ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ HUẾ
GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN JM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ HUẾ
GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN JM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Nhƣ Phát
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Huế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP 5
1.1. Khái niệm về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp 5
1.1.2. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của giải thể doanh nghiệp 10
1.1.3. Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp khác chấm dứt hoạt động
của doanh nghiệp 13
1.2. Các hình thức giải thể doanh nghiệp 19
1.2.1. Hình thức giải thể tự nguyện 19
1.2.2. Hình thức giải thể bắt buộc 24
1.3. Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp 33
1.3.1. Quyết định giải thể doanh nghiệp 33
1.3.2. Thanh lý tài sản và thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp 35
1.3.3. Hoàn tất thủ tục giải thể doanh nghiệp 35
1.4. Thực trạng giải thể doanh nghiệp ở nước ta hiện nay 36
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN JM 43
2.1. Bối cảnh giải thể công ty cổ phần JM 43
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty cổ phần JM 43
2.1.2. Tiến trình giải thể Công ty cổ phần JM 48
2.2. Thực tiễn thi hành Pháp luật về giải thể tại Công ty cổ phần JM 52
2.2.1. Về áp dụng giải thể tự nguyện 52
2.2.2. Về điều kiện giải thể 56
2.2.3. Về trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp 58
2.2.4. Về hậu quả pháp lý sau khi giải thể doanh nghiệp 68
2.2.5. Những vấn đề pháp lý đặt ra qua vụ giải thể Công ty cổ phần JM 69
2.3. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về giải
thể doanh nghiệp 71
2.3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về giải thể doanh nghiệp 71
2.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về giải thể doanh nghiệp73
2.3.3. Một số giải pháp cụ thể áp dụng trong thực tế nhằm đáp ứng yêu cầu cụ thể
giải thể doanh nghiệp 79
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
Danh mục các bảng
Bảng 2.1
38
Bảng 2.2
39
Hình vẽ, đồ thị
Hình 2.1
37
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chủ thể chủ yếu của nền kinh tế thị trường chính là các doanh nghiệp. Bởi
vậy, nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp trong đời sống kinh tế - xã
hội là cần thiết. Do đó, nhu cầu hiểu biết pháp luật doanh nghiệp càng trở nên thiết
yếu.
Cũng giống như các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội, doanh nghiệp
có “đời sống” riêng của nó. Doanh nghiệp ra đời, phát triển, thay đổi và cũng có thể
sẽ mất đi ở một thời điểm nhất định. Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều có thể
phải trải qua các giai đoạn giống nhau của một vòng đời, mặc dù thời gian của các
giai đoạn này có thể dài ngắn khác nhau. Hiểu biết pháp luật doanh nghiệp không
chỉ bó hẹp trong phạm vi lúc doanh nghiệp bắt đầu hoạt động mà phải là hiểu biết
toàn diện bao gồm về thời kỳ chấm dứt số phận pháp lý doanh nghiệp bằng thủ tục
giải thể, phá sản…
Doanh nghiệp có thể chấm dứt sự tồn tại dưới nhiều cách thức trong đó chủ
yếu là hai hình thức giải thể hoặc phá sản. Giải thể doanh nghiệp được coi là việc
“khai tử‟ doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng buộc phải giải thể làm nảy sinh
nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ giữa các
thành viên trong doanh nghiệp, quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp,
quan hệ giữa doanh nghiệp giải thể với người lao động. Vì vậy, việc giải quyết kịp
thời các vấn đề của việc giải thể doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng nhằm thiết lập
một trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo quyền và
lợi ích của các bên liên quan.
Hơn nữa hiện nay, trong tình trạng kinh tế khủng hoảng sâu và rộng trên toàn
cầu, số lượng doanh nghiệp giải thể ngày càng nhiều. Nhu cầu thực hiện thủ tục giải
thể của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể, trong khi đó, việc thi hành pháp luật về
giải thể doanh nghiệp vẫn còn nhiều điểm vướng mắc. Xuất phát từ thực tiễn như
vậy, tác giả chọn đề tài “Giải thể doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực
2
tiễn áp dụng tại công ty cổ phần JM” làm đề tài nghiên cứu để thực hiện luận văn
thạc sĩ luật học.
Các vấn đề cơ bản của giai đoạn giải thể doanh nghiệp đã được quy định khá
cụ thể trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam. Các
công trình nghiên cứu có tính chất độc lập, chuyên sâu hay tổng quát về vấn đề này
cũng không ít. Tuy nhiên, đề tài luận văn thông qua việc phân tích thực tiễn áp dụng
pháp luật giải thể tại một công ty cụ thể để nêu bật lên những điểm vênh giữa luật
và thực tiễn áp dụng. Đề tài này về cơ bản cũng không trùng lặp với những công
trình nghiên cứu đã có trong giới luật học.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so sánh,
đối chiếu, luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ
các quy định trong lĩnh vực giải thể doanh nghiệp. Từ đây có thể tìm kiếm và phát
hiện những tiến bộ, thiếu sót của pháp luật Việt nam, làm định hướng để đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện khung pháp luật về vấn đề này. Để thực hiện được mục
đích nêu trên thì trước hết luận văn có những mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về doanh nghiệp, đặc biệt là giải thể doanh
nghiệp. Xác định vấn đề “giải thể doanh nghiệp” là vấn đề trung tâm của luận văn,
cần đào sâu tìm hiểu một cách đúng đắn và toàn diện.
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý đặc thù của giải thể doanh nghiệp, trong đó
tập trung vào vấn đề mang tính bản chất của giải thể doanh nghiệp.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật giải thể tại công
ty cổ phần JM.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giải thể
doanh nghiệp.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, pháp luật về doanh nghiệp đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu cũng như sách, tạp chí chuyên ngành như: Giáo trình Luật thương mại - Đại
học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật kinh tế - Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội;
3
“Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải” của nhóm tác giả Lê Tài Triển (chủ biên)
Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân; “Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam” -
Luận án tiến sĩ luật học của Ngô Huy Cương;…. Tương tự pháp luật về chấm dứt
hoạt động mà cụ thể là giải thể doanh nghiệp không ít như: Một số ý kiến về giải thể
phá sản doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn của Phạm Quý Ty,
Những quy định về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước,….Tuy vậy, chưa
có một đề tài nào, đi sâu phân tích thực tiễn thi hành pháp luật giải thể trong trường
hợp cụ thể này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Chế định pháp luật về doanh nghiệp là một chế định rộng, liên quan đến
nhiều yếu tố pháp lý lẫn thực tiễn như: các loại hình doanh nghiệp, các học thuyết
pháp lý về bản chất doanh nghiệp, thành lập, hoạt động., giải thể hoặc phá sản
doanh nghiệp.…Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả không nghiên cứu
toàn bộ quy định này mà chỉ tập trung vào giai đoạn chấm dứt hoạt động doanh
nghiệp cụ thể là “giải thể doanh nghiệp” để làm rõ các vấn đề có tính bản chất cần
thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Luận văn cũng làm rõ sự khác biệt giữa giải thể và phá sản doanh nghiệp,
cùng là quy định về chấm dứt hoạt động, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp. Do
đó, tác giả trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, không làm rõ về các quy định về
giai đoạn thành lập, hoạt động của công ty. Dù vậy, để có thể phân tích và hiểu vấn
đề một cách toàn diện đề tài nghiên cứu, một số vấn đề liên quan đến hoạt động
thành lập, hoạt động của doanh nghiệp cũng được đưa ra xem xét. Bởi các vấn đề
này nằm trong một quan hệ nhân quả, vòng đời của doanh nghiệp.
Tác giả trên cơ sở phân tích thực tiễn thi hành pháp luật giải thể tại một công
ty cụ thể, để đưa ra các khía cạnh cần điều chỉnh khi thi hành, áp dụng pháp luật
giải thể doanh nghiệp tại Việt Nam.
Về thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong thời gian từ tháng
6/2011 đến tháng 7/2013.
4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, dựa vào các văn
bản pháp luật của Việt Nam và thế giới về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp,
các sách, báo, bài viết tham khảo có liên quan…
Ngoài phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mac – Lênin, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, đối chiếu nhằm làm rõ vấn đề.
6. Kết quả nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở nước ta các quy định pháp lý điều chỉnh vấn đề giải thể doanh
nghiệp được quy định khá nhiều. Luận văn kế thừa những công trình nghiên cứu đã
có về các vấn đề liên quan nhưng vẫn phần nào thể hiện được tính mới của đề tài.
Đặc biệt trong bối cảnh thi hành pháp luật giải thể tại một trường hợp cụ thể, đề tài
mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ và toàn
diện hơn, làm cơ sở lý luận cho việc thi hành, áp dụng pháp luật giải thể doanh
nghiệp. Những phân tích và kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ có ý nghĩa thiết thực
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam đảm
bảo thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục luận văn được chia làm hai (02) chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải thể doanh nghiệp
Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật về giải thể doanh nghiệp tại công ty
cổ phần JM
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về doanh nghiệp và giải thể doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho mọi
người cùng tham gia phát triển kinh tế của nhà nước, nhiều chủ thể kinh doanh đã
tham gia thực hiện hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần của
nước ta. Trong đó, nhóm các chủ thể kinh doanh quan trọng nhất là các doanh
nghiệp. Tùy cách tiếp cận, khái niêm doanh nghiệp cũng được nhìn nhận khác nhau.
Nhìn từ góc độ kinh tế, doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế được thành lập
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và lấy hoạt động kinh doanh làm nghề chính. Nó
chỉ mang tính chất như một vỏ bọc hình thức để hợp pháp hoá các giao dịch, chi phí
và hoạt động kinh doanh của các thành viên công ty. Người ta xem doanh nghiệp
như một cái áo khoác pháp lý để thực hiện ý tưởng kinh doanh [9, tr. 250].
Nhìn từ góc độ pháp lý, doanh nghiệp là một chủ thể pháp luật, được tạo nên
bởi một sự kiện pháp lý, có nghề nghiệp kinh doanh và hoạt động với tư cách một
chủ thể độc lập. Thuật ngữ “doanh nghiệp” được dùng để chỉ một chủ thể kinh tế
độc lập, được thành lập và hoạt động dưới nhiều mô hình cụ thể với tên gọi khác
nhau. Theo đó, doanh nghiệp được xác lập bằng thủ tục thành lập và đăng ký kinh
doanh, có năng lực chủ thể để tham gia các quan hệ pháp luật và có quyền tự chủ
trong các hoạt động kinh doanh. Những chủ thể này có đặc trưng pháp lý trong việc
thành lập và hoạt động, nó phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định.
Muốn kinh doanh, các thương nhân chọn lấy một trong số những loại hình mà
người làm luật quy định.
Qua các thời kỳ, quan điểm pháp lý về doanh nghiệp cũng có những thay đổi
nhất định phù hợp với thực tiễn kinh doanh. Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước
bắt đầu được phát triển từ năm 1948. Theo Sắc lệnh số 104-SL do Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký ban hành ngày 01/01/1948, doanh nghiệp nhà nước lúc bấy giờ gọi là
doanh nghiệp quốc gia. Điều 2 của Sắc lệnh ghi nhận: “Doanh nghiệp quốc gia là
6
một doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc gia và do quốc gia điều khiển”.
Đến năm 1991, thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước” được chính thức sử dụng trong
Nghị định số 388-HĐBT năm 1991 [18, tr 177]. Tuy vậy, mãi tới năm 1995, mới có
những nỗ lực đầu tiên để “công ty hóa” về mặt ý niệm đối với doanh nghiệp nhà
nước. Cụ thể là, theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995: “Doanh nghiệp nhà nước
là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do
nhà nước giao”. Cũng theo luật này, Doanh nghiệp nhà nước tồn tại dưới các hình
thức: doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, doanh nghiệp thành viên của tổng công
ty. Và theo Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003, “doanh nghiệp nhà nước là tổ chức
kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, phần góp vốn chi
phối được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn.”
Tại Luật Công ty 1990, khái niệm về công ty được nêu tại điều 2 “Công ty
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh nghiệp
trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương
ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần vốn góp của mình góp vào công ty”. Có thể thấy ở giai đoạn này, luật
công ty của Việt Nam chỉ nhìn nhận hai loại hình chủ yếu được gọi là công ty đó là
công ty TNHH và công ty cổ phần, trong khi hợp danh là một loại hình công ty đã
tồn tại lâu đời và được ghi nhận ở hầu khắp các quốc gia lại chưa được đề cập đến.
Đây có thể xem là một điểm thiếu sót của các nhà làm luật, dẫn đến khái niệm về
doanh nghiệp bị bó hẹp trong phạm vi các loại hình doanh nghiệp.
Đến Luật doanh nghiệp 2005, mới có cách hiểu thống nhất về doanh nghiệp:
“Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh” [10, Điều 4]. Định nghĩa này cho thấy chỉ những
chủ thể kinh doanh thoả mãn những điều kiện trên mới có tư cách doanh nghiệp.
7
Như vậy, khái niệm “doanh nghiệp” được định nghĩa khác nhau trong các
văn bản pháp luật khác nhau, và được áp dụng phân biệt theo thành phần kinh tế.
Trong khi doanh nghiệp do tư nhân trong nước sở hữu lấy mục tiêu sinh lợi làm tiêu
chí đặc trưng hàng đầu, doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nước ngoài và khu vực
kinh tế nhà nước chủ yếu dựa vào tiêu chí sở hữu. Thậm chí, lợi nhuận không được
coi là mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước. Trong phạm vi đề tài luận văn,
tác giả tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp dân doanh, đặc biệt là mô hình
công ty.
1.1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Từ khái niệm doanh nghiệp được ghi nhận tại Điều 4 Luật doanh nghiệp
2005, có thể thấy doanh nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng. Theo đó, doanh
nghiệp trước hết phải là tổ chức kinh tế. Tổ chức kinh tế là một tổ chức được thành
lập ra bởi một người hoặc trên cơ sở liên kết, liên minh của hai hay nhiều người, tổ
chức. Sự liên kết của các thương nhân được thể hiện dưới hình thức bên ngoài là
một tổ chức. Các thương nhân trên cơ sở cùng chung mục đích, sự tin tưởng, vốn,
…đã liên kết với nhau theo những hình thức nhất định và tạo ra mô hình tổ chức
kinh doanh – gọi chung là doanh nghiệp. Tổ chức này có thể được thể hiện dưới
những mô hình nhất định và được thành lập ra với mục đích kinh doanh, tạo ra lợi
nhuận cho những người thành lập ra nó. Tùy theo quy định của pháp luật của mỗi
nước mà tổ chức kinh tế này có thể bao gồm nhiều loại mô hình cho các chủ thể lựa
chọn để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nó phản ánh cách thức
kinh doanh của chủ thể thành lập ra doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện một
hoặc tất cả các công đoạn của qúa trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ, những người có cùng mục đích, chung ý tưởng kinh doanh
liên kết với nhau để cùng tổ chức kinh doanh. Việc tổ chức kinh doanh dưới những
mô hình doanh nghiệp nhất định giúp các bên cùng chia sẻ rủi ro, cùng huy động
vốn và tổ chức kinh doanh lớn. Một trong những mô hình doanh nghiệp tổ chức
hoạt động kinh doanh có hiệu quả đó chính là mô hình các công ty thương mại. Như
8
vậy, doanh nghiệp về thực chất là một mô hình nhất định do các thương nhân, nhà
đầu tư lập ra trên cơ sở sự liên kết, tổ chức để tìm kiếm lợi nhuận. Mặc dù trên thực
tế, pháp luật Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới vẫn thừa nhận mô hình
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên – một loại hình doanh nghiệp chỉ có
một chủ sở hữu.
Thứ hai, doanh nghiệp có tài sản: doanh nghiệp được thành lập ra với mục
đích là kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận chia nhau. Để có thể tổ chức kinh doanh,
doanh nghiệp cần có tài sản. Do vậy, các thành viên phải bỏ ra một số tài sản để góp
vào doanh nghiệp. Số tài sản của các thành viên góp vào tạo thành tài sản của doanh
nghiệp. Đây là một điều kiện quan trọng để thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, vai
trò của tài sản đối với mỗi mô hình doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Trong xã
hội, khi nền sản xuất hàng hóa đã phát triển đến mức độ nhất định, để mở mang
kinh doanh các thương nhân cần phải có nhiều vốn, tài sản. Để đáp ứng nhu cầu về
vốn, tài sản cho kinh doanh, buộc các thương nhân phải liên kết với nhau. Mặt khác,
khi sản xuất hàng hóa càng phát triển thì sự cạnh tranh càng khốc liệt hơn, những
doanh nghiệp có vốn ít thường ở vị trí bất lợi. Như vậy, tài sản chính là một trong
những động lực để các thương nhân liên kết với nhau cùng tạo lập doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp có thể được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể là tài
sản trở thành vốn góp kinh doanh, cũng có thể là tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm
quản lý, tổ chức kinh doanh, Tài sản này là cơ sở, nguồn lực để doanh nghiệp hiện
thực hóa, tổ chức việc kinh doanh trong thực tiễn. Khi tiến hành kinh doanh, các
thương nhân sẽ đưa vào một số tài sản, vốn nhất định vào trong quá trình sản xuất.
Một số ngành nghề, lĩnh vực nhất đinh đòi hỏi doanh nghiệp có một lượng tài sản
nhất định để có thể kinh doanh.
Thứ ba, doanh nghiệp có trụ sở giao dịch ổn định. Khoản 1 Điều 35 Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định: Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc,
giao dịch của doanh nghiệp; phải ở trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác
định gồm số nhà, tên phố (ngõ phố) hoặc tên xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; số điện thoại, số fax
9
và thư điện tử (nếu có). Để thực hiện được việc liên lạc, giao dịch của doanh nghiệp
thì địa chỉ của trụ sở chính phải có tên trên bản đồ hành chính việt Nam, ở trên lãnh
thổ Việt Nam. Trụ sở của doanh nghiệp là nơi đặt cơ quan điều hành của doanh
nghiệp, nơi tiến hành hoạt động kinh doanh, nơi doanh nghiệp giao dịch với các bên
có liên quan và để xác định các mối quan hệ với cơ quan Nhà nước.
Ngoài ra, trụ sở doanh nghiệp cũng là nơi để các cơ quan quản lý thực hiện
chức năng kiểm tra, giám sát. Thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của
doanh nghiệp tại trụ sở, các cơ quan quản lý sẽ biết được thực tế hoạt động của
doanh nghiệp. Tuy vậy, đặc điểm về trụ sở giao dịch cố định, hiện nay không phải
là đặc điểm phổ biến của doanh nghiệp, khi các loại hình, mô hình doanh nghiệp
trong các lĩnh vực khác nhau ngày càng đa dạng.
Thứ tư, doanh nghiệp được đăng ký kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là việc
doanh nghiệp tiến hành các thủ tục theo luật định để được ghi nhận tại cơ quan có
thẩm quyền. Đây là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho doanh
nghiệp. Xét từ phía cơ quan nhà nước, nó thể hiện sự thừa nhận tư cách pháp lý của
doanh nghiệp. Với tư cách là một chủ thể trong nền kinh tế, doanh nghiệp được nhà
nước thừa nhận và trao cho các quyền và nghĩa vụ nhất định cũng như sẽ được bảo
đảm về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh.
Ở nhiều nước trên thế giới, việc đăng ký kinh doanh được tiến hành tại tòa
án. Ở nước ta, việc đăng ký kinh doanh được thực hiện tại cơ quan đăng ký kinh
doanh thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh
nghiệp đặt trụ sở chính [18, tr129].
Tùy mô hình doanh nghiệp được lựa chọn, người thành lập doanh nghiệp lập
và nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng tại cơ quan đăng ký kinh doanh và chịu
trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ. Cơ quan đăng ký kinh doanh
xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Không được yêu cầu người thành lập công ty nộp thêm các tài liệu,
giấy tờ không được quy định.
10
Sau khi thực hiện đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã được ghi nhận
vào sổ đăng ký kinh doanh. Kể từ thời điểm này, doanh nghiệp có tư cách chủ thể
kinh doanh và nhân danh chính mình thực hiện các hoạt động kinh doanh.
1.1.2 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của giải thể doanh nghiệp
1.1.2.1 Khái niệm của giải thể doanh nghiệp
Chặng đường hình thành và phát triển của doanh nghiệp luôn trải qua những
giai đoạn khác nhau. Thông thường, người ta thường chia tiến trình của con đường
kinh doanh làm bảy giai đoạn, bao gồm [16]: Giai đoạn “gieo hạt”, khởi động, phát
triển, ổn định, mở rộng, suy thoái và cuối cùng là tan rã. Trong đó, “tan rã” là giai
đoạn mà việc kinh doanh không thể tiếp tục thực hiện, đã đi đến thoái trào, buộc
chủ thể doanh nghiệp phải chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp. Đây chính là thời
điểm “chấm dứt” sự tồn tại của doanh nghiệp khi doanh nghiệp không thể thích ứng
được với các yêu cầu của thị trường hoặc khi các chủ doanh nghiệp không có nhu
cầu tiếp tục kinh doanh. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp trên thương trường
là một vấn đề quan trọng thể hiện những nội dung pháp lý cơ bản của doanh nghiệp.
Trong khoa học pháp lý, việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp thông thường
được thực hiện dưới nhiều cách thức khác nhau và giải thể doanh nghiệp là một
cách thức như vậy.
Theo từ điển tiếng Việt, giải thể có nghĩa là không còn hoặc làm cho không
còn đủ điều kiện tồn tại như một tổ chức nữa, các thành viên phân tán đi. Theo đó,
giải thể doanh nghiệp có nghĩa là doanh nghiệp không còn hoặc bị làm cho không
còn đủ điều kiện tồn tại, các thành viên trong doanh nghiệp phân tán đi, không còn
liên kết với nhau nữa. Xuất phát từ đặc điểm doanh nghiệp được tạo nên chủ yếu
bởi sự liên kết thì ngược lại giải thể doanh nghiệp chính là việc làm mất, phá vỡ sự
liên kết này. Giải thể doanh nghiệp là một cách “khai tử” cho doanh nghiệp. Việc
chủ sở hữu doanh nghiệp không muốn tiếp tục thực hiện hoạt động kinh doanh nữa
có thể bắt nguồn từ nhiều lý do khác nhau như tỷ suất lợi nhuận không cao, mâu
thuẫn nội bộ doanh nghiệp, triển vọng kinh tế trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh
11
của doanh nghiệp không có nhiều hứa hẹn trong tương lai. Trong trường hợp này
chủ sở hữu doanh nghiệp có thể đi đến quyết định giải thể để thu hồi vốn hoặc
chuyển sang kinh doanh những loại hình doanh nghiệp khác, kinh doanh với những
chủ thể khác. Đây hoàn toàn là quyết định mang tính cá nhân của các chủ sở hữu
doanh nghiệp (giải thể tự nguyện). Bên cạnh đó, cũng có trường hợp doanh nghiệp
buộc phải giải thể theo một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (giải thể bắt buộc).
1.1.2.2 Bản chất pháp lý của giải thể doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, giải thể doanh nghiệp là việc doanh nghiệp chấm
dứt hoạt động kinh doanh khi thấy sự tồn tại của doanh nghiệp không còn cần thiết
hoặc bị giải thể theo quy định của pháp luật. Nghĩa là bản thân doanh nghiệp có thể
tự mình quyết định việc giải thể doanh nghiệp hoặc bị buộc phải tiến hành giải thể
theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi vi phạm một trong các quy
định pháp luật đặt ra.
Đối với trường hợp doanh nghiệp tự mình chấm dứt sự tồn tại của mình,
pháp luật trao cho doanh nghiệp được toàn quyền quyết định việc có giải thể hay
không, có nghĩa là lí do giải thể ở đây sẽ phụ thuộc vào ý chí và sự lựa chọn rộng
rãi của doanh nghiệp. Các chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể tiến hành giải thể
doanh nghiệp với bắt cứ lí do gì, khi cho rằng sự tồn tại của doanh nghiệp là không
còn có lợi cho họ, hoặc có thể vì bất cứ lí do nào khác…Điều này cũng đảm bảo
được một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và sở hữu của chủ doanh nghiệp.
Giải thể doanh nghiệp trước hết là quyền của các chủ sở hữu doanh nghiệp, bởi họ
tự nguyện hùn vốn thành lập doanh nghiệp thì họ cũng cơ quyền tự thoả thuận việc
giải thể doanh nghiệp. Các chủ sở hữu doanh nghiệp với tư cách là người “khai
sinh” ra doanh nghiệp thì cũng cơ quyền “khai tử” cho doanh nghiệp khi cần.
Các chủ sở doanh nghiệp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận và đi đến quyết định
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Xét về bản chất, quyết định giải thể là một
hợp đồng cộng đồng (mục đích ngược lại là hợp đồng công ty), mà tại đó các chủ sở
hữu của doanh nghiệp cùng nhau thỏa thuận, thể hiện ý chí của mình là chấm dứt sự
12
tồn tại của doanh nghiệp. Nó có hiệu lực bắt buộc ràng buộc đối với tất cả các thành
viên, cổ đông trong doanh nghiệp, kể cả những người không tham gia giao kết
(không biểu quyết tán thành).
Đối với trường hợp doanh nghiệp bị buộc phải chấm dứt sự tồn tại của mình
theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền bằng hình thức giải thể. Doanh nghiệp, nếu
rơi vào một trong các trường hợp pháp luật quy định, cơ quan Nhà nước sẽ yêu cầu
chủ sở hữu doanh nghiệp phải ra quyết định giải thể. Như vậy, việc chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp là phụ thuộc vào ý chí của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thông qua việc yêu cầu chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện thủ tục giải thể.
Như vậy, xét về bản chất, giải thể doanh nghiệp chính là hợp đồng cộng
đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương trước pháp luật và nhà nước, phụ thuộc vào
ý chí của bản thân doanh nghiệp hoặc ý chí của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.2.3 Đặc điểm của giải thể doanh nghiệp
Như đã phân tích ở trên, giải thể doanh nghiệp, xét về bản chất là hành vi
pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng cộng đồng. Do vậy, nó mang đầy đủ đặc điểm
của hành vi pháp lý đơn phương hay hợp đồng cộng đồng mang tính tổ chức. Thủ
tục giải thể là một thủ tục mang tính chất hành chính nhằm chấm dứt hoạt động (tư
cách pháp nhân) của một doanh nghiệp. Giải thể trước hết là công việc nội bộ của
doanh nghiệp, nhưng để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, các cổ đông hoặc thành
viên của công ty mà nhà nước phải quy định và can thiệp vào các quyết định giải
thể của các chủ sở hữu doanh nghiệp. Việc giải thể có thể do những nguyên nhân
khách quan hoặc chủ quan về cơ bản thuộc quyền tự do của các chủ doanh nghiệp.
Giải thể doanh nghiệp mang những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến giải thể doanh nghiệp rất đa dạng song về cơ
bản những nguyên nhân này phụ thuộc ý chí chủ quan của chủ doanh nghiệp. Các
nguyên nhân này được thể hiện thông qua quy định về các trường hợp doanh nghiệp
giải thể.
Thứ hai, điều kiện để cơ quan có thẩm quyền cho phép giải thể doanh
nghiệp: một doanh nghiệp chỉ được phép giải thể khi doanh nghiệp đó bảo đảm và
13
thực sự thanh toán hết các khoản nợ và thanh lý hết mọi hợp đồng đã ký kết. Điều
này có nghĩa là, doanh nghiệp giải thể trước khi tiến hành chấm dứt sự tồn tại của
mình trên thị trường phải hoàn thành mọi nghĩa vụ tài chính, khoản nợ mà bên này
xác lập đối với các bên. Có thể thấy rằng, đây là một điều kiện tiên quyết, để cơ
quan có thẩm quyền chấp nhận việc giải thể của doanh nghiệp. Nếu không, để chấm
dứt sự tồn tại, doanh nghiệp chỉ có thể đăng ký phá sản.
Thứ ba, hậu quả pháp lý: giải thể doanh nghiệp sẽ dẫn tới việc loại trừ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, chấm dứt tư cách pháp lý của doanh nghiệp trên
thương trường bằng cách xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh.
Thứ tư, chế tài pháp lý đối với chủ doanh nghiệp và người chịu trách nhiệm
quản lý điều hành doanh nghiệp: giải thể không đặt ra vấn đề hạn chế, cấm đảm
đương, chức vụ điều hành doanh nghiệp hoặc cấm thực hiện một số hoạt động kinh
doanh đối với chủ doanh nghiệp và người chịu trách nhiệm quản lý điều hành doanh
nghiệp.
Thứ năm, thủ tục giải thể tuy có thể là tự nguyện song vẫn là một thủ tục
mang tính chất hành chính do cơ quan hành chính chấp thuận trong quá trình giám
sát việc giải thể doanh nghiệp (cơ quan đăng ký kinh doanh). Mục đích của hoạt
động chấp thuận này suy cho cùng chỉ là để đảm bảo lợi ích của các chủ nợ của
doanh nghiệp. Vì vậy, về nguyên tắc, khi doanh nghiệp chưa thanh toán hết các
khoản nợ mà cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp thì chính cơ quan
này phải chịu trách nhiệm “trả nợ thay”.
1.1.3 Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp khác chấm dứt hoạt
động của doanh nghiệp
1.1.3.1 Phân biệt giải thể doanh nghiệp với phá sản doanh nghiệp
Giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp đều là thủ tục chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giữa giải thể và phá sản doanh nghiệp về cơ
bản là khác nhau:
Thứ nhất, khác nhau về nguyên nhân của hiện tượng: Giải thể doanh nghiệp
xuất phát chủ yếu từ ý chí của chủ sở hữu doanh nghiệp khi mà mục đích của doanh
14
nghiệp không đạt được hay là do hoạt động của doanh nghiệp không đạt hiệu quả
mà việc chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp là sẽ có lợi hơn. Giải thể doanh
nghiệp cũng có thể xuất phát từ ý chí của cơ quan quản lý nhà nước theo yêu cầu
quản lý nhà nước khi mà doanh nghiệp không còn đủ điều kiện tồn tại hay có vi
phạm pháp luật. Trong khi đó, phá sản doanh nghiệp chỉ một lý do duy nhất là khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đó là khi doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
Thứ hai, khác nhau về chủ thể quyết định áp dụng thủ tục. Giải thể doanh
nghiệp về cơ bản là theo quyết định của chủ sở hữu doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp rơi vào các trường hợp giải thể thì chủ sở hữu doanh nghiệp trực tiếp hoặc
thông qua cơ quan đại diện của doanh nghiệp ra quyết định giải thể. Trên cơ sở
quyết định giải thể này doanh nghiệp sẽ tiến hành các thủ tục để giải thể. Đối với
hình thức giải thể bắt buộc theo ý chí của nhà nước thì sau đó doanh nghiệp vẫn là
chủ thể ra quyết định giải thể và tiến hành thủ tục giải thể. Trong khi đối với phá
sản doanh nghiệp thì chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định
tuyên bố phá sản và tiến hành các thủ tục phá sản.
Thứ ba, khác nhau về trình tự thủ tục thực hiện. Giải thể doanh nghiệp là thủ
tục mang tính hành chính, chủ yếu do cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện. Đối
với phá sản doanh nghiệp là áp dụng theo trình tự, thủ thục tư pháp, chủ yếu do Tòa
án thực hiện.
Thứ tư, khác nhau về điều kiện tiến hành. Doanh nghiệp chỉ được tiến hành
giải thể khi đã thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp. Trong khi đó, đối với
phá sản, doanh nghiệp bị áp dụng thủ tục phá sản mất khả năng thanh toán nợ. Cụ
thể, khi doanh nghiệp tiến hành thủ tục giải thể các nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp
phải được thanh toán đầy đủ. Trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản, Tòa án có
thể áp dụng thủ tục phục hồi kinh doanh, khi thủ tục phục hồi kinh doanh không
hiệu quả Tòa án ra quyết định thanh lý tài sản và quyết định tuyên bố doanh nghiệp
bị phá sản. Do mất khả năng năng toán nợ nên các khoản nợ chỉ được thanh toán
15
trong phạm vi giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp đó hưởng
quy chế trách nhiệm hữu hạn: Pháp nhân).
Thứ năm, khác nhau về thủ tục thanh lý tài sản. Khi giải thể, về nguyên tắc
doanh nghiệp sẽ thanh toán tất cả các khoản nợ nên chính doanh nghiệp sẽ chủ động
đứng ra thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ. Trong khi phá sản, do doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ nên quyền của doanh nghiệp đối với tài sản bị hạn chế.
Phần tài sản còn lại của doanh nghiệp (tài sản phá sản) phải giao cho Tổ quản lý,
thanh lý tài sản (do Tòa án quyết định thành lập) để quản lý và thanh toán cho các
chủ nợ.
Thứ sáu, khác nhau về chế tài pháp lý đối với chủ doanh nghiệp và người
chịu trách nhiệm quản lý điều hành doanh nghiệp. Đối với người quản lý điều hành
doanh nghiệp bị giải thể thì vấn đề giới hạn quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp không được đặt ra, bởi lẽ, giải thể xuất phát chủ yếu từ ý chí của doanh
nghiệp khi mà mục đích doanh nghiệp không đạt được. Tuy nhiên, đối với người
quản lý điều doanh nghiệp bị phá sản, xuất phát từ nguyên nhân của việc áp dụng
thủ tục phá sản là doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ dẫn đến tình
trạng không có khả năng thanh toán nợ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là có
việc quản lý điều hành doanh nghiệp yếu kém, sai lầm. Trên cơ sở đó, mà người
quản lý điều hành doanh nghiệp bị phá sản sẽ bị hạn chế quyền thành lập doanh
nghiệp.
Thứ bảy, khác nhau về hậu quả khi áp dụng thủ tục. Đối với giải thể doanh
nghiệp, sau khi hoàn thành thủ tục giải thể thì về mặt pháp lý doanh nghiệp không
còn tồn tại. Đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp, sau khi áp dụng thủ tục phá sản
thì, theo nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, Tòa án có thể áp dụng thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh. Nếu thủ tục phục hồi kinh doanh có hiệu quản thì Tòa án sẽ
quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, khi đó
doanh nghiệp vẫn tiếp tục tồn tại. Như vậy, sau khi áp dụng thủ tục phá sản thì về
mặt pháp lý doanh nghiệp vẫn có thể tồn tại.
16
1.1.3.2 Phân biệt giải thể doanh nghiệp với các trường hợp tổ chức lại doanh
nghiệp
Trước tiên, cần phải xác định các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp như
sau:
Chia doanh nghiệp, là trường hợp một doanh nghiệp (công ty TNHH hoặc
công ty cổ phần) được chia thành một số doanh nghiệp cùng loại. Khi chia doanh
nghiệp, công ty bị chia chấm dứt tồn tại sau khi các công ty mới được đăng ký kinh
doanh. Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa
thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị chia hoặc
thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong số các công ty
đó thực hiện các nghĩa vụ này.
Tách doanh nghiệp, là trường hợp một doanh nghiệp (công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty cổ phần) thành lập một hoặc một số doanh nghiệp mới cùng
loại (bằng cách chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp hiện có hoặc chuyển một
phần quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị tách sang doanh nghiệp được tách).
Khi tách doanh nghiệp thì một hoặc một số doanh nghiệp mới được thành lập nhưng
không chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp bị tách. Doanh nghiệp bị tách và doanh
nghiệp được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh
toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị tách.
Hợp nhất doanh nghiệp, là trường hợp hai hoặc một số doanh nghiệp (công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh) cùng loại hợp nhất
thành một doanh nghiệp mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp hợp nhất. Khi hợp nhất doanh nghiệp thì một
doanh nghiệp mới được thành lập, đồng thời chấm dứt tồn tại của các doanh nghiệp
bị hợp nhất. Doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp,
chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất.
Sáp nhập doanh nghiệp, là trường hợp một hoặc một số doanh nghiệp (công
ty cổ phần, công ty trách nhiện hữu hạn, công ty hợp danh) cùng loại có thể sáp
17
nhập vào một doanh nghiệp khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp sang doanh nghiệp nhận sáp nhập. Khi sáp nhập doanh nghiệp
thì doanh nghiệp mới không được thành lập (doanh nghiệp được sáp nhập vẫn tồn
tại) nhưng các doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sẽ tồn tại. Doanh nghiệp nhận
sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản
nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
bị sáp nhập.
Chuyển đổi doanh nghiệp, là trường hợp chuyển đổi qua lại giữa các loại
hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi thành
công ty cổ phần hoặc ngược lại; doanh nghiệp tư nhân có thể được chuyển đổi thành
công ty trách nhiệm hữu hạn (chuyển đổi hình thức pháp lý). Sau khi đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; doanh nghiệp chuyển đổi
được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa
thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp được
chuyển đổi.
Như vậy, các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp về bản chất là do chính
chủ sở hữu doanh nghiệp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh.
Phân biệt các trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp với giải thể doanh
nghiệp:
Thứ nhất, khác nhau về chủ thể quyết định. Đối với giải thể doanh nghiệp thì
chủ thể quyết định có thể do chính chủ sở hữu doanh nghiệp quyết định và cũng có
thể do cơ quan nhà nước quyết định thông qua việc thu hồi giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh. Khi doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
thì buộc phải tiến hành giải thể. Đối với tổ chức lại doanh nghiệp thì chủ thể quyết
định chính là chủ sở hữu doanh nghiệp.
Thứ hai, khác nhau về nguyên nhân quyết định. Nguyên nhân của giải thể
doanh nghiệp có thể là xuất phát từ ý chí chủ quan của chủ sở hữu doanh nghiệp khi
mà mục đích của doanh nghiệp không đạt được và cũng có thể xuất pháp từ ý chí
18
của nhà nước khi mà điều kiện tồn tại của doanh nghiệp không còn hoặc do doanh
nghiệp có sự vi phạm pháp luật. Trong khi việc tổ chức lại doanh nghiệp chỉ có thể
xuất phát từ nguyên nhân duy nhất là do ý chí của chủ sở hữu doanh nghiệp. Nhà
nước với vai trò quản lý không thể can thiệp vào để buộc doanh nghiệp phải tổ chức
lại mà nó phụ thuộc hoàn toàn vào chính doanh nghiệp.
Thứ ba, khác nhau ở mục đích khi tiến hành thủ tục. Đối với giải thể doanh
nghiệp mục đích nhằm chấm dứt hoạt dộng kinh doanh của doanh nghiệp do việc
kinh doanh không đạt mục đích hay do hoạt động kinh doanh không hiệu quả. Việc
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp sẽ có lợi hơn đối với những chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Đối với tổ chức lại doanh nghiệp, mục đích là nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp hoặc chuyển đổi cơ cấu quản lý
của doanh nghiệp nhưng không làm chấm dứt sự tồn tại các quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp.
Thứ tư, khác nhau ở thời điểm hoàn thành thủ tục. Đối với giải thể doanh
nghiệp thì thủ tục giải thể được xem là hoàn thành khi mà cơ quan đăng ký kinh
doanh xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Khi đó các quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp xem như chấm dứt. Đối với tổ chức lại doanh nghiệp, có
thể doanh nghiệp sẽ bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh như khi chuyển đổi,
hợp nhất, chia doanh nghiệp nhưng không thể xem đây là thời điểm hoàn thành thủ
tục. Thủ tục chỉ được hoàn thành khi doanh nghiệp mới được thành lập (được ghi
nhận trong sổ đăng ký kinh doanh).
Thứ năm, khác nhau ở hậu quả pháp lý. Đối với giải thể doanh nghiệp, sau
khi hoàn thành thủ tục thì doanh nghiệp được xem là giải thể nghĩa là chấm dứt sự
tồn tại của doanh nghiệp, các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp không được kế
thừa. Chủ sở hữu của doanh nghiệp chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý do những hậu
quả của việc giải thể doanh nghiệp không đúng pháp luật. Nhưng đối với việc tổ
chức lại doanh nghiệp thì về bản chất doanh nghiệp vẫn tồn tại mặc dù thực tế
doanh nghiệp được tổ chức lại có thể không còn tồn tại về mặt pháp lý. Tuy nhiên,