VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HUỆ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HUỆ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận băn bảo đảm tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan
Trần Thị Huệ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN............................................................................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn và thi hành
hình phạt tù có thời hạn............................................................................. 6
1.2. Các nguyên tắc thi hành hình phạt có thời hạn ................................ 16
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI
HẠN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH QUẢNG NINH ............... 22
2.1. Pháp luật thi hành hình phạt tù có thời hạn ..................................... 22
2.2. Những kết quả đạt được ................................................................... 44
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân ....................................... 51
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT
TÙ CÓ THỜI HẠN....................................................................................... 60
3.1. Yêu cầu đối với việc thi hành phạt tù có thời hạn ........................... 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
về thi hành hình phạt tù có thời hạn........................................................ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 80
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự HPTCTH
:
Hình phạt tù có thời hạn TAND
:
Toà án nhân dân TANDTC
: Toà án
nhân dân tối cao TANDCC
: Toà án
nhân dân cấp cao THAHS
: Thi
hành án hính sự XHCN
chủ nghĩa
Nxb
: Nhà xuất bản
: Xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống hình phạt nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới,
HPTCTH có vị trí, vai trò quan trọng, được áp dụng phổ biến nhất trong thực tiễn
xét xử của Tòa án. Theo thống kê của TANDTC, cũng như TAND tỉnh Quảng Ninh
cho thấy, hàng năm tỷ lệ người phạm tội bị kết án phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ
lớn nhất. Tuy nhiên, bản án kết án phạt tù có thời hạn của Tòa án chỉ có hiệu lực,
hiệu quả khi nó được thi hành trên thực tế, HPTCTH mà Tòa án quyết định áp dụng
đối với người bị kết án mới có tác dụng phòng ngừa chung cũng như phòng ngừa
riêng. Mặc dù vậy, việc thi hành HPTCTH ở tỉnh Quảng Ninh cũng như trên phạm
vi cả nước bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót
như: công tác quản lý nhà nước về thi hành án phạt tù còn sơ hở; trình tự, thủ tục thi
hành án phạt tù vẫn còn tình trạng chậm chuyển bản án, chậm ra quyết định và giao
quyết định thi hành án phạt tù cho người bị kết án; chậm áp giải người bị kết án đến
trại giam; chất lượng công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân chưa cao; công tác
hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân chưa được đầu tư đúng mức, chưa đáp ứng
nhu cầu lao động xã hội; cơ sở giam giữ, hệ thống theo dõi, giám sát phạm nhân
chưa thật sự đảm bảo.v.v.. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này trước hết
là do các quy định của Luật THAHS năm 2010 về thi hành án phạt tù sau một thời
gian áp dụng đã bộc lộ một số bất cập đặc biệt là chưa thể chế hóa kịp thời quy định
của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người; quyền công dân; không còn phù hợp
với những quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
BLTTHS năm 2015, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật thi
hành tạm giữ, tạm giam năm
2015... đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Trong khoa học pháp lý,
những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù vẫn chưa được làm rõ một cách hệ
thống, toàn diện, nên vẫn còn những quan điểm khác nhau về thi hành hình phạt tù.
Như vậy, xét trên cả bình diện lý luận, thực tiễn và pháp lý đòi hỏi phải
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về thi hành hình phạt tù nhằm
làm sâu sắc thêm về mặt lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học và thực tiễn để
sửa đổi, bổ sung Luật THAHS năm 2010 cũng như bảo đảm áp dụng đúng đắn các
1
quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù trên thực tế, qua đó góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã được
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.
Đây cũng là lý do mà học viên chọn đề tài: “Thi hành hình phạt tù có thời
hạn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm
luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
THAHS nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng là một chủ đề được nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu, do vậy có nhiều công trình đã được công bố về chủ đề
này ở cả phương diện lý luận, thực tiễn, tư vấn và giải pháp. Điển hình là các công
trình tiêu biểu sau đây:
+ Các công trình nghiên cứu lý luận gồm: Giáo trình Luật THAHS (giáo
trình sau đại học) của tác giả Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh, Nxb. Khoa học xã
hội, năm 2013; Bình luận Khoa học Luật THAHS năm 2010 của tác giả Nguyễn
Ngọc Anh (chủ biên).v.v.
Trong các công trình này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về THAHS,
trong đó có thi hành án phạt tù ở mức độ cơ bản, khái quát nhất hoặc bình luận làm rõ
nội dung pháp lý của các quy định trong Luật THAHS năm 2010. Đây là cơ sở lý
luận để học viên triển khai thực hiện đề tài luận văn của mình.
Ngoài hệ thống giáo trình còn có một số cuốn sách chuyên khảo bàn về
THAHS, trong đó có vấn đề thi hành án phạt tù, điển hình là: cuốn “Pháp luật
THAHS Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Võ Khánh Vinh
và Nguyễn Mạnh Kháng, Nxb Tư pháp năm 2006; cuốn “Hoàn thiện quản lý nhà
nước trong lĩnh vực THAHS ở Việt Nam” của tác giả Võ Trọng Hách, Nxb Tư pháp
năm 2006; cuốn “Một số vấn đề về THAHS” của tác giả Trần Quang Tiệp, Nxb
Công an nhân dân năm 2002;
Trong những cuốn sách chuyên khảo này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý
luận về THAHS ở các khía cạnh khác nhau như: Pháp luật về THAHS, quản lý nhà
nước về THAHS.v.v., trong đó có nội dung đề cập đến thi hành án phạt tù. Đây là
những tài liệu bổ ích để học viên tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
Thêm vào đó, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành hình phạt tù còn có các luận
án, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, cấp bộ đã được công bố
mà học viên được tiếp cận như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở “Thi hành án
phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Trung Thành làm
chủ nhiệm đề tài; đề tài cấp bộ “Tổ chức thi hành án phạt tù cho phạm nhân là
người nước ngoài trong các trại giam của Bộ Công an” do tác giả Nguyễn Hữu
Duyện làm chủ nhiệm; luận văn thạc sĩ “Thi hành hình phạt tù” của tác giả Nguyễn
Văn Nông, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, năm 1997; Luận văn thạc sĩ
“Thi hành hình phạt tù theo pháp luật THAHS Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đã
Nẵng” của tác giả Hồ Tấn Thanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2017.v.v. Đây là
những công trình nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án phạt tù nên có ý nghĩa rất
lớn đối với việc định hướng nghiên cứu đề tài luận văn của học viên.
Nghiên cứu các khía cạnh khác nhau có liên quan đến THAHS còn có các bài
báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số vấn đề lý
luận về chính sách pháp luật THAHS” của tác giả Lê Cảm, tạp chí Kiểm sát số
10/2016; “Những vấn đề lý luận chung về chính sách pháp luật THAHS” của tác
giả Võ Khánh Vinh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện Khoa học xã hội năm
2019; “Những nội dung cơ bản của Cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án
của tác giả Nguyễn Văn Nghĩa”, tạp chí Dân chủ pháp luật số 8/2006; “Đảm bảo
quyền con người trong thi hành án phạt tù ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức
Phúc, tạp chí Nhà nước và pháp luật năm 2007; “Vấn đề cấm tra tấn và việc hoàn
thiện pháp luật thi hành án phạt tù” của tác giả Nguyễn Quang Vũ, tạp chí Khoa
học pháp lý số 4/2016; “Điều kiện đảm bảo hiệu quả hoạt động THAHS” của tác
giả Bùi Kiên Điện, tạp chí Luật học số 6/2007; “Những vấn đề rút ra từ thực tiễn
thi hành Luật THAHS năm 2010” của tác giả Vũ Huy Thuận, tạp chí Kiểm sát số
4/2018; “Thực trạng công tác THAHS và những kiến nghị” của tác giả Nguyễn
Phong Hòa, tạp chí TAND số 21/2006; “Chính sách thi hành án phạt tù đối với
phạm nhân dưới 18 tuổi” của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019; “Vấn đề hoàn thiện pháp luật thi hành
án phạt tù trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay” của tác giả Nghiêm Xuân
Minh, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học, Học viện Khoa học xã hội, năm 2019...
Như vậy, mặc dù có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề
THAHS nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng, nhưng chưa có công trình nào đề
cập đến vấn đề thi hành án phạt tù có thời hạn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ninh. Do vậy có thể xác định đề tài luận văn của học viên không trùng
lặp với các công trình khoa học, luận án, luận văn đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi các
quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù tại tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng
tới mục đích đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về thi
hành hình phạt tù, cũng như những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về thi hành HPTCTH.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải tập trung thực hiện các nhiệm vụ
sau:
+ Phân tích làm rõ các vấn đề lý luận về thi hành HPTCTH.
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về thi hành án phạt tù có thời
hạn, chỉ ra những mặt tích cực cũng như những hạn chế, bất cập trong các quy định
đó cần tiếp tục hoàn thiện.
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng thi hành HPTCTH tại tỉnh Quảng Ninh, chỉ ra
những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
về thi hành phạt tù có thời hạn trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn bao gồm: Những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt tù.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu vấn đề thi hành HPTCTH trong phạm vi
lý luận chuyên ngành luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật THAHS;
+ Về thực tiễn: Luận văn này tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và thi
hành
HPTCTH trên cả hai phương diện luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật THAHS.
+ Về không gian, thời gian: Tại tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp, về bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong thi hành
HPTCTH. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành luật tố tụng
hình sự và luật THAHS để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để nghiên cứu đề tài này, học viên đã sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia... để làm
rõ đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm lý luận
chuyên ngành về thi hành HPTCTH.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để sửa đổi, bổ sung Luật
THAHS năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan, cũng như để đảm bảo
chất lượng, hiệu quả thi hành HPTCTH trên thực tế.
Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, làm tài
liệu giảng dạy trong các cơ sở đào tạo ngành luật, chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự, THAHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được cấu trúc thành ba Chương:
+ Chương 1. Những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù có thời hạn;
+ Chương 2. Pháp luật về thi hành hình phạt tù có thời hạn và thực tiễn áp
dụng tại tỉnh Quảng Ninh;
+ Chương 3. Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tù có thời hạn.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn và thi hành hình
phạt tù có thời hạn
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn
* Khái niệm hình phạt tù có thời hạn:
Dưới góc độ khoa học pháp lý, đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm
về hình phạt có thể kể đến như các khái niệm:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định
trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm nhằm
trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ
chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết
định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế
quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật về hình sự.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quy định
trong luật hình sự do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội và được thể
hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ trở
thành người có ích cho xã hội, không phạm tội mới, giáo dục mọi công dân có ý
thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Khái niệm về hình phạt cũng được đề cập trong BLHS 2015, theo đó: “Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong
Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương
mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó”. Đây được coi là khái niệm thể hiện đầy đủ nhất bản chất, phù hợp
với phạm vi điều chỉnh của BLHS 2015 khi chủ thể của tội phạm ngoài cá nhân thì
còn cả đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
Theo luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt chính và
hình phạt bổ sung. Có 08 hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo
không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. Các hình phạt
bổ sung gồm có: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc
nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản;
Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là
hình phạt chính. Hình phạt tù có thời hạn nằm trong hình phạt chính, được sắp xếp
theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm khắc phù hợp với mức độ nghiêm
trọng, nguy hiểm khác nhau của các loại tội phạm. Theo quy định tại Điều 38 BLHS
hiện hành “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ
sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một
tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.”
Từ các khái niệm trên có thể hiểu hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng buộc người bị kết án
phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.
* Đặc điểm:
- HPTCTH là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước:
Tính nghiêm khắc của HPTCTH thể hiện ở nội dung và hậu quả pháp lý của
hình phạt này. Nội dung của HPTCTH thể hiện ở việc tước bỏ, hạn chế quyền tự do
thân thể của người bị kết án trong một thời gian nhất định. Hình phạt tù có thời hạn
buộc người bị kết án được hòa nhập với cộng đồng, cách ly khỏi môi trường sống
và các hoạt động bình thường của họ trước khi bị kết án. Người bị kết án phạt tù có
thời hạn phải chấp hành hình phạt tại có sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam) nơi
có chế độ giam giữ và cải tạo chặt chẽ và nghiêm khắc. Trong trại cải tạo, người bị
kết án phải lao động, học tập để tự cải tạo trở thành người lương thiện, không phạm
tội mới.
Như vậy, so với cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ thì HPTCTH
nghiêm khắc hơn nhiều, nhưng so với tù chung thân (tù không thời hạn), tử hình thì
HPTCTH ít nghiêm khắc hơn.
Tính nghiêm khắc của HPTCTH còn thể hiện ở hậu quả pháp lý của hình phạt
này, đó là sau khi chấp hành xong HPTCTH, người bị kết án vẫn phải mang án tính
trong một thời hạn do pháp luật quy định.
- HPTCTH được quy định trong BLHS:
Đây là đặc điểm phản ánh tính chất pháp lý của HPTCTH. Trong BLHS hiện
hành, HPTCTH được quy định ở cả phần chung và phần tội phạm cụ thể. Điều 28
phần chung BLHS quy định bản chất, nội dung, thời hạn, phạm vi áp dụng
HPTCTH. Theo khoản 1 Điều 38 BLHS thì mức tối thiểu của HPTCTH là 03 tháng
và mức tối đa là 20 năm. Trường hợp người bị kết án phạm nhiều tội thì tổng hợp
hình phạt chung không được quá 30 năm. Thời gian giam giữ trước khi xét xử tại
nhà tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày
tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 38 BLHS thì “Không áp dụng HPTCTH đối
với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng”. Đây
là một quy định mới thể hiện chính sách hình sự nhân đạo, hướng thiện trong xử lý
người phạm tội đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW cảu Bộ chính trị
ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. là sự cụ thể hóa quy
định của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người.
Quy định này nhằm hạn chế tối đa việc áp dụng HPTCTH, mở rộng phạm vi
áp dụng những hình phạt không tước tự do của người bị kết án trong thực tế xét xử.
Trong phần các tội phạm của BLHS hiện hành có 317 điều luật quy định về tội
phạm thì có tới 291 điều luật có quy định HPTCTH (chiếm 91,79%); chỉ có khoản 1
của 25 điều luật và khoản 4 của 1 điều luật là không quy định HPTCTH mà thay
vào đó là cải tạo không giam giữ là hình phạt nặng nhất. Còn trong các khung hình
phạt khác, HPTCTH được quy định riêng hoặc quy định cùng với các hình phạt
chính khác để Tòa án lựa chọn khi áp dụng. Trong các khung hình phạt có quy định
HPTCTH, nhà làm luật đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt này.
Đối với trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án chỉ được phép tuyên HPTCTH trong
giới hạn tối thiểu và tối đa của khung hình phạt được áp dụng. Tòa án không được
quyền tuyên quá mức tối đa của khung hình phạt, nhưng trong trường hợp có nhiều
tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS thì Tòa án có thể áp
dụng Điều 54 BLHS để quyết định HPTCTH dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn. Tuy nhiên, Tòa án không thể tuyên phạt tù dưới mức 03 tháng vì đó là mức
thấp nhất của HPTCTH mà luật định.
- HPTCTH chỉ do Tòa án quyết định áp dụng đối với cá nhân người phạm tội
bị kết án. Đặc điểm này cho thấy, trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thì
chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền nhân danh Nhà nước quyết định HPTCTH đối với
người bị kết án. Ngoài Tòa án, thì không có một cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
nào có thẩm quyền này.
Mặt khác, HPTCTH chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội bị kết
án, bởi hình phạt là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm. Do vậy, HPTCTH
phải nhằm chống lại chính bản thân người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm được
quy định trong BLHS thì mới có thể đạt được mục đích phòng ngừa riêng. Thêm
vào đó tại khoản 1 Điều 2 BLHS hiện hành có quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. HPTCTH với tính
chất là một trong những biện pháp trách nhiệm hình sự, nên cũng chỉ có thể áp dụng
đối với vá nhân người phạm một tội đã được BLHS quy định. Do tính chất đặc biệt
của HPTCTH nên hình phạt này không được áp dụng đối với pháp nhân thương mại
phạm tội (với tư cách là một tổ chức kinh tế) nhưng vẫn có thể áp dụng đối với cá
nhân của pháp nhân khi hành vi của họ được thực hiện nhân danh pháp nhân thương
mại, vì lợi ích của pháp nhân thương mại hoặc được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc sự chấp thuận của pháp nhân thương mại (khoản 1 Điều 75).
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tù có thời hạn
* Khái niệm thi hành hình phạt tù có thời hạn
Hiện nay trong khoa học pháp lý cũng như trong luật thực định có một số khái
niệm (thuật ngữ) có liên quan đến thi hành hình phạt tù như: “chấp hành hình phạt
tù”; “Thi hành án phạt tù”; “Thi hành bản án phạt tù”
Cụ thể: Trong BLHS hiện hành khi quy định những vấn đề liên quan đến thi
hành hình phạt tù nói chung (tù có thời hạn, tù chung thân), nhà làm luật đã sử dụng
một số thuật ngữ như: “Hoãn chấp hành hình phạt tù” (Điều 67); “Tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù” (Điều 68). Còn trong BLTTHS hiện hành khi đề cập đến
vấn đề trên, nhà làm luật lại sử dụng thuật ngữ “Thi hành bản án, quyết định của
Tòa án” (Trong phần thứ 5 BLTTHS). Trong Luật THAHS năm 2010 thì lại sử
dụng thuật ngữ “Thi hành án phạt tù” (Chương III, Điều 21, Điều 22) hoặc thuật
ngữ “Chấp hành án phạt tù” (Điều 23, Điều 24...). Như vậy, trong Luật THAHS
năm 2010 có sự phân biệt giữa các khái niệm “Thi hành án phạt tù” và khái niệm
“Chấp hành án phạt tù”. Vấn đề đặt ra ở đây là phải chăng giữa các khái niệm này
có cùng nội hàm? Vậy, khái niệm thi hành hình phạt tù có quan hệ như thế nào với
các khái niệm nêu trên. Đây là vấn đề cần nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận.
Trước hết, về khái niệm “chấp hành HPTCTH”. Theo Đại từ điển tiếng Việt,
thuật ngữ “chấp hành” được giải nghĩa là “làm đúng theo điều mà tổ chức quyết
định, đề ra” [56, tr.246]. Qua đây có thể hiểu: “Chấp hành HPTCTH là việc người
bị kết án thực hiện đúng bản án, quyết định phạt tù có thời hạn mà Tòa án tuyên
phạt đối với họ”. Còn thuật ngữ “thi hành” thì được giải nghĩa là “Thực hiện điều
đã chính thức quyết định” [56, tr.1497]. Từ logic này, có thể hiểu: “Thi hành
HPTCTH là việc cơ quan, người có thẩm quyền buộc người bị kết án phải chấp
hành bản án, quyết định phạt tù có hiệu lực pháp luật của Tòa án trong một thời
hạn nhất định”. Với ý nghĩa như vậy, theo chúng tôi, thi hành HPTCTH bao hàm
hai loại hoạt động của hai chủ thể khác nhau: Một là, hoạt động của người bị kết án
chấp hành bản án, quyết định phạt tù có thời hạn của Tòa án; Hai là, hoạt động của
cơ quan, người có thẩm quyền buộc người bị kết án phải chấp hành HPTCTH mà
Tòa án quyết định áp dụng đối với họ. Như vậy, khái niệm “thi hành HPTCTH” có
nội hàm rộng hơn khái niệm “chấp hành HPTCTH” cả về chủ thể, cả về nội dung:
Chủ thể chấp hành HPTCTH chỉ là người bị kết án; còn chủ thể thi hành HPTCTH
không chỉ có người bị kết án mà còn cả Tòa án đã xét xử sơ thẩm và cơ quan
THAHS có thẩm quyền. Nội dung của chấp hành hình phạt tù chỉ bao gồm hoạt
động chấp hành bản án phạt tù có thời hạn của người bị kết án; còn nội dung của thi
hành HPTCTH bao gồm hai loại hoạt động:
+ Một là, hoạt động của người bị kết án trong việc chấp hành bản án phạt tù có
thời hạn
+ Hai là, hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành bản
án, quyết định phạt tù có thời hạn.
Hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành bản án, quyết
định phạt tù có thời hạn lại bao hàm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có hoạt
động ra quyết định thi hành án của chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án, hoạt
động của Tòa án trong việc miễn chấp hành, giảm thời hạn chấp hành HPTCTH, tha
tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù.
Bên cạnh hoạt động của Tòa án, thi hành HPTCTH, còn có hoạt động thi hành
án phạt tù của Cơ quan THAHS.
Theo khoản 3 Điều 3 Luật THAHS thì “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan
người có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản
lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội”. Như vậy,
khái niệm “thi hành án phạt tù” được dùng để chỉ những hoạt động (chủ yếu có
tính chất thủ tục) của Cơ quan THAHS trong việc buộc phạm nhân phải chịu sự
quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đối
tượng thi hành án phạt tù có thời hạn là phạm nhân, tức là “người đang chấp hành
án phạt tù có thời hạn...” (khoản 2 Điều 3 Luật THAHS năm 2010). Từ những quy
định này cho thấy, thi hành án phạt tù có thời hạn được tiến hành kể từ khi Cơ quan
THAHS có thẩm quyền tiếp nhận người bị kết án phạt tù có thời hạn để thi hành án
tại cơ sở giam giữ, tức là buộc họ (phạm nhân) phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo
dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Những hoạt động này chủ yếu là
hoạt động tiếp nhận người phải chấp hành HPTCTH, tổ chức quản lý giam giữ
phạm nhân, thực hiện các chế độ học tập, lao động; chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt,
chăm sóc sức khỏe... đối với phạm nhân; hoạt động thi hành một số quyết định liên
đến thi hành án phạt tù (như: Thi hành quyết định chấp hành án phạt tù; quyết định
tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, quyết định tiếp nhận, chuyển giao đối với người
đang chấp hành án phạt tù) và một số hoạt động khác (như: xử lý phạm nhân vi
phạm, giải quyết trường hợp phạm nhân trốn, trả tự do cho phạm nhân...). Qua đây
thấy rằng, thi hành án phạt tù có thời hạn của Cơ quan THAHS chỉ là một bộ phận
của thi hành HPTCTH.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu: “Thi hành HPTCTH là hoạt động áp
dụng pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước, tính cưỡng chế nghiêm khắc, tính
định hướng, mục đích do Cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật thực hiện dựa trên những nguyên tắc nhất định, theo trình tự, thủ tục
pháp lý chặt chẽ nhằm đưa bản án phạt tù có thời hạn đã có hiệu lực pháp luật ra
thi hành trên thực tế nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án phạt tù có thời hạn trở
thành người lương thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới cũng như giáo dục
người khác có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống
tội phạm”.
* Đặc điểm
Thi hành hình phạt tù có thời hạn có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thi hành HPTCTH là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan,
người có thẩm quyền nhằm bảo đảm các quy định của pháp luật về thi hành hình
phạt tù được hiện thực hóa trên thực tế.
Đặc điểm này cho thấy, thi hành HPTCTH là hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật THAHS. Những quy phạm pháp luật
của ba ngành luật này đều điều chỉnh hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền
trong việc thi hành HPTCTH.
Trong BLHS hiện hành, Những quy định có liên quan đến thi hành HPTCTH
bao gồm: quy định về HPTCTH (Điều 38); quy định về thời hiệu thi hành bản án
(Điều 60); quy định về không áp dụng thời hiệu thi hành bản án (Điều 61); quy định
về miễn chấp hành hình phạt (Điều 62); quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên
(Điều 63); quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
(Điều 64); quy định về án treo (Điều 65); quy định về tha tù trước thời hạn có điều
kiện (Điều 66); quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù (Điều 67); quy định về tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù (Điều 68).
Trong BLTTHS hiện hành, những quy định liên quan đến thi hành hình phạt
tù gồm: quy định về bản án, quyết định được thi hành ngay (Điều 363); quy định về
thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án (Điều 364); quy định về giải thích,
sửa chữa bản án, quyết định của Toà án (Điều 365) và quy định về giải quyết kiến
nghị đối với bản án, quyết định của Toà án (Điều 366).
Trong Luật THAHS năm 2010, những quy định liên quan trực tiếp đến thi
hành án phạt tù gồm những quy định về thủ tục thi hành án và chế độ quản lý giam
giữ, giáo dục phạm nhân (Mục 1, từ Điều 21 đến Điều 41); những quy định về chế
độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (Mục 2, từ Điều 42 đến
Điều 49); những quy định đối với phạm nhân là người chưa thành niên (người dưới
18 tuổi) (Mục 3, từ Điều 50 đến Điều 53). Những quy định này chỉ có thể được hiện
thực hóa khi được áp dụng trong thực tiễn bởi cơ quan, người có thẩm quyền.
Thứ hai, chủ thể có thẩm quyền thi hành hình phạt tù vừa là cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, vừa là cơ quan, người có thẩm quyền trong
lĩnh vực hành chính- tư pháp.
Theo quy định của Điều 364 BLTTHS, chủ thể có thẩm quyền thi hành
HPTCTH trước hết là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đó là
TAND đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Cụ thể: “Chánh án TAND đã xét xử sơ
thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho chánh án Toà án
khác cùng cấp ra quyết định thi hành án” (trong đó có thi hành án phạt tù có thời
hạn); Chánh án đã ra quyết định thi hành án có thẩm quyền ra quyết định giảm mức
hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Chủ thể có thẩm quyền thi hành án phạt tù có thời hạn là cơ quan THAHS
thuộc Bộ Công an (gồm trại giam thuộc Bộ công an, Cơ quan THAHS Công an
tỉnh, Cơ quan THAHS Công an huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); Cơ
quan THAHS Bộ quốc phòng (gồm: trại giam thuộc Bộ quốc phòng, trại giam thuộc
quân khu, cơ quan THAHS quân khu và tương đương); Cơ quan được giao một số
nhiệm vụ THAHS như: trại tạm giam thuộc Bộ công an, trại tạm giam thuộc. Bộ
quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu
(Điều 10). Đây là những cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền thi hành án
phạt tù có thời hạn, một hoạt động có tính chất hành chính - tư pháp.
Thứ ba, người phải chấp hành HPTCTH là người phạm tội, bị TAND xét xử
sơ thẩm hình sự và kết án phạt tù có thời hạn trong bản án đã có hiệu lực pháp luật
(người phải chấp hành án). Do vậy, pháp nhân thương mại không phải là đối tượng
phải chấp hành hình phạt tù.
Thứ tư, thi hành HPTCTH là hoạt động có nội dung hết sức phong phú, đa
dạng. Nội dung của thi hành hình phạt tù bao gồm tất cả những hoạt động
nhằm bảo
đảm bản án phạt tù có thời hạn được thi hành trên thực tế. Những hoạt động này có
thể là hoạt động của TAND trong việc ra quyết định thi hành án, quyết định giảm
mức hình phạt đã tuyên, quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường
hợp đặc biệt, quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, quyết định hoãn chấp
hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù....và chuyển giao các quyết
định đó cho Cơ quan thi hành án. Thuộc nội dung của thi hành HPTCTH còn có các
hoạt động của Cơ quan, người có thẩm quyền THAHS, đó là: hoạt động quản lý
giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân để họ sớm trở thành người lương thiện,
không phạm tội mới, thực hiện một số chế độ đối với phạm nhân, triển khai các
chương trình chuẩn bị cho phạm nhân sau khi mãn hạn tù có điều kiện tái hòa nhập
cộng đồng (chẳng hạn như dạy nghề).v.v.
Thứ năm, hoạt động thi hành HPTCTH được tiến hành theo một trình tự, thủ
tục pháp lý chặt chẽ. Thi hành HPTCTH tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quyền và
lợi ích thiết thân của người bị kết án, nhất là quyền con người, do vậy hoạt động này
phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ sáu, thi hành HPTCTH mang tính quyền lực Nhà nước, tính cưỡng chế
nghiêm khắc, tính định hướng, mục đích rõ ràng.
Hoạt động thi hành HPTCTH do Cơ quan Nhà nước và người có thẩm quyền
thực hiện để một người bị kết án phạt tù có thời hạn phải chấp hành hình phạt tại cơ
sở giam giữ và Cơ quan tổ chức quản lý, giam giữ, cải tạo, giáo dục họ nhanh chóng
sớm trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới (tái phạm).
Khi thực hiện nhiệm vụ thi hành HPTCTH, cơ quan và người có thẩm quyền nhân
danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án phạt tù phải
chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ. Đối với người bị kết án tù có thời hạn nếu
không chịu chấp hành hình phạt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không
chấp hành án theo Điều 380 BLHS hiện hành, còn đối với người bị kết án phạt tù có
thời hạn đang tại ngoại mà không có mặt để đến cơ sở giam giữ chấp hành án sẽ bị
áp dụng biện pháp áp giải. Do vậy, thi hành HPTCTH là hoạt động mang tính quyền
lực Nhà nước.
Hoạt động thi hành hình phạt tù không chỉ mang tính quyền lực Nhà nước mà
còn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc, bởi việc buộc người bị kết án phạt tù phải
chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo tại cơ sở giam giữ (trại giam, trại tạm
giam) đã hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị kết án phạt tù. Họ phải cách ly
khỏi môi trường xã hội bên ngoài, phải lao động, học tập, cải tạo dưới sự quản lý
hết sức chặt chẽ của cơ sở giam giữ theo một chế độ nghiêm ngặt.
Bên cạnh đó, thi hành HPTCTH còn là hoạt động có tính định hướng, mục
đích rõ ràng.
Hoạt động thi hành HPTCTH với tính chất là hoạt động áp dụng pháp luật
luôn hướng tới mục đích, thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Trước hết, thi hành
HPTCTH có nhiệm vụ bảo đảm hình phạt tù mà Tòa án quyết định áp dụng đối với
người bị kết án trong bản án đã có hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh trên thực tế. Đây là nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng, bởi nếu HPTCTH
đã được tuyên trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật không được chấp
hành, thực hiện hoặc chấp hành, thực hiện không đầy đủ thì toàn bộ quá trình tố
tụng hình sự trước đó (như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) khó mà có ý nghĩa đầy
đủ. Mặt khác, HPTCTH mà Tòa án tuyên phạt người bị kết án không được thực hiện
trên thực tế, người bị kết án phạt tù vẫn ở môi trường xã hội bên ngoài thì rất khó
giáo dục được người dân ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù có thời hạn trở
thành người lương thiện, có ích cho xã hội, tạo mọi điều kiện cho họ tái hoà nhập
cộng đồng, phòng ngừa họ phạm tội lại (tái phạm) là một trong những mục đích
mà hoạt động thi hành hình phạt tù cần đặt ra và hướng tới. Trong tình hình hiện
nay, công tác thi hành HPTCTH luôn quán triệt phương hướng “đề cao hiệu quả
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội” đã được đề ra
trong nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp năm 2020, hướng tới bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý và công
bằng xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, quyền năng tố tụng của
người bị kết
án phạt tù có thời hạn. Để đạt được mục đích, thực hiện được nhiệm vụ đặt ra
trên đây thì công tác thi hành HPTCTH phải dựa trên những nguyên tắc tiến bộ, có
tính chất chỉ đạo hoạt động thi hành án phạt tù.
1.2. Các nguyên tắc thi hành hình phạt có thời hạn
Nguyên tắc cơ bản trong THHPTCTT là những phương châm, định hướng chi
phối toàn bộ giai đoạn THHPTCTT trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật
về THHPTCTT. Những nguyên tắc này thể hiện chính sách hình sự, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta là kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án.
Vì vậy, trong quá trình xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật để THHPTCTT,
những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự và Luật THAHS cần được quán
triệt và thực hiện nghiêm chỉnh.
Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Bộ luật tố tụng hình sự quy định
trình tự, thủ tục tếp nhận, giải quyết nguồn tn về tội phạm, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng
hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như
vậy, những nguyên tắc cơ bản của THAHS nói chung và THHPTCTT nói riêng được
quy định cụ thể trong Chương 2 "Những nguyên tắc cơ bản" của BLTTHS năm 2015
và Điều
4 "Nguyên tắc thi hành án hình sự" của Luật THAHS năm 2010:
- Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong THHPTCTT:
Pháp chế xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu pháp luật được ban hành và áp
dụng trong thực tế cuộc sống phải được thực thi nghiêm chỉnh, kiên quyết
đấu tranh chống tình trạng vi phạm pháp luật. Thực tế áp dụng pháp luật chỉ ra,
không phải tất
cả mọi công dân, mọi cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước đều tự giác
tuân thủ pháp luật, mặc dù họ đề biết đó là vi phạm pháp luật. Chính điều này đặt
ra yêu cầu tối cao của pháp chế xã hội chủ nghĩa là phải phát hiện và xử lý nghiêm
những trường hợp vi phạm pháp luật, xử lý một cách bình đẳng, không kể vi phạm
đó là nhỏ hay lớn, nghiêm trọng hay không nghiêm trọng và người vi phạm có hay
không có vị trí, chức vụ nào trong xã hội; những nội dung trên chỉ được xem xét cân
nhắc trong quá trình quyết định hình thức xử lý vi phạm. Nội dung của nguyên tắc
này thể hiện ở việc các quy định của pháp luật về thi hành bản án phạt tù phải
được tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh, nhất quán. Yêu cầu đó, trước hết phải
được quán triệt trong toàn bộ công tác tổ chức và trong hoạt động tác nghiệp của
các cơ quan, cán bộ, chiến sĩ thi hành bản án phạt tù. Các cơ quan thi hành án có
trách nhiệm tổ chức thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật, không được tùy tiện, vô tổ chức, thiếu kỷ luật, coi thường
pháp luật trong lĩnh vực thi hành bản án và xử lý nghiêm minh mọi biểu hiện vi
phạm pháp luật khi thi hành bản án, bao gồm những vi phạm pháp luật từ phía
những người có nghĩa vụ chấp hành bản án và những người có trách nhiệm tổ
chức việc thi hành án. Bản án, Quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực phải được
thi hành trên thực tế.
Đối với bản án phạt tù có thời hạn đã có hiệu lực thì Chánh án Tòa án đã xét
xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy quyền cho Tòa án khác ra quyết
định thi hành án trong một thời hạn nhất định. Khi nhận được quyết định thi
hành án, cơ quan THHPTCTT và người phải chấp hành án phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức phải tạo điều kiện cho cơ quan thi hành án
thực hiện đúng thẩm quyền của mình, nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thi
hành án.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền con người, các quyền cơ bản của công dân trong
THHPTCTT:
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của