bổ sung so với
quy định tại Điều 51 của Bộ luật TTHS năm 2003, bảo đảm phù hợp với thực tiễn
đồng thời phù hợp với việc bổ sung bị hại là cơ quan, tổ chức.
1.3. Các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động tố tụng
hình sự hiện nay
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Ðảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền
đề pháp lý bảo đảm quyền con người với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân
dân; bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền của bị hại trong
hoạt động TTHS nói riêng. TTHS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện quyền con người
trong hoạt động TTHS. Theo phạm vi rộng, pháp luật bảo đảm địa vị của bị hại trong
TTHS liên quan đến quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật, phụ thuộc vào chất

lượng của toàn bộ hệ thống pháp luật. Theo phạm vi hẹp, pháp luật bảo đảm ĐVPL
của bị hại bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
- Quy định về bị hại và xác định quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS.
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS nhằm bảo đảm ĐVPL của bị hại trong hoạt
động TTHS.
- Trình tự giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo đảm ĐVPL của bị hại.
- Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng liên quan quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLHS và luật TTHS có mối quan hệ
khăng khít giữa nội dung và hình thức. Luật hình sự quy định về tội phạm, hình phạt,
Luật TTHS quy định về trình tự xác định tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt, mức

19


hình phạt, thi hành hình phạt. Quy định của luật hình sự sẽ không thể áp dụng được
nếu không có quy định của luật TTHS và ngược lại.
Pháp luật bảo đảm ĐVPL của bị hại trong Bộ luật TTHS phải thường xuyên hệ
thống hoá, pháp điển hoá nhằm sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chưa phù hợp
với thực tiễn, loại bỏ những văn bản pháp luật đã lạc hậu. Kịp thời ban hành các văn
bản pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề không còn phù hợp với nội dung đảm bảo
ĐVPL của bị hại trong thực tiễn. Có thể nói, pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của công dân trong TTHS là yếu tố đầu tiên rất quan trọng để bảo đảm
ĐVPL của bị hại được thực hiện bởi vì không có pháp luật thì không có ĐVPL của bị
hại và cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS.
1.3.2. Tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức liên quan tới địa vị pháp
lý của bị hại trong tố tụng hình sự
TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật, gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, Viện
Kiểm sát, Tòa án), người tiến hành tố tụng (ĐTV, kiểm sát viên, Thẩm phán, hội thẩm

nhân dân và Thư ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào
chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của Luật TTHS.
Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định;
mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật.
Xét về mặt lý luận, mọi cơ quan tổ chức có liên quan tới vụ án hình sự đều
có trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động TTHS,
trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự chủ yếu thuộc về các cơ quan THTT hình sự
gồm CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án và các cơ quan tổ chức khác như tổ chức luật
sư, tổ chức giám định. Trong giới hạn luận văn này, học viên tập trung nghiên cứu
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh về bảo đảm ĐVPL của bị hại trong công tác điều
tra tội phạm.
* Đối với các cơ quan tiến hành TTHS:
- CQĐT:

20


×