Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO CHUẨN MỰC CỦA BASEL II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.59 KB, 11 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
THEO CHUẨN MỰC CỦA BASEL II
Rủi ro hoạt động ngày càng gia tăng do tác động của quá trình hội nhập, do tốc độ
gia tăng khối lượng các giao dịch trong ngân hàng, môi trường kinh doanh ngày càng phức
tạp, áp lực cạnh tranh ngày càng lớn và sự phát triển của công nghệ thông tin. Rủi ro hoạt
động (RRHĐ) còn được gọi là rủi ro tác nghiệp, là loại rủi ro có mặt trong tất cả các hoạt
động của NHTM nhưng lại khó nhìn thấy và đo lường. RRHĐ không chỉ gây tổn thất cho
NH về vật chất, nguồn nhân lực, mà còn giảm uy tín của NHTM. RRHĐ chiếu theo Basel II,
là một trong ba rủi ro lớn mà ngân hàng cần phải quản lý. Việc quản trị rủi ro nói chung và
RRHĐ nói riêng áp dụng theo Basel II đem đến những cơ hội và thách thức cho mỗi NHTM
hiện nay.Vì vậy, mỗi NHTM phải có những giải pháp quản trị RRHĐ nhằm chủ động quản
lý rủi ro, tăng cường năng lực tài chính của NHTM, bảo đảm hệ thống NHTM phát triển
bền vững trong thời gian tới.
1. RỦI RO HOẠT ĐỘNG THEO CHUẨN MỰC CỦA BASEL II.
1.1. Quan niệm: Trong những năm qua, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam và trên thế giới đã phải gánh chịu những tổn thất không nhỏ do rủi ro hoạt động, ảnh
hưởng rất lớn đến uy tín và tài sản của NHTM. Hệ thống ngân hàng Việt Nam nổi lên hàng
loạt những vấn đề nóng như: nợ xấu, chiếm dụng vốn, thua lỗ, bảo mật thông tin... mà
nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ chất lượng quản trị ngân hàng nói chung và quản trị rủi
ro nói riêng. RRHĐ có thể mang lại những tổn thất rất lớn cho NHTM như: trách nhiệm
pháp lý của NHTM, tài sản hoặc uy tín của NHTM bị tổn thất hay mất mát, giảm vốn kinh
doanh hay mất vốn, giảm lợi nhuận… Một nghiên cứu ở Úc còn lượng hóa RRHĐ chiếm
khoảng 20 - 23% tổng lượng rủi ro chung. Tại Việt Nam, hiện chưa có nhiều nghiên cứu
hoặc số liệu mang tính lượng hóa nào về con số tổn thất do RRHĐ gây ra.Từ một số nghiên
cứu tại các nước phát triển ghi nhận, RRHĐ có thể gây tổn hại khoảng 10% lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, “rủi ro hoạt động là rủi ro gây ra tổn thất”
do các nguyên nhân như: liên quan đến con người (phẩm chất đạo đức: cán bộ nhân viên
gian lận, cố ý làm sai, NHTM mất hoặc thiếu nhân lực chủ chốt); quy trình (văn bản hợp
đồng không đầy đủ, thiếu hướng dẫn; việc tuân thủ nội bộ và bên ngoài kém; sản phẩm quá
phức tạp hoặc tư vấn tồi); hệ thống nội bộ không đạt yêu cầu, không hoạt động (do hệ


thống công nghệ thông tin, mô hình tổ chức, quy định, quá trình xử lý công việc, đầu tư
công nghệ không phù hợp, lỗi tích hợp từ vận hành hệ thống, lỗ hổng an ninh hệ thống); cơ
sở hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt là rủi ro gắn với sự ra đời của các sản phẩm dịch
vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ số hóa; các yếu tố bên ngoài (hành vi tội phạm, việc sử
dụng nguồn lực bên ngoài không hợp lý, cơ sở hạ tầng chung kém).
Quản trị RRHĐ theo Basel II cho phép NHTM định lượng được rủi ro cho mọi hoạt
động, mọi giao dịch đã, đang phát sinh và giúp lượng hóa được vốn cần thiết cho mỗi giao


dịch. Kết quả kinh doanh sẽ được so sánh đối chiếu với mức vốn cần thiết để đảm bảo an
toàn cho ngân hàng, từ đó, có cái nhìn rõ hơn tỷ suất lợi nhuận tương ứng với mức độ rủi ro
cho các hoạt động đã phát sinh. Vấn đề đặt ra trong ngành Ngân hàng Việt Nam hiện nay là
áp dụng thống nhất một mô hình, các chuẩn mực và nguyên tắc chung về quản trị RRHĐ
theo hướng tiệm cận tới các chuẩn mực, thông lệ quốc tế của Basel II, làm cơ sở cho việc
quản trị rủi ro nói chung và RRHĐ nói riêng trong tương lai.

Hình 1: Các trụ cột chính trong chuẩn mực Basel II

Theo Hiệp ước Basel II: “Rủi ro hoạt động là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián
tiếp do cán bộ ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không
hoạt động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng”.
1.2. Khung Quản trị RRHĐ theo Basel II: Thành phần chủ chốt của khung quản trị
RRHĐ là một tập hợp các tiêu chuẩn RRHĐ cốt lõi cung cấp hướng dẫn về cơ sở kiểm soát
và đảm bảo môi trường hoạt động. Khung quản trị RRHĐ có các thành phần chính: xác
định chiến lược rủi ro, xây dựng cấu trúc quản trị, phân định luồng báo cáo, kiểm soát tự
đánh giá, quản lý sự kiện rủi ro, các chỉ số đo lường rủi ro chính và chương trình giảm thiểu
rủi ro.

Hình 2: Khung quản trị rủi ro hoạt động (Nguồn: KPMG International 2007 )


1.3. Nguyên tắc quản trị RRHĐ theo Basel II: Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng
đã đưa ra 11 nguyên tắc vàng trong quản trị RRHĐ và khuyến nghị các ngân hàng cần thực
hiện như sau: (1) Tạo ra môi trường quản trị rủi ro phù hợp như: Hội đồng quản trị phải
bảo đảm rằng khung quản trị RRHĐ của ngân hàng. Kiểm toán nội bộ không nên trực tiếp
chịu trách nhiệm về quản lý RRHĐ. Quản lý cấp cao phải có trách nhiệm triển khai thực
hiện các khung quản lý RRHĐ được phê duyệt của Hội đồng quản trị. Khung phải được
triển khai thực hiện nhất quán trong toàn bộ hệ thống ngân hàng và tất cả các nhân viên nên
hiểu rõ trách nhiệm của mình với việc quản lý RRHĐ. Lãnh đạo cấp cao cũng nên chịu


trách nhiệm về việc phát triển các chính sách, quy trình và thủ tục để quản lý RRHĐ trong
tất cả các sản phẩm, các hoạt động, quy trình và hệ thống ngân hàng; (2) Quản trị rủi ro:
xác định, đánh giá, giám sát, kiểm soát: Các ngân hàng cần xác định và đánh giá RRHĐ
trong tất cả các rủi ro hiện có trong tất cả sản phẩm, hoạt động, quy trình và hệ thống của
ngân hàng. Các ngân hàng nên thực hiện một quy trình để thường xuyên giám sát mức độ
ảnh hưởng và tổn thất do RRHĐ gây ra. Cần có báo cáo thường xuyên cho lãnh đạo cấp cao
và Hội đồng quản trị để hỗ trợ chủ động quản lý RRHĐ. Các ngân hàng nên có chính sách,
quy trình và thủ tục để kiểm soát và đưa ra chương trình giảm thiểu rủi ro. Ngân hàng cần
phải có kế hoạch duy trì kinh doanh đảm bảo khả năng hoạt động liên tục, hạn chế tổn thất
trong trường hợp rủi ro xảy ra bất ngờ; (3) Vai trò của cơ quan giám sát. Cơ quan giám sát
phải chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên, độc lập đánh giá chính sách, thủ tục và
thực tiễn liên quan đến những RRHĐ của ngân hàng. Người giám sát phải đảm bảo rằng có
những cơ chế thích hợp cho phép họ biết được sự phát triển của ngân hàng;(4)Vai trò của
việc công bố thông tin: Các ngân hàng cần phải thực hiện công bố đầy đủ và kịp thời thông
tin để cho phép những người tham gia thị trường đánh giá cách tiếp cận của họ để quản lý
RRHĐ. NHTM thực hiện đúng và đủ các nguyên tắc trên, phù hợp với điều kiện thực tế của
ngân hàng, công tác quản trị RRHĐ của ngân hàng sẽ đi theo chuẩn mực và thực hiện được
mục tiêu mà ngân hàng dự kiến.
2. QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG TẠI NHTM THỜI GIAN QUA
2.1. Một số rủi ro hoạt động tại NHTM

- Rủi ro do con người và liên quan đến công tác tổ chức cán bộ: Đây là vấn đề liên
quan đến đạo đức nghề nghiệp. Do chủ định, cố ý vi phạm, gian lận để mưu cầu lợi ích cá
nhân của bản thân.Những khó khăn về kinh tế như lương thấp, cuộc sống vất vả cũng là áp
lực khiến họ “làm liều” trong khi viêc giám sát thì còn rất lỏng lẻo.Tuy nhiên, cũng có thể
do chính cơ chế dễ dãi, kiểm soát thiếu chặt chẽ… tạo cơ hội cho RRHĐ nảy sinh; rủi ro
liên quan đến công tác tổ chức cán bộ gồm: cán bộ có kinh nghiệm dưới 3 năm chiếm tỷ
trọng tương đối cao; việc luân chuyển cán bộ không gắn liền với việc đào tạo; cán bộ phải
làm việc thêm ngoài giờ quá thời gian quy định.
- Rủi ro liên quan đến quy trình nghiệp vụ gồm:(1) Rủi ro về công tác ban hành
chính sách, quy chế, quy trình vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo. Việc tồn tại cùng lúc quá
nhiều các quy định, văn bản hướng dẫn gây khó cho việc thực hiện; Quy định, quy trình còn
thiếu hướng dẫn xử lý các trường hợp sự cố rủi ro; (2) Rủi ro liên quan đến nghiệp vụ tín
dụng: Rủi ro có thể đến từ sai sót trước khi cho vay, sai sót trong khi cho vay, sai sót sau khi
cho vay; giao dịch viên thực hiện giao dịch vượt hạn mức, sử dụng chung User; xác nhận
giá trị tiền gửi lớn hơn số dư tiền gửi thực tế; giải ngân khi chưa hoàn thành thủ tục về tài
sản đảm bảo; đề xuất cho vay vượt quá giới hạn giá trị tài sản đảm bảo; (3) Rủi ro về nghiệp
vụ luân chuyển chứng từ và hạch toán kế toán. Cung cấp thông tin tài khoản của khách
hàng không đúng với quy định của pháp luật và ngân hàng; sử dụng chung user; (4) Rủi ro
nghiệp vụ ngân quỹ, rủi ro cao nhất là nhầm lẫn trong việc phân loại tiền; lỗi xảy ra nhiều
nhất ở các khâu trả thừa, thiếu tiền cho khách hàng; chênh lệnh giá trị tài sản đảm bảo trong


kho với giá trị trên sổ sách; chênh lệch ấn chỉ giữa kho và sổ sách; nhầm lẫn trong việc thu,
chi tiền; không phát hiện được tiền giả; không thẩm định, phân tích hiệu quả của phương án
vay vốn; chưa đăng ký giao dịch đảm bảo...
- Rủi ro do lỗi hệ thống công nghệ thông tin (CNTT): Nhìn chung, rủi ro trong hệ
thống công nghệ thông tin xảy ra về vấn đề bảo mật và an toàn trong việc sử dụng user,
password. Tình trạng gián đoạn truyền thông tại chi nhánh do lỗi thiết bị, lỗi đường truyền,
và chủ thẻ rút tiền không nhận được tiền mà tài khoản vẫn ghi nợ. Nguyên nhân chính dẫn
tới sự cố trên là lỗi đường truyền, do chuyển đổi máy chủ dự phòng, lỗi đầu đọc thẻ, mất

điện, hỏng CPU, lỗi khay tiền… dẫn đến sự cố rủi ro tác nghiệp tại NHTM.
- Rủi ro do các yếu tố khách quan khác: (1) Rủi ro của chính chiến lược kinh
doanh: Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu mới chỉ chú trọng vào các rủi ro tác động
tới chiến lược kinh doanh chứ chưa xem xét đến rủi ro của chính chiến lược kinh doanh.
NHTM chấp nhận quá nhiều rủi ro để đạt được các mục tiêu ngắn hạn; không giữ được
nhân viên có trình độ và chuyên môn; không đầu tư thích đáng cho các công nghệ mới; (2)
Môi trường kinh doanh khắc nghiệt, áp lực doanh số: Việc lãnh đạo ngân hàng đề ra chiến
lược và mục tiêu quá hoài bão mà không tính hết đến các rủi ro, khó khăn của nền kinh tế
chắc chắn sẽ tạo ra áp lực đối với các cấp thực hiện và có thể vi phạm trong tác nghiệp; (3)
Rủi ro thiếu minh bạch thông tin: Không xác thực được thông tin, thiếu minh bạch thông tin
vẫn là một vấn đề cố hữu. Trong nền kinh tế mà thông tin là nền tảng cho mọi quyết định/kế
hoạch, thông tin được xác thực và kiểm chứng để đảm bảo độ tin cậy là là cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng; (4) Rủi ro do thiếu các quy định và hướng dẫn chi tiết trong
quá trình hoạt động. Muốn quản trị RRHĐ thì phải có cơ chế, quy định quản lý chặt chẽ thì
mới có thể phát hiện và ngăn chặn những sai phạm ngay từ lúc phát sinh, tránh gây hậu quả
lớn. Đây là một trong những điều kiện căn bản và quan trọng nhất trong quá trình quản trị
rủi ro.
2. Quản trị RRHĐ theo hướng Basel II thời gian qua.
- Về phía Ngân hàng Nhà nước
NHNN triển khai đề án Basel II: NHNN Việt Nam ban hành công văn số
1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/3/2014 về việc triển khai thực hiện quy định an toàn vốn
theo Basel II; trong đó, yêu cầu các ngân hàng triển khai Basel II ở mức độ tiêu chuẩn,
riêng 10 ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, BIDV, VPBank, Techcombank, VIB,
Maritime Bank, MB, Sacombank, ACB thực hiện ở mức độ cao hơn. Lộ trình thực hiện đến
năm 2018 được chia thành hai giai đoạn: (i) Giai đoạn 1 đến cuối 2015, các ngân hàng được
chọn áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn; (ii) Giai đoạn 2 đến cuối 2018, các
ngân hàng được chọn áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao. Đây chính là bước đột
phá, thể hiện sự quyết tâm của Ngân hàng Nhà nước trong việc hỗ trợ, thúc đẩy các NHTM
thực hiện quản trị rủi ro theo các chuẩn mực Basel II.
NHNN ban hành văn bản: (1) NHNN đã ban hành thông tư số 41/2016/TT-NHNN

quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với TCTD (theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II).
NHNN đã quy định chặt chẽ tại Thông tư 41 các yêu cầu về nội dung và hình thức công bố


thông tin đảm bảo tính công khai, minh bạch và tiếp cận thuận tiện cho các cá nhân, tổ chức
có lợi ích liên quan. Nội dung công bố thông tin gồm cả nội dung định tính và định lượng,
từ thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ về vốn đến những thông tin liên quan đến mức
độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động và quy
trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Đây được coi điều kiện tiên quyết
cho tính hiệu quả và minh bạch của hoạt động ngân hàng; (2) Thông tư số 13/2018/TTNHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM nhằm tạo khung pháp lý để các
ngân hàng thực hiện trụ cột 1, trụ cột 2 và trụ cột 3 của Basel II. NHNN đã thành lập Ban
chỉ đạo triển khai Basel II tại NHNN và tại Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đến nay
bước đầu đã thực hiện đánh giá thực trạng, khoảng cách về quản trị rủi ro của NHTM với
các quy định của Basel II. Mở rộng, nâng cao vai trò của CIC theo hướng hỗ trợ NHTM
thực hiện Basel II như xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, cung cấp kịp thời thông tin cho tổ
chức tín dụng, nâng cấp bộ máy xếp hạng tín dụng,… Bên cạnh đó, việc nâng cao năng lực
giám sát hệ thống cũng được chú trọng thực hiện; tiến hành cải cách tổ chức hoạt động của
thanh tra; chuyển hướng từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro, xây dựng quy
trình, phương pháp thanh tra phù hợp với thông lệ Basel II. NHNN yêu cầu các NHTM phải
nhận diện, đo lường, theo dõi và kiểm soát đầy đủ rủi ro hoạt động (bao gồm rủi ro gian
lận) trong tất cả các sản phẩm, hoạt động kinh doanh, quy trình nghiệp vụ, hệ thống công
nghệ thông tin và các hệ thống quản lý. Ngoài ra, các ngân hàng cần có cơ chế trao đổi
thông tin về gian lận, nguy cơ xảy ra gian lận cho bộ phận quản lý rủi ro, bộ phận kiểm toán
nội bộ và các bộ phận liên quan khác cũng như có cơ chế báo cáo cho cấp có thẩm quyền về
các hành vi vi phạm.
NHNN đã định hướng các ngân hàng xây dựng các chiến lược kinh doanh phù hợp
với năng lực huy động vốn tự có thông qua việc phân loại các phân khúc khách hàng và sản
phẩm dịch vụ theo các mức độ rủi ro khác nhau. NHNN quy định rõ ràng việc các ngân
hàng cần đáp ứng yêu cầu về hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống quy định, chính sách,
chuẩn hóa dữ liệu đầu vào để thu thập các thông tin về khách hàng, khoản cấp tín dụng đầy

đủ, chính xác. Dựa trên yêu cầu đó, các ngân hàng chủ động rà soát lại chính sách khách
hàng, chính sách quản trị rủi ro (chính sách tài sản đảm bảo, chính sách tín dụng), chính
sách giá để tối ưu hóa tài sản có rủi ro. Việc ban hành các thông tư hướng dẫn triển khai
Basel II là định hướng đúng đắn của NHNN trong việc nâng cao năng lực quản lý rủi ro và
chuẩn mực an toàn trong hoạt động ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Điều này cũng tạo ra
nền tảng để giúp các ngân hàng Việt Nam tiếp cận với các thị trường vốn quốc tế một cách
dễ dàng, với chi phí thấp và tăng mức độ tin cậy của các định chế tài chính toàn cầu, các
nhà đầu tư và các tổ chức quốc tế khác đối với Việt Nam, tạo tiền đề cho sự phát triển bền
vững của ngành Ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
- Phía ngân hàng thương mại: (1) NHTM đã tổ chức tuyên truyền, tập huấn và
giúp nhận diện các loại RRHĐ.Thông qua các khóa đào tạo nghiệp vụ có nội dung về cách
thức nhận diện và phòng tránh rủi ro nói chung và rủi ro tác nghiệp nói riêng. Qua đó, nhân
viên có thể phòng tránh những rủi ro này trong quá trình tác nghiệp và những hậu quả mà


nó mang lại. Mỗi NHTM đã xây dựng cho mình một quy trình, quy chế đảm bảo một cách
cụ thể, minh bạch để tất cả các nhân viên khi làm việc, tác nghiệp đều phải tuân theo những
quy trình đó, những rủi ro trong quá trình tác nghiệp sẽ bị loại bỏ đi rất nhiều; (2) NHTM
đã xây dựng văn hoá quản trị RRHĐ cho nhân viên. Qua đó, đã giúp mọi nhân viên có
những cách giải quyết tốt nhất cho các vấn đề rủi ro khi giao dịch với khách hàng và góp
phần đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của ngân hàng; (3) Tăng cường công tác kiểm soát
nội bộ: Việc giám sát các hoạt động nội bộ cũng như tăng cường kiểm soát chéo sẽ giúp tất
cả nhân viên có ý thức thực hiện tốt, tuân thủ các nguyên tắc đã được đề ra. Từ đó, có thể
phòng tránh và giảm thiểu rủi ro trong quá trình tác nghiệp. Hiện nay, nhiều NHTM Việt
Nam đã nghiên cứu và quan tâm triển khai công tác này trong vài năm trở lại đây, điển hình
như Vietinbank, BIDV, Vietcombank, MB, VIB…
Tuy nhiên, do đánh giá chưa toàn diện về vai trò của công tác này, quản trị rủi ro
hoạt động tại các NHTM Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần được xem xét cải thiện như:
(1) NHTM đang nghiên cứu mô hình quản trị rủi ro nói chung và mô hình quản trị RRHĐ
nói riêng theo yêu cầu của Basel II cho phù hợp với đặc điểm của ngân hàng; (2) Chiến

lược kinh doanh của ngân hàng chưa đánh giá khả năng quản trị rủi ro, chưa có một chiến
lược quản trị rủi ro tổng thể. NHMT chưa thường xuyên đánh giá chiến lược kinh doanh.
Việc xây dựng một chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên các giả định và kinh
nghiệm của người lãnh đạo. Cơ sở dữ liệu về phân tích, dự báo môi trường kinh doanh,
đánh giá nguồn lực và xác định tầm nhìn trung, dài hạn của các NHTM hiện đại vẫn còn
thiếu. Các NHTM vẫn còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược dài hạn. Nhiều sản
phẩm dịch vụ mới được triển khai khi chưa thực sự hiểu rõ các rủi ro tiềm ẩn và chưa có
khả năng quản lý hiệu quả, đặc biệt là các mảng sản phẩm ngân hàng điện tử…; (3) Các
NHTM chưa xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất trong hoạt động quản lý RRHĐ. Chưa có sự
tham gia của tất cả các phòng xảy ra RRHĐ ban trong các hoạt động thu thập dữ liệu tổn
thất và xây dựng quy trình thu thập dữ liệu tổn thất để có thể cập nhật các nguồn thông tin
cũng như phản ánh đúng các khả năng RRTN khi môi trường kinh doanh thay đổi; (4) Đầu
tư công nghệ thông tin tại NHTM trong quản lý rủi ro nói chung và RRHĐ chưa theo kịp
với sự phát triển của công nghệ 4.0. Việc ứng dụng CNTT chưa cho phép các NHTM có
các dữ liệu đầy đủ cho việc đánh giá và lượng hóa RRHĐ. Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 với nền tảng là internet kết nối vạn vật, dữ liệu lớn và điện toán đám mây
cũng đang tác động nhanh chóng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của ngành Ngân hàng;
(5) Các loại rủi ro trong ngân hàng được quản lý tách biệt, chưa có sự liên kết đưa ra cái
nhìn toàn diện cấu trúc rủi ro của ngân hàng. Chưa xây dựng được một khung quản lý rủi
ro hoạt động toàn diện với đủ các yếu tố cần thiết. Quản trị RRHÐ ở nhiều ngân hàng mới
dừng lại ở việc báo cáo số lần phát sinh lỗi sai sót trong tác nghiệp, chưa nghiên cứu triển
khai các công cụ quan trọng khác như : Tự xác định và đánh giá RRHÐ, chỉ số RRHÐ
chính, phân tích kịch bản RRHÐ, kiểm định khủng hoảng, quản lý kinh doanh liên tục, bảo
hiểm RRHÐ… Trong khi đó, một khung quản trị RRHÐ đầy đủ toàn diện cần gồm các nội
dung như (Hình 3);


Hình 3: Khung quản trị RRHĐ

(6) Chưa triển khai phương pháp tính toán và dự phòng vốn chịu rủi ro hoạt động.

Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn khổ pháp lý chính thức cho hoạt động quản
trị RRHÐ. Các NHTM vẫn đang mong đợi NHNN sớm ban hành những quy định cụ thể
hướng dẫn triển khai hoạt động quản trị RRHÐ trên tất cả các mặt từ thiết lập chính sách,
quy định, quy trình cho đến phương pháp đo lường, yêu cầu vốn tối thiểu đối với RRHÐ và
cơ chế trích lập dự phòng RRHÐ; (7) Những hạn chế về quản trị ngân hàng: Cơ chế quản
trị rủi ro tốt phải đem lại kết quả là rủi ro được quản lý trong phạm vi giới hạn rủi ro mà
ngân hàng hiểu rõ và chấp nhận, đảm bảo không có những tổn thất bất ngờ ngoài dự kiến
đối với hoạt động kinh doanh. Nhiều NHTM chưa thành lập bộ phận quản trị RRHÐ
chuyên trách độc lập. Bởi vậy, cơ chế quản trị doanh nghiệp lành mạnh cần được xây dựng
và thiết lập ở tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là tại các NHTM vốn là huyết mạch của
nền kinh tế, nhằm thúc đẩy sự cân bằng rủi ro - lợi nhuận và đạo đức trong kinh doanh, tính
minh bạch và năng lực chịu trách nhiệm đối với chính NHTM và sự lành mạnh của xã hội
nói chung.
3. CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUẢN TRỊ RRHĐ TẠI
NHTM THEO BASEL II.
3.1. Cơ hội, thách thức về quản trị RRHĐ tại NHTM theo Basel II
Cơ hội: (1) NHTM sẽ hoạch định lại hoạt động kinh doanh và các chiến lược kinh
doanh để đáp ứng được các yêu cầu của Hiệp ước Basel II với các tiêu chuẩn quốc tế về an
toàn vốn và thanh khoản. Basel II sẽ giúp các ngân hàng chủ động quản lý rủi ro tốt hơn,
đồng thời cũng có khả năng ra quyết định kinh doanh trên cơ sở có đầy đủ thông tin về rủi
ro và mối liên hệ giữa các rủi ro; (2) NHTM xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tốt. Các công
cụ và phương pháp quản lý rủi ro tiên tiến được triển khai, giảm thiểu chi phí, tập trung
phát triển các mảng nghiệp vụ kinh doanh mới và hiệu quả hơn trong các quyết định phân
bổ nguồn vốn kinh doanh; (3) Trình độ quản trị rủi ro được tăng cường, các biện pháp
quản trị rủi ro, đặc biệt là mô hình rủi ro và xếp hạng nội bộ được chủ động áp dụng. Đồng
thời, nguồn vốn được quản lý một cách hiệu quả hơn, giúp các ngân hàng hoạt động an toàn
hơn, lành mạnh. Trong lĩnh vực tín dụng, các NHTM sẽ phải chuyển hướng tập trung vào
đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng, thay vì dựa chủ yếu vào tài sản đảm bảo; (4)
Ngân hàng sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Do ngân hàng hoạt động kinh doanh
trong môi trường đạt tiêu chuẩn quốc tế sau khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn

vốn và thanh khoản; (5) Áp dụng Basel II sẽ giúp các ngân hàng đáp ứng chuẩn mực quốc


tế để hội nhập. Các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội vươn xa ra thị trường các nước phát
triển. Khi triển khai Basel II với các chỉ số vốn và các yêu cầu về thanh khoản, quản trị rủi
ro đạt chuẩn quốc tế. Lúc đó, các ngân hàng Việt Nam không chỉ thu hút thêm nhà đầu tư
nước ngoài mà chính các ngân hàng sẽ tự mình thâm nhập các thị trường phát triển và thu
hút vốn tại các thị trường rộng lớn này. Vì vậy, việc tuân thủ Hiệp ước Basel II đảm bảo chỉ
số an toàn vốn tối thiểu và các yêu cầu thanh khoản là yêu cầu cần thiết đối với các ngân
hàng thương mại để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh trong môi trường nhiều
biến động.Tuy nhiên, khi triển khai hiệp ước này cũng khiến cho các NHTM tại Việt Nam
phải đối mặt với những thử thách nhất định dưới đây.
Thách thức:(1)Thách thức về bối cảnh triển khai: Việt Nam triển khai Basel II trong
giai đoạn khó khăn của nền kinh tế với nhiều biến động trong hệ thống ngân hàng. Đề án tái
cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì đã đưa ra các
mục tiêu đẩy mạnh tái cấu ngành Ngân hàng như: cắt giảm nợ xấu, giảm số lượng ngân
hàng thương mại yếu kém và đảm bảo 70% ngân hàng thực hiện đầy đủ Basel II vào năm
2020. Đề án đưa ra nhóm giải pháp như: tăng cường năng lực tài chính của các tổ chức tín
dụng, bảo đảm các tổ chức tín dụng có đủ vốn tự có theo chuẩn mực vốn của Basel II; Triển
khai lộ trình tăng vốn điều lệ phù hợp với quy định mới về mức vốn pháp định của tổ chức
tín dụng và vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài; kiên quyết xử lý các tổ chức
tín dụng, chi nhánh ngân hàng không đáp ứng được mức vốn pháp định và chuẩn mực an
toàn vốn. Ngoài ra, việc mở cửa theo các cam kết toàn diện trong WTO, Cộng đồng Kinh tế
ASEAN và các cam kết trong các hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương
khác. Đặc biệt là sự hiện diện thương mại của các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng ngày
càng nhiều, khiến cho sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng ngày càng
gay gắt, gia tăng các loại rủi ro đạo đức và rủi ro hoạt động sẽ có liên hệ chặt chẽ với các
rủi ro thông tin và rủi ro cạnh tranh này; (2) Sự phức tạp của chính Hiệp ước Basel II: Cơ
sở xây dựng Hiệp ước Basel II được thiết kế và xây dựng dựa trên kinh nghiệm và phù hợp
với thị trường phát triển, vì vậy, có thể sẽ có những nội dung không phù hợp với tình hình

hiện tại của các thị trường đang phát triển, trong đó; có Việt Nam. Do vậy, khi đưa vào thị
trường đang phát triển phải chuyển thành các chính sách chi tiết và kế hoạch hành động khả
thi, việc này sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức và tốn kém; (3) Cách thức quản trị rủi ro
và nợ xấu. Các NHTM càng phải đối mặt với hàng loạt loại rủi ro khác nhau gây tổn thất
lớn hơn cho các NHTM khi hoạt động kinh doanh ngày càng phức tạp, sản phẩm luôn đổi
mới. Hiện nay, các NHTM Việt Nam mới đang bước đầu xây dựng một hệ thống quản trị
rủi ro theo chuẩn mực quốc tế. Việc xử lý nợ xấu còn chậm, Công ty quản lý tài sản Việt
Nam (VAMC) ra đời nhưng chưa có môi trường pháp lý hoàn chỉnh nên chưa phát huy hết
vai trò xử lý nợ xấu của mình, nhiều khoản nợ xấu mua lại từ các NHTM chưa tìm được
đầu ra phù hợp; (4) Yêu cầu cao về hệ thống quản trị rủi ro, công nghệ thông tin và tài
chính: Hệ thống quản trị rủi ro tập trung, và phát triển các mô hình quản trị rủi ro; Hệ thống
thông tin cần tin cậy và chính xác và chất lượng của nguồn dữ liệu. Vì vậy, cần phải áp
dụng hệ thống báo cáo tin cậy, kịp thời; (5) Đầu tư lớn về tài chính: Việc thiết lập hệ thống


quản trị rủi ro, chi phí cho hệ thống IT, thuê các nhân viên IT mới có trình độ kỹ thuật cao
hơn… đòi hỏi các TCTD đầu tư chi phí lớn khi áp dụng Basel II, khiến chi phí hoạt động
tăng cao.
3.2. Một số kiến nghị
Phía Ngân hàng Nhà nước
(1)Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, hướng dẫn các ngân hàng thương mại triển
khai Basel II, đặc biệt là các hướng dẫn về các vấn đề mới xây dựng mô hình dựa trên thông
lệ tốt của thị trường quốc tế nhưng vẫn phải đảm bảo hợp lý đặc điểm thị trường Việt Nam
theo lộ trình phát triển như: mức độ minh bạch thông tin, mức độ cạnh tranh hoàn hảo.
(2) Triển khai Basel II và các chính sách hướng dẫn cụ thể và phù hợp với điều kiện
Việt Nam; xây dựng khung hướng dẫn cụ thể về quản trị rủi ro và việc kiểm định các mô
hình rủi ro; Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cơ sở dữ liệu lịch sử, hệ thống
công nghệ thông tin, xếp hạng tín dụng, thiết lập các mô hình quản lý rủi ro, xếp hạng tín
dụng nội bộ phù hợp với các quy định của Basel II. Thành lập các quỹ hỗ trợ tổ chức tín
dụng giúp tổ chức tín dụng có thêm nguồn lực triển khai thực hiện Basel II. Có thể xem xét

nới tỷ lệ sở hữu cho một số đối tác quốc tế để tận dụng nguồn lực và kinh nghiệm thực hiện
Basel II của các tổ chức tín dụng quốc tế.
(3) Nhanh chóng tiến hành giải quyết nợ xấu một cách tích cực và hiệu quả hơn để
hoạt động hệ thống ngân hàng thực sự lành mạnh, tăng khả năng chịu đựng đối với những
thay đổi lớn về chính sách.
(4) Triển khai các dự án hiện đại hóa, tối ưu hóa công nghệ và cơ sở dữ liệu gắn với
dự án tăng cường năng lực cơ quan thanh tra giám sát trong quá trình thực hiện Basel II và
tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý của NHNN. Sử dụng một cách tối ưu, đồng thời, tích cực
phát triển các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân
lực, hệ thống cơ sở dữ liệu và hệ thống công nghệ thông tin. Nghiên cứu hoàn thiện, nâng
cao năng lực Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC) thuộc NHNN để có thể cung cấp các dữ
liệu về nhân khẩu, tình hình quan hệ của khách hàng,... phục vụ việc xây dựng các mô hình
lượng hóa rủi ro NHNN và NHTM.
Từ phía NHTM
(1) Mỗi ngân hàng có thể lựa chọn một mô hình quản trị RRHĐ khác nhau tùy thuộc
vào đặc điểm hoạt động và các yêu cầu riêng của NHTM. NHTM xác định rõ cấu trúc ngân
hàng để thực hiện theo Basel tùy thuộc vào quy mô, điểm mạnh, điểm yếu, mục tiêu của
từng loại, từng nhóm ngân hàng. Hội đồng quản trị cũng phải là người chịu trách nhiệm
chính trong việc lựa chọn một mô hình quản trị RRHĐ phù hợp với đặc điểm của ngân
hàng. Ngân hàng cần nhanh chóng xây dựng các cơ chế chính sách về quản trị RRHĐ riêng.
Các chính sách quản trị nhân lực cần hướng tới mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực có chất
lượng cao, đạo đức nghề nghiệp tốt; các quy trình nghiệp vụ cần được rà soát thường
xuyên, hoàn thiện hóa, tránh quá cứng nhắc và có lỗ hổng..
(2) Xây dựng cơ sở dữ liệu tổn thất và quy trình thu thập là yếu tố hàng đầu để thiết
lập và triển khai hệ thống quản trị RRHĐ hiệu quả, tin cậy. Mục tiêu: nhằm ghi nhận các sự


kiện tổn thất do các nhóm rủi ro tác nghiệp gây ra; giúp cho các cấp quản lý có cơ sở để tập
trung vào các mảng hoạt động có nhiều rủi ro hoặc rủi ro cao trong hệ thống ngân hàng và
tính toán nhu cầu vốn cho mục đích dự phòng... Mỗi NHTM xây dựng quy trình giám sát

hồ sơ RRHĐ và hệ thống báo cáo thích hợp. Cơ chế báo cáo phù hợp cần phải có ở cấp độ
hội đồng quản trị, ban điều hành, đơn vị kinh doanh nhằm tạo điều kiện chủ động quản trị
RRHĐ. Hệ thống báo cáo cần được xây dựng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các cơ quan
quản lý như Ngân hàng Nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu quản trị nội bộ.
(3) NHTM cần nghiên cứu các công cụ đo lường RRHĐ. Trên thế giới, các công cụ đo
lường RRHĐ vẫn đang trong giai đoạn phát triển. NHTM Việt Nam cần học hỏi kinh
nghiệm trong quản lý RRHĐ ở các NHTM nước ngoài như: xây dựng các tiêu chí để giám
sát các loại RRHĐ, phương pháp lượng hóa RRHĐ,phương pháp phân tích tình huống tại
cấp ngân hàng và cấp phòng ban hoặc kết hợp định tính và định lượng tại cấp ngân hàng,
cấp phòng ban, và theo loại sản phẩm/ loại rủi ro.
(4) NHTM phải áp dụng triệt để 4 vấn đề chính với việc tuân thủ 11nguyên tắc vàng của
Basel trong quản trị RRHĐ: NHTM tăng cường kiểm soát chéo ở các nghiệp vụ thực hiện
cũng rất cần thiết trong phòng tránh và giảm thiểu RRHĐ. Cần minh bạch hóa rủi ro tác
nghiệp và được đưa vào trong báo cáo chung để Ban điều hành biết và giám sát được
RRHĐ xuất phát từ bộ phận, cá nhân nào, nguyên nhân gốc rễ do đâu… Thường xuyên
đánh giá chiến lược kinh doanh một cách có hệ thống các giả định căn bản để hiểu rõ các
rủi ro của bản thân một chiến lược đó, ngoài việc tránh các sai lầm/ rủi ro mà còn có thể
giúp tận dụng được các cơ hội mới cho NHTM. Chấp nhận các rủi ro nhất định và chấp
nhận ở mức độ nào chính là việc cân bằng giữa rủi ro và lợi ích có thể đạt được, giữa các
lợi ích ngắn hạn và sự phát triển trong dài hạn. NHTM phải xây dựng các phương án, đưa
ra tình huống để sẵn sàng đối phó cũng như khắc phục kịp thời hậu quả do các lỗi truyền
thông... để hạn chế tối đa các nguyên nhân RRHĐ bên ngoài. Giải pháp cơ bản cho việc đưa
ra quyết định lựa chọn thay thế là: công nhận rủi ro hiện hữu, chuyển đổi rủi ro cho bên thứ
ba. (thông qua bảo hiểm); tránh rủi ro bằng cách ngừng các hoạt động kinh doanh; giảm
thiểu rủi ro hoạt động bằng đo lường các rủi ro khác.
(5) Đầu tư để xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Đầu tư cho hệ thống
CNTT cũng rất quan trọng, nhất là khi chúng ta muốn có các căn cứ đầy đủ cho đánh giá
cũng như lượng hóa RRHĐ trong tương lai. NHTM xây dựng ngân hàng dữ liệu về RRHĐ
và sử dụng công nghệ hiện đại trong phân tích, xử lý RRHĐ. Hệ thống công nghệ thông tin
và vận hành cần được bảo dưỡng và cập nhật thường xuyên.Việc sử dụng công nghệ thông

tin hiện đại là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác quản trị ngân
hàng, trong đó có công tác quản trị rủi ro./.
Tài liệu tham khảo:
1. Kỷ yếu hộ thảo Khoa học Quốc gia “ Áp dụng Basel II trong quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt
Nam: Cơ hội – Thách thức và lộ trình thực hiện” , Nhà xuất bản Đại học Kinh Tế Quốc Dân năm 2017.
2. CẤU TRÚC NGÂN
HÀNG THEO CHUẨN BASEL II: PHÂN TÍCH CÁC TIỀN ĐỀ VÀ ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN BASEL II TẠI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM PGS.TS. Đào Minh Phúc1 TS. Nguyễn Khương Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3. />

4.TS. LÊ THANH TÂM & PHẠM BÍCH LIÊN- QUẢN TRỊ RỦI RO HOẠT ĐỘNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI
HỌC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM; TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 20 NĂM 2009
5.Quản trị rủi ro tác nghiệp của ngân hàng theo Basel II - Tình huống ngân hàng Thương mại Cổ phần An Bình. Trịnh
Quốc Trung, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG HCM - Phạm Thu Thủy,Ngân hàng TMCP An Bình
6. />


×