Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn huyện ý yên, tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.26 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM CÔNG TRÌNH

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo quy định của Học viện
Khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa
học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ................................................................................. 7

1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn ........................ 7
1.2. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn ...................... 12
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH ............................................... 27

2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện
Ý Yên, tỉnh Nam Định ............................................................................................ 27
2.2. Những kết quả đạt được trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa
bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ........................................................................... 30
2.3. Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt tù có thời
hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định ....................................................... 34
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG HÌNH PHẠT
TÙ CÓ THỜI HẠN ......................................................................................................... 55

3.1. Giải pháp về hoàn thiện quy định của pháp luật .............................................. 56
3.2. Giải pháp về áp dụng pháp luật ........................................................................ 65
3.3. Giải pháp đối với những cơ quan tiến hành tố tụng ......................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... ....... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 73



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự

HSST

Hình sự sơ thẩm

NXB

Nhà xuất bản

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác
định: Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp… Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
[30]. Nhiệm vụ quan trọng trên đặt ra yêu cầu cho Tòa án nhân dân phải nâng
cao hơn nữa chất lượng xét xử trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển,
quyền con người ngày được coi trọng và đề cao. Hình phạt tù có thời hạn tước
tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, ảnh hưởng rất lớn
tới người đó cũng như gia đình họ. Vì vậy, quyết định hình phạt tù có thời hạn
đòi hỏi cần phải chính xác, hợp tình, hợp lý, đủ sức răn đe giáo dục với người bị
kết án và giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội.
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân cho thấy việc quyết định hình phạt
còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế; nhất là quyết định hình phạt tù có thời hạn.
Trong nhiều trường hợp hình phạt đối với bị cáo không tương xứng với tính chất
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Có những trường hợp, những người
phạm cùng một tội danh, có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm và nhân thân
người phạm tội tương tự nhau, nhưng hình phạt do Tòa án quyết định lại rất
khác nhau hoặc có trường hợp được hưởng án treo, có trường hợp không được
hưởng án treo. Điều này làm giảm hiệu quả của hình phạt, gây mất niềm tin của
xã hội vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Mặt khác, Bộ luật hình sự 2015 được ban hành trong đó sửa đổi bổ sung
nhiều quy định so với Bộ luật hình sự 1999, tuy nhiên một số điểm hạn chế của

luật cũ chưa được khắc phục trong khi những sai sót mới lại phát sinh. Do đó,
Quốc hội đã phải ban hành Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 lùi hiệu
lực thi hành của Bộ luật Hình sự 2015 để sửa đổi bổ sung; kể từ 01/7/2016, các

1


quy định có lợi cho người phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015
vẫn được thực hiện. Nghiên cứu Bộ luật Hình sự 2015 để tìm ra những ưu điểm
và hạn chế còn tồn tại, nhất là đối với chế định quyết định hình phạt, từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là địa bàn có diện tích rộng, có nhiều
tuyến giao thông huyết mạch đi qua, tiếp giáp với nhiều đơn vị hành chính
khác, kinh tế tương đối phát triển dẫn tới dân số tăng nhanh về cả tự nhiên và
cơ học; tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp. Trong những năm qua, công
tác xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý Yên tỉnh Nam Định về cơ bản đạt kết
quả tốt, đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại
địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng phát sinh nhiều bất cập, nhất là
trong quyết định hình phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân xuất phát từ cả yếu tố
khách quan và chủ quan dẫn tới quyết định hình phạt không chính xác đối với
người phạm tội.
Vì vậy, nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn quyết định hình phạt tù có
thời hạn, trên cơ sở đó đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật hình sự,
giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn xét xử đặt ra, đảm bảo sự nhận thức
thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa
quan trọng. Đây cũng là lý do mà tác giả chọn đề tài “Quyết định hình phạt tù
có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về chế định quyết định

hình phạt nói chung và quyết định hình phạt tù nói riêng.
Về sách giáo trình, sách chuyên khảo, sách bình luận có các công trình
sau: Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật Hình sự Việt Nam Phần
chung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014 do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên; Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật hình sự Việt Nam (phần

2


chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001 do GS.TS Lê Cảm chủ biên;
Chương Quyết định hình phạt trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I,
NXB Công an nhân dân, 2011 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Chương Quyết
định hình phạt trong Đề tài Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (Phần chung), Chủ nhiệm đề tài TS. Uông Chu Lưu, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội - 2001; Sách Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của tác giả TS. Lê Văn Đệ.
Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận cũng như làm rõ
các đặc trưng pháp lý của quyết định hình phạt, mối liên hệ giữa quyết định hình
phạt với các vấn đề khác của luật hình sự.
Ngoài ra, một số bài viết cũng được công bố trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành như: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình
sự của tác giả Trần Thị Quang Vinh, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2/2000, tr.
17; Vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự của tác
giả Dương Tuyết Miên, tạp chí Luật học Số 6/2000, tr. 30 – 34; Quyết định hình
phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội của tác giả Lê Văn Đệ, tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Số 1/2003, tr. 58 – 62; Quyết định hình phạt tù đối với người
chưa thành niên phạm tội của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án nhân dân,
Số 5/2003, tr. 6 – 8.
Ở cấp độ luận án Tiến sĩ Luật học và luận văn Thạc sĩ Luật học có các đề
tài: Võ Khánh Vinh (1993) Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam,

Luận án Phó Tiến sỹ Luật học; Nguyễn Sơn (2002) Các hình phạt chính trong
Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học; Trần Văn Sơn (1996), Quyết
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội;
Hoàng Chí Kiên (2004), Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Đào Tú Hoa (2006), Hình phạt tù trong luật
hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học,
Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Hằng (2014), Các căn cứ quyết định hình phạt trong

3


Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Mạnh
Tuấn (2014), Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở số liệu thực tiễn của địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ luật
học, Hà Nội.
Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu về chế định quyết định hình
phạt trên cơ sở lý luận và từ thực tiễn các địa phương khác nhau. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu về
vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn một cách đầy đủ riêng biệt dưới góc
độ pháp lý hình sự và tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định;
nhiều nội dung liên quan chưa có được cách giải quyết thống nhất, hơn nữa các
công trình này nghiên cứu khi Bộ luật hình sự năm 2015 chưa được ban hành.
Do vậy, việc nghiên cứu về quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn xét
xử tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính
lý luận vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm rõ lí luận và thực tiễn
của việc quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định, luận văn hướng đến mục đích kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định

đúng hình phạt tù có thời hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong
phòng, chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Tiếp cận từ lí luận về quyết định hình phạt, luận văn phải làm rõ lí luận
quyết định hình phạt tù có thời hạn, trong đó phải làm rõ khái niệm, căn cứ
quyết định hình phạt tù có thời hạn, vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn
trong những trường hợp đặc biệt…

4


- Phân tích làm rõ thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa
bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định giai đoạn 2012-2016, từ đó phân tích những
hạn chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc,
bất cập trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định.
- Kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời
hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong phòng, chống tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan tới chế
định quyết định hình phạt tù có thời hạn dưới góc độ luật hình sự và thực tiễn
quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật.
Để hoàn thành đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu đặc thù như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích,... để giải quyết những vấn đề khoa
học được đặt ra một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên
cứu cao nhất của đề tài. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả dựa vào các văn bản
pháp luật của Nhà nước và những văn bản hướng dẫn do Tòa án nhân dân tối
cao ban hành có liên quan đến nội dung của đề tài, những số liệu thống kê, báo

5


cáo tổng kết năm công tác (từ tháng 01/10 năm trước tới 30/9 của năm liền sau)
của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định và Tòa án nhân dân huyện Ý Yên để phân
tích, tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lí luận: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu
một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt
tù có thời hạn. Luận văn góp phần hoàn thiện lí luận về quyết định hình phạt tù
có thời hạn.
- Về thực tiễn: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng
trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong quyết định
hình phạt tù có thời hạn. Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học
tập và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt tù có
thời hạn.
Chương 2. Thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện
Ý Yên, tỉnh Nam Định
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời hạn.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyết định hình phạt tù có thời hạn
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong
những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hiện chưa có một văn
bản quy phạm pháp luật nào xác định khái niệm quyết định hình phạt. Tuy
nhiên tựu chung lại cơ thể nhận định: “Quyết định hình phạt là một giai đoạn,
một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn
loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật)
theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong
bản án buộc tội” [48, tr.386]
Hoạt động xét xử của Tòa án thường được trải qua ba giai đoạn là: Định
tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt
chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động định tội danh và trong trường
hợp người phạm tội bị khẳng định là có tội thì mới có thể bị áp dụng hình phạt.
Nếu lấy giai đoạn định khung hình phạt để so sánh thì định khung hình phạt sai
sẽ dẫn đến quyết định hình phạt sai, nhưng có thể định tội danh vẫn đúng. Vì

vậy định khung hình phạt là bước đầu tiên quan trọng của quyết định hình phạt,
là cơ sở để quyết định hình phạt đúng nên định khung hình phạt thuộc về quyết
định hình phạt. Trên cơ sở khung hình phạt đã xác định, Hội đồng xét xử phải
tiến hành quyết định hình phạt chính trước, sau đó mới quyết định hình phạt bổ
sung. Điều này cho thấy trong quyết định hình phạt thì quyết định hình phạt
chính có tính chất bắt buộc đối với người phạm tội bị kết án.
Nội dung của quyết định hình phạt thể hiện hai điểm sau: 1) Tòa án lựa
chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản

7


điều luật) tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo. 2) xác định một mức hình
phạt cụ thể đối với bị cáo căn cứ trên tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi
phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người phạm tội.
Hình phạt tù với tư cách là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
thường được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội bình thường một
thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo họ. Như vậy, có thể định nghĩa: Quyết
định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở
việc Toà án có thẩm quyền lựa chọn khung và mức phạt tù cụ thể được quy định
trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội
thể hiện trong bản án buộc tội.
Tiếp cận từ khái niệm và các thuộc tính cơ bản của lí luận về quyết định hình
phạt, có thể suy ra những đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt tù như sau:
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn là một giai đoạn của quá trình xét
xử và chỉ do một cơ quan duy nhất có thẩm quyền tiến hành là Tòa án.
- Đối tượng của quyết định hình phạt tù có thời hạn là cá nhân người
phạm tội, con người cụ thể đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi

là tội phạm và có lỗi trong điều kiện hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm. Chính họ sẽ
phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên chứ không ai có thể chấp hành
thay được, có như vậy hình phạt mới đạt được mục đích trừng trị và giáo dục,
cải tạo người phạm tội. Đối tượng này phân biệt với pháp nhân thương mại
phạm tội trong BLHS 2015 bởi vì không thể xử phạt tù đối với pháp nhân.
- Hậu quả pháp lý sau khi Tòa án quyết định một mức hình phạt tù giam
cụ thể đối với người phạm tội là sẽ tước tự do của người bị kết án trong một
thời hạn và một số quyền nhân thân của người đó.

8


- Quyết định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự của Hội đồng xét xử. Trong quan hệ pháp luật hình sự, trách
nhiệm hình sự của người phạm tội không mặc nhiên phát sinh nếu không có
hoạt động xét xử của Toà án để chứng minh người đó phạm tội và áp dụng các
biện pháp chế tài của luật hình sự đối với họ. Do đó, quyết định hình phạt luôn
là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Hội đồng xét xử tiến
hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để quyết định hình
phạt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể.
1.1.2 Nguyên tắc quyết định hình phạt tù có thời hạn
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư
tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác
định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối
với người phạm tội [48, tr.388].
Các nhà nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam đều thống nhất quan
điểm việc quyết định hình phạt nói chung phải dựa trên bốn nguyên tắc:
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng [48, tr.389]. Các nguyên

tắc này có tính độc lập tương đối của nó và cùng tồn tại. Nhưng mặt khác, các
nguyên tắc quyết định hình phạt luôn có những phần, những nội dung xâm nhập
nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn
nhau và ở dạng tổng thể tạo thành một hệ thống thống nhất.
Quyết định hình phạt tù có thời hạn là trường hợp riêng phổ biến của Tòa
án khi quyết định hình phạt, vì vậy cũng phải tuân thủ bốn nguyên tắc nêu trên:
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng.
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng
và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng

9


cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nói đến sự tuân thủ
triệt để pháp luật của Nhà nước, các cơ quan tổ chức và công dân. Đối
với quyết định hình phạt nguyên tắc này được thể hiện ở việc Tòa án chỉ
áp dụng hình phạt đối với những hành vi phạm tội được quy định trong
Bộ luật hình sự. Điều 2 BLHS 1999 khẳng định: Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự
[26]. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt tù
có thời hạn thể hiện ở việc Tòa án phải tuân theo trình tự tố tụng nhất
định, các điều kiện áp dụng hình phạt tù và đặc biệt Tòa án chỉ có thể tuyên
trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong BLHS (trừ trường hợp
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật). Mặt khác, nội dung nguyên
tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt tù có thời hạn đòi hỏi các quy
định về mục đích hình phạt, căn cứ lập luận phải được Tòa án ghi rõ trong bản
án định tội.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn

còn thể hiện quy định về phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Ở
phần các tội phạm, nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện ở chỗ quy định rõ giới
hạn hình phạt từ mức cao nhất đến mức thấp nhất của khung hình phạt cho từng
tội cụ thể áp dụng để quyết định hình phạt đúng đắn.
* Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc nhân đạo XHCN là một nguyên tắc tiến bộ thể hiện ở việc
khi quyết định hình phạt Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo, cân nhắc
lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể
thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Ở nước ta, tư tưởng nhân đạo luôn thể
hiện rõ nét trong đường lối chính sách của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà
nước. Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn thể
hiện ở Điều 3 BLHS 1999 - Nguyên tắc xử lý tội phạm: "… khoan hồng đối với
người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội,

10


ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra" [26]. Bộ
luật hình sự cũng quy định các tình tiết định khung giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ hình phạt buộc Tòa án
phải cân nhắc khi quyết định hình phạt tù có thời hạn. Hình phạt tù có thời hạn bị
hạn chế áp dụng đối với một số chủ thể đặc biệt như người chưa thành niên,
người già, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người có bệnh
bị hạn chế khả năng nhận thức khả năng điều khiển hành vi.
* Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế
định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt nói chung. Nội
dung của nguyên tắc cá thể hóa khi quyết định hình phạt tù có thời hạn được thể
hiện trong BLHS cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Khi quyết
định hình phạt tù, hình phạt mà tòa án tuyên đối với người bị kết án phải phù

hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, mức độ tham gia thực hiện
tội phạm. Việc các nhà làm luật quy định các khung hình phạt trong một tội
danh cũng như quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt
chính là quy định khả năng cá thể hóa đối với những đối tượng chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, những đối tượng ngoan cố chống đối, lưu manh, tái phạm nguy
hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và khoan hồng đối với người tự
thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn
hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra…
Trong áp dụng pháp luật hình sự, khi quyết định hình phạt tù có thời hạn,
Tòa án phải cân nhắc những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội như
hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ để cá thể hóa TNHS đối với người bị kết án.
* Nguyên tắc công bằng

11


Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc công bằng là sự tương xứng giữa tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự
của người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu.
Như vậy, thứ nhất nguyên tắc công bằng đòi hỏi việc quyết định hình
phạt tù phải tương xứng với hành vi của người phạm tội. Thứ hai, khi quyết
định hình phạt tù Tòa án phải cân nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình
tiết khác có trong vụ án. Thứ ba, hình phạt tù được tuyên cần phải phản ánh một
cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội, phải có sức
thuyết phục mọi người.
1.2 Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn
1.2.1 Quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
của Bộ luật hình sự 1999.

Theo Bộ luật hình sự 1999, Điều 28 quy định hình phạt bao gồm: hình
phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: a) cảnh cáo; b)
phạt tiền; c) cải tạo không giam giữ; d) trục xuất; đ) tù có thời hạn; e) tù chung
thân; g) tử hình. Các hình phạt bổ sung gồm có: a) cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định; b) cấm cư trú; c) Quản chế;
d) tước một số quyền công dân; đ) tịch thu tài sản; e) phạt tiền, khi không áp
dụng là hình phạt chính; g) trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại
trại giam trong một thời hạn nhất định [26]. Hình phạt tù có thời hạn tước
quyền tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, cách ly họ
khỏi đời sống xã hội bình thường, buộc họ phải sống trong môi trường riêng
biệt có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
giáo dục và cải tạo họ. Đây là hình phạt phổ biến trong hệ thống hình phạt của
mọi quốc gia. So với hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn có nội
dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn nhiều. Điều này thể hiện ở việc người bị kết

12


án cải tạo không giam giữ không bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội, mọi hoạt
động sinh hoạt với gia đình, cộng đồng không bị ảnh hưởng mà chỉ bị chính
quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục. Trong khi đó người bị kết án tù
bị tước tự do hoàn toàn, bị giam giữ trong một môi trường chịu sự quản lý chặt
chẽ và nghiêm khắc, việc tiếp xúc với môi trường sống xã hội bị hạn chế đáng
kể. Hạn chế tự do đối với người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ
yếu của loại hình phạt này. Việc hạn chế tự do của người phạm tội còn có mục
đích phòng ngừa chung. Khi bị kết án tù và phải chấp hành án tại cơ sở giam
giữ, họ không còn có những điều kiện nhất định để phạm tội mới gây thiệt hại
đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Điều 33 Bộ luật hình sự 1999 quy định thời hạn tù tối thiểu là ba tháng, thời

hạn tù tối đa là hai mươi năm. Theo điều 50 Bộ luật hình sự 1999, trong trường
hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn là ba mươi năm.
1.2.2 Căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào những căn cứ cụ thể để
đảm bảo hình phạt được tuyên là đúng đắn, chặt chẽ và thống nhất; đồng thời
tránh được tình trạng tùy tiện trong quyết định hình phạt và đảm bảo đạt được
mục đích của hình phạt. Do đó, căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ
bản có tính nguyên tắc do Bộ luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà
có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện
tội phạm [48, tr.395].
Điều 45 BLHS 1999 quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân
nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì
vậy, căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn cũng bao gồm:
- Các quy định của Bộ luật hình sự;
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho hành xã hội cỉa hành vi phạm tội;

13


- Nhân thân người phạm tội;
- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đây là những căn cứ chung, có tính chất bắt buộc trong mọi trường hợp
đối với tòa án khi quyết định hình phạt. Các căn cứ này tuy có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau nhưng đều có tính độc lập tương đối.
* Các quy định của Bộ luật hình sự
Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án bắt buộc phải căn cứ vào
các quy định của Bộ luật hình sự để lựa chọn khung và xác định mức hình phạt
cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Đó là những quy định liên quan đến

nguyên tắc xử lí, đến hình phạt và quyết định hình phạt. Thuộc về những quy
định này bao gồm:
- Các quy định trong Phần chung của BLHS 1999 như: Quy định về
Nguyên tắc xử lí (Điều 3), về hình phạt tù có thời hạn (Điều 33), về căn cứ
quyết định hình phạt (Điều 45), về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(Điều 46), các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 48), về tái phạm,
tái phạm nguy hiểm (Điều 49), quy định về án treo (Điều 50).
- Các quy định trong phần các tội phạm của BLHS 1999 về khung hình
phạt tù có thời hạn cho từng loại tội.
Căn cứ vào quy định của BLHS bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc
pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy, chỉ quyết định hình
phạt khi đã có đủ căn cứ xác định một người đã phạm vào một tội mà Bộ luật
hình sự quy định, tức là phải định tội danh trước rồi mới quyết định hình phạt
sau. Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Toà án phải áp dụng đúng khung
hình phạt và không được phạt cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt đã
quy định. Việc áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải tuân theo
quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự.

14


* Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Các quy định của Bộ luật hình sự thuộc căn cứ thứ nhất đã thể hiện tình
thần của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Đó là khung hình phạt cũng như hình
phạt cụ thể cần quyết định cho từng trường hợp phạm tội phải tương xứng với
tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Áp dụng các quy định trên
để quyết định hình phạt cũng có nghĩa là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Cùng với hành vi dùng dao xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
người khác, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, người phạm

tội có thể bị tuyên phạm tội cố ý gây thương tích hoặc giết người, tùy từng
trường hợp có thể bị định khung tăng nặng, khung cơ bản hoặc khung giảm nhẹ
tương ứng với mức hình phạt khác nhau.
Như vậy trong căn cứ thứ nhất đã chứa đựng một phần nội dung của căn
cứ thứ hai. Tuy nhiên, vẫn cần thiết quy định trong Bộ luật Hình sự một căn cứ
quyết định hình phạt độc lập đó là: tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở tổng thể của hai khái niệm
“tính chất” và “mức độ” nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.397].
Tính chất nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về chất của hành vi phạm tội,
là thuộc tính khách quan của tội phạm [48, tr.398]. Mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội là thuộc tính về lượng nhất định của cùng một chất tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.398]. Những tội phạm giống
nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng có thể khác nhau về mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng là thuộc tính khách
quan của tội phạm.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ
thuộc vào các yếu tố cấu thành tội phạm, bởi vì tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, nếu hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy

15


hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ
luật hình sự).
Các yếu tố đó bao gồm:
- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ
thuộc vào tính chất quan trọng của khách thể bị xâm phạm. Quan hệ xã hội về
an ninh quốc gia và quan hệ xã hội về tính mạng, sức khỏe danh dự nhân phẩm
của con người được ưu tiên bảo vệ và tội phạm xâm phạm các quan hệ này bị
có tính chất mức độ nguy hiểm lớn hơn, khung hình phạt nặng hơn.

- Thủ đoạn, công cụ phương tiện, hình thức thực hiện tội phạm: Thủ đoạn
công cụ càng tinh vi thì tính chất nguy hiểm càng lớn.
- Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra.
- Tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Cùng
là lỗi nhưng lỗi cố ý nguy hiểm hơn lỗi vô ý, cùng là lỗi cố ý nhưng lỗi cố ý
trực tiếp thì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián tiếp; cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng
sự quyết tâm phạm tội của người phạm tội cao nguy hiểm hơn người không có
ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng; cùng là vô ý thì vô ý vì quá tự tin nguy
hiểm hơn lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Những tình tiết thuộc về nhân thân có ảnh hưởng tới mức độ nguy hiểm
của tội phạm …
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhà làm luật chia tội phạm ra làm bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Đối với cùng một loại tội phạm, nhà làm luật cũng chia các khung hình
phạt khác nhau: khung cơ bản, khung tăng nặng, khung giảm nhẹ căn cứ trên
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án bắt buộc phải chỉ ra trong bản án những
tình tiết cụ thể để chứng minh tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội mà Tòa án dựa vào đó để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

16


* Nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm đặc tính về mặt chính trị xã hội, tâm lý, đạo đức, sinh lý của người phạm tội [48, tr.403]. Để có căn cứ
quyết định hình phạt có rất nhiều đặc điểm được Tòa án cân nhắc tới, trong đó
phổ biến là các yếu tố như: độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, quá trình công tác, khen thưởng, kỷ luật, hoàn cảnh gia đình, tiền
án, tiền sự... Những đặc điểm này được chia thành các nhóm bao gồm: đặc điểm

nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội; những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh khả
năng giáo dục, cải tạo người phạm tội; những đặc điểm về nhân thân người
phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà Tòa án phải xem
xét khi quyết định hình phạt.
Khoản 2 Điều 224 BLTTHS 2003 quy định: “Trong bản án cần phải ghi
rõ: … họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; …” [28]. Điều này
không những để định danh người phạm tội mà còn buộc Tòa án phải xem xét
các yếu tố nhân thân này khi quyết định hình phạt. Ngoài những đặc điểm thuộc
về nhân thân người phạm tội có thể được chỉ rõ trong luật (mang tính pháp lý),
Tòa án có thể cân nhắc những đặc điểm không được chỉ rõ trong luật nhưng
được pháp luật cho phép khi chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt
(không mang tính pháp lý).
* Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
Khi quyết định hình phạt nói chung hình phạt tù có thời hạn nói riêng,
Tòa án không những phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội mà còn cân nhắc các tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .
Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết được quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự 1999 với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết giảm

17


nhẹ TNHS do Tòa án xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, để khi cá thể
hóa TNHS và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong
phạm vi một khung hình phạt.
Tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết được quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự 1999 với tính chất là tình tiết tăng nặng chung, để khi cá thể hóa

TNHS và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong
phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.
Về tính chất pháp lí của các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự, cần lưu ý như sau:
- Tình tiết được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu là
những tình tiết được luật hình sự quy định tại Điều 46 BLHS 1999 hoặc có thể
là tình tiết khác được Tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
để cân nhắc khi quyết định hình phạt;
- Tình tiết chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu
được luật hình sự quy định tại Điều 48 BLHS 1999;
- Đối với các loại tội, không phải tất cả các tình tiết được nêu tại Điều 46
và 48 BLHS đều có thể là các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS bởi vì
các tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ;
- Hầu hết các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS đều chỉ được nêu
một cách khái quát mà không được mô tả cụ thể. Riêng tình tiết tăng nặng Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm được quy định cụ thể tại Điều 49 BLHS 1999.
1.2.3 Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong một số trường hợp đặc
biệt
Trong nhiều trường hợp khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng
các quy định mang tính đặc thù để quyết định hình phạt riêng đối với bị cáo.
Các quy định đặc thù đó thể hiện tính chất nhân đạo của Nhà nước như quy
định đối với người chưa thành niên, quy định mang tính giảm nhẹ hay tăng

18


nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo hoặc là những quy định thể hiện tính
chất hành vi hay kết quả của tội phạm. Quyết định hình phạt trong trường hợp
này được gọi là quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt.

Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, quyết định hình phạt tù
có thời hạn trong trường hợp đặc biệt bao gồm một số trường hợp sau đây:
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn nhẹ hơn quy định của BLHS
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội
- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp đồng phạm
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội.
*Quyết định hình phạt tù có thời hạn nhẹ hơn quy định của Bộ luật
Hình sự.
Quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn của BLHS trước hết xuất
phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN mà nhà làm luật đã xây dựng lên nhằm
mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội để họ có thể trở thành công dân có
ích cho xã hội. Đây là mục đích hàng đầu thể hiện thái độ khoan hồng của
Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội khi họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
đồng thời cũng thể hiện rõ nguyên tắc cá thể hoá là hình phạt phải tương xứng
với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Điều 47 BLHS 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng
phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp
điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình
phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới

19


mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ

hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án” [26].
Theo quy định này, khi quyết định hình phạt Toà án có thể không lựa
chọn và tuyên một hình phạt cho người phạm tội trong giới hạn của khung hình
phạt cho phép tuyên một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn khi người phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ TNHS.
Căn cứ để Toà án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ
luật là người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy
định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 đã liệt kê
tất cả các tình tiết giảm nhẹ TNHS mang tính chất phổ biến. Khi quyết định
hình phạt trong trường hợp đặc biệt này thì căn cứ “có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46” có giá trị pháp lý bắt buộc. Đồng thời
lý do của việc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt trong trường hợp này phải
được ghi vào bản án.
* Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội
Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính do đó khi Tòa án khi
tổng hợp hình phạt phải tuân theo các quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS
1999. Theo quy định này, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó
tổng hợp hình phạt. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp này, hình phạt
chính đối với các tội có thể cùng là hình phạt tù có thời hạn hoặc có tội là hình
phạt tù có thời hạn, có tội là hình phạt cải tạo không giam giữ. Nguyên tắc tổng
hợp hình phạt như sau:
- Nếu hình phạt chính đã tuyên cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt
đó được cộng lại thành hình phạt chung, hình phạt chung không vượt quá ba
mươi năm.
- Nếu các hình phạt chính đã tuyên là cải tạo không giam giữ và tù có
thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt

20



tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành một
ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo nguyên tắc nêu trên.
* Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Thực tiễn xét xử cho thấy không phải trong tất cả các trường hợp phạm
nhiều tội đều được phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần. Nếu tất cả các tội
phạm đều được phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần thì quyết định hình
phạt trong trường hợp này bao gồm quyết định hình phạt đối với từng tội và
quyết định hình phạt chung đối với các tội theo quy định tại Điều 50 BLHS
1999. Nếu tất cả các tội phạm được xét xử ở các lần khác nhau thì việc tổng
hợp hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng ở nhiều bản án sẽ được thực
hiện theo quy định tại Điều 51 BLHS 1999.
Về bản chất thì đây cũng là quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội nên việc quyết định hình phạt trong trường hợp này được thực hiện
giống như quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng do
khác nhau về thời điểm phạm tội và thời điểm xét xử nên việc người phạm tội
phải chấp hành hình phạt trong trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
có sự khác biệt. Điều 51 BLHS 1999 quy định việc tổng hợp hình phạt trong
nhiều bản án bao gồm 3 trường hợp:
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực
pháp luật lại bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án đó.
Trường hợp này được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 1999
Trong trường hợp này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị
xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS
1999. Do người phạm tội đã chấp hành được một phần hình phạt của bản án
trước nên thời gian này được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực
pháp luật lại phạm tội mới và bị đem ra xét xử. Trường hơp này được quy định
tại khoản 2 Điều 51 BLHS.


21


×