Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.17 KB, 86 trang )

Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
1
Lời nói đầu
Quản lý kinh tế nói chung và quản lý kinh tế doanh nghiệp nói riêng trong
nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và điều tiết của những quy luật kinh tế khách
quan như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, giá cả đòi hỏi phải cung cấp
những thông tin một cách kịp thời, chính xác và toàn diện về tình hình thực hiện
các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tình hình quản lý và sử dụng lao động, vật tư,
tiền vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh, làm cơ sở đề ra các chủ trương,
chính sách và biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để đạt được mục đích trên, đòi hỏi chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý doanh nghiệp cần phải nhận thức và áp dụng các phương pháp quản lý hữu
hiệu trong đó có phân tích hoạt động kinh tế. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động
kinh tế rất phức tạp và mang tính đặc thù. Nó liên quan và tác động đến rất nhiều
ngành kinh tế kỹ thuật. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của
nhiều ngành, nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Phạm vi hoạt động của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất rộng rãi. Do vậy nó chịu sự cạnh tranh gay
gắt của thị trường quốc tế trong quan hệ buôn bán. Để có thể tồn tại và phát
triển, kinh doanh có lãi trong cơ chế thị trường, đòi hỏi các nhà kinh doanh phải
nhận thức tầm quan trọng và thực hiện thường xuyên phân tích các hoạt động
kinh tế. chính vì vai trò quan trọng của hoạt động phân tích mà em đã chọn đề
tài: Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu để làm
luận văn tốt nghiệp.
Qua một thời gian thực tập tại công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội,
em đã được tìm hiểu về chức năng, đặc điểm, nhiệm vụ của công ty, tình hình
thực hiện công tác phân tích hoạt động kinh tế tại công ty, em đã sử dụng những
lý thuyết đã được học ở trường kết hợp với thực tế để viết bản luận văn này. Luận
văn gồm 3 chương:
Chương I: Những vần đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu và phân
tích hoạt động xuất khẩu.


Chương II: Thực trạng phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu tại Công
ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
Chương III: Hoàn thiện nội dung phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu
tại công ty xuất nhập khẩu Hà Nội.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
2
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu
và phân tích hoạt Động xuất khẩu
I. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu và đặc điểm hoạt động kinh
doanh xuất khẩu
1/ Khái niệm xuất khẩu hàng hoá, hiệu quả xuất khẩu và đặc điểm hoạt
động kinh doanh xuất khẩu
1.1/ Khái niệm về xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh ngoại thương mà hàng hoá
dịch vụ của quốc gia này bán cho quốc gia khác.
* Xuất khẩu hàng hoá thường diễn ra dưới các hình thức sau:
+ Hàng hoá nước ta bán ra nước ngoài theo hợp đồng thương mại được ký kết
của các thành phần kinh tế của nước ta với các thành phần kinh tế ở nước ngoài
không thường trú trên lãnh thổ Việt Nam.
+ Hàng hoá mà các đơn vị, dân cư nước ta bán cho nước ngoài qua các đường
biên giới, trên bộ, trên biển, ở hải đảo và trên tuyến hàng không.
+ Hàng gia công chuyển tiếp
+ Hàng gia công để xuất khẩu thông qua một cơ sở ký hợp đồng gia công trực
tiếp với nước ngoài.
+ Hàng hoá do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán cho người
mua nước ngoài nhưng giao hàng tại Việt Nam
+ Hàng hoá do các chuyên gia, người lao động, học sinh, người du lịch
mang ra khỏi nước ta.

+ Những hàng hoá là quà biếu, đồ dùng khác của dân cư thường trú nước
ta gửi cho thân nhân, các tổ chức, huặc người nước ngoài khác.
+ Những hàng hoá là viện trợ, giúp đỡ của chính phủ, các tổ chức và dân
cư thường trú nước ta gửi cho chính phủ, các tổ chức, dân cư nước ngoài.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
3
1.2 / Hiệu quả xuất khẩu
Trong điều kiện nước ta hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước luôn coi trọng
lĩnh vực này và nhấn mạnh nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp hoá của nước ta tiến hành nhanh
hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả
kinh tế đối ngoại. Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế xuất khẩu
là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói chung và cuả mỗi doanh
nghiệp nói riêng.
Hiệu quả hoạt động xuất khẩu chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, là
phương hướng cơ bản để xác định phương hướng hoạt động xuất khẩu. Tuy vậy
hiệu quả đó là gì? như thế nào là có hiệu quả? Không phải là vấn đề đã được
thống nhất. Không thể đánh giá được mức độ đạt được hiệu quả kinh tế của hoạt
động xuất khẩu khi mà bản thân phạm trù này chưa được định rõ bản chất và
những biểu hiện của nó. Vì vậy, hiểu đúng bản chất của hiệu quả kinh tế xuất
khẩu cũng như mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế xuất khẩu của mỗi thời kỳ là
vấn đề có ý nghĩa thiết thực không những về lý luận thống nhất quan niệm về
bản chất của hiệu quả kinh tế xuất khẩu mà còn là cơ sở để xác định các tiêu
chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế xuất khẩu, xác định yêu cầu đối với
việc đề ra mục tiêu và biện pháp nâng cao hiệu của kinh tế ngoại thương.
Cho đến nay còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về hiệu quả kinh
doanh nói chung và hiệu quả xuất khẩu nói riêng. Quan niệm phổ biến là hiệu
quả kinh tế xuất khẩu là kết quả của quá trình sản xuất trong nước, nó được biểu

hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Trong thực tiễn
cũng có người cho rằng hiệu quả kinh tế xuất khẩu chính là số lợi nhuận thu
được thông qua xuất khẩu. Những quan niệm trên bộc lộ một số mặt chưa hợp lý.
Một là, đồng nhất hiệu quả và kết quả. Hai là, không phân định rõ bản
chất và tiêu chuẩn hiệu quả xuất khẩu với các chỉ tiêu biểu hiện bản chất và tiêu
chuẩn đó.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
4
Cần phân biệt rõ khái niệm kết quả và hiệu quả. Về hình thức hiệu
quả kinh tế là một phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa cái phải bỏ ra
và cái thu về được. Kết quả chỉ là yếu tố cần thiết để tính toán và phân tích hiệu
quả. Tự bản thân mình, kết quả chưa thể hiện nó tạo ra ở mức nào và với chi phí
là bao nhiêu.
Mỗi hoạt động trong sản xuất kinh doanh thương mại dịch vụ nói riêng là
phải phấn đấu đạt được kết quả, nhưng không phải là kết quả bất kỳ mà phải là
kết quả có mục tiêu và có lợi ích cụ thể nào đó. Nhưng kết quả có được ở mức độ
nào với giá nào đó chính là vấn đề cần xem xét, vì nó là chất lượng của hoạt
động tạo ra kết qủa. Vì vậy, đánh giá hoạt động kinh tế xuất khẩu không chỉ là
đánh giá kết quả mà còn là đánh giá chất lượng của hoạt động để tạo ra kết quả
đó. Vấn đề không phải chỉ là chúng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng hàng
hoá mà còn là với chi phí bao nhiêu để có được kim ngạch xuất khẩu như vậy.
Mục đích hay bản chất của hoạt động xuất khẩu là với chi phí xuất khẩu nhất
định có thể thu được lợi nhuận lớn nhất. Chính mục đích đó nảy sinh vấn đề phải
xem lựa chọn cách nào để đạt được kết quả lớn nhất.
Từ cách nhìn nhận trên ta thấy các chỉ tiêu lượng hàng hoá xuất khẩu,
tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu chỉ là những chỉ tiêu thể hiện kết quả của hoạt
động xuất khẩu chứ không thể coi là hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu
được, nó chưa thể hiện kết quả đó được tạo ra với chi phí nào
Nếu chỉ dừng lại ở đó thì còn rất trìu tượng và chưa chính xác. Điều cốt lõi

là chi phí cái gì, bao nhiêu và kết quả được thể hiện như thế nào. Trong hoạt
động xuất khẩu, kết quả đầu ra thể hiện bằng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu
đem lại và chi phí đầu vào là toàn bộ chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra nhưng có
liên quan đến hoạt động xuất khẩu bao gồm chi phí mua huặc chi phí sản xuất
gia công hàng xuất khẩu, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản, chi phí sơ chế,
tái chế hàng xuất khẩu và những chi phí trực tiếp huặc gián tiếp khác gắn với hợp
Hiệu quả kinh tế
=
Kết quả đầu ra
Chi phí đầu vào
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
5
đồng xuất khẩu. Từ những nhận xét trên ta có công thức tính hiệu quả xuất khẩu
như sau:
2/ Các phương thức kinh doanh xuất khẩu
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham
gia hoạt động xuất khẩu có thể trực tiếp đàm phán, ký kết hợp đồng với nước
ngoài; trực tiếp giao nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Các doanh nghiệp tiến
hành xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tự cân đối về tài chính, có quyền tìm kiếm
bạn hàng, định đoạt giá cả, lựa chọn phương thức thanh toán và thị trường, xác
định phạm vi kinh doanh nhưng trong khuôn khổ chính sách quản lý xuất khẩu
của nhà nước.
* Phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác
Xuất khẩu uỷ thác là phương thức kinh doanh mà trong đó, đơn vị tham
gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu không đứng ra trực tiếp đàm phán với nước
ngoài mà phải nhờ qua một đơn vị xuất khẩu có uy tín thực hiện hoạt động xuất
khẩu cho mình.
Đặc điểm hoạt động xuất khẩu uỷ thác là có hai bên tham gia trong hoạt

động xuất khẩu:
+ Bên giao uỷ thác xuất khẩu (bên uỷ thác): bên uỷ thác là bên có đủ điều
kiện bán hàng xuất khẩu.
+ Bên nhận uỷ thác xuất khẩu (bên nhận uỷ thác): bên nhận uỷ thác xuất
khẩu là bên đứng ra thay mặt bên uỷ thác ký kết hợp đồng với bên nước ngoài.
Hợp đồng này được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ thác và chịu sự điều chỉnh
Hiệu quả xuất khẩu
Doanh thu ngoại tệ do
xuất khẩu đem lại
Chi phí liên quan đến
hoạt động xuất khẩu
=
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
6
của luật kinh doanh trong nước. Bên nhận uỷ thác sau khi ký kết hợp đồng uỷ
thác xuất khẩu sẽ đóng vai trò là một bên của hợp đồng mua bán ngoại thương.
Do vậy, bên nhận uỷ thác sẽ phải chịu sự điều chỉnh về mặt pháp lý của
luật kinh doanh trong nước, luật kinh doanh của bên đối tác và luật buôn bán
quốc tế.
Theo phương thức kinh doanh xuất khẩu uỷ thác, doanh nghiệp giao uỷ
thác giữ vai trò là người sử dụng dịch vụ, còn doanh nghiệp nhận uỷ thác lại giữ
vai trò là người cung cấp dịch vụ, hưởng hoa hồng theo sự thoả thuận giữa hai
bên ký trong hợp đồng uỷ thác.
* Xuất khẩu theo hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu theo hiệp định của nhà nước ký
kết với nước ngoài. Các doanh nghiệp thay mặt nhà nước ký các hợp đồng cụ thể
và thực hiện các hợp đồng đó với nước bạn.
*Xuất khẩu ngoài hiệp định:
Bộ phận hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu không nằm trong hiệp định của

nhà nước phân bổ cho doanh nghiệp.
3/ Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có các đặc điểm sau:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu:
Thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu bao
giờ cũng dài hơn so với thời gian lưu chuyển hàng hoá trong hoạt động kinh
doanh nội địa do khoảng cách địa lý cũng như các thủ tục phức tạp để xuất khẩu
hàng hoá. Do đó, để xác định kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu, người ta
chỉ xác định khi hàng hoá đã luân chuyển được một vòng hay khi đã thực hiện
xong một thương vụ ngoại thương.
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu:
Hàng hoá kinh doanh xuất khẩu bao gồm nhiều loại, trong đó xuất khẩu
chủ yếu những mặt hàng thuộc thế mạnh trong nước như: rau quả tươi, hàng mây
tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ
Thời điểm giao, nhận hàng và thời điểm thanh toán:
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
7
Thời điểm xuất khẩu hàng hoá và thời điểm thanh toán tiền hàng không
trùng nhau mà có khoảng cách dài.
Phương thức thanh toán:
Trong xuất khẩu hàng hoá, có nhiều phương thức thanh toán có thể áp
dụng được tuy nhiên phương thức thanh toán chủ yếu được sử dụng là phương
thức thanh toán bằng thư tín dụng. Đây là phương thức thanh toán đảm bảo được
quyền lợi của nhà xuất khẩu.
Tập quán, pháp luật:
Hai bên mua, bán có quốc tịch khác nhau, pháp luật khác nhau, tập quán
kinh doanh khác nhau, do vậy phải tuân thủ luật kinh doanh cũng như tập quán
kinh doanh của từng nước và luật thương mại quốc tế.
II. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của nền kinh tế

1/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ Công Nghiệp
Hoá đất nước.
Đất nước ta đang từng bước tiến tới Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá đất
nước. Đây là một nhiệm vụ cần thiết đáp ứng yêu cầu của Đảng ta là đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu từng bước phát triển nền kinh tế ngày một
bền vững ổn định, xoá dần khoảng cách về kinh tế giữa nước ta và các nước trên
thế giới.
Nhìn chung các ngành sản xuất trong nước vẫn chưa thể đáp ứng được yêu
cầu của quá trình hiện đại hoá chính vì vậy mà chúng ta cần thiết phải nhập khẩu
một số trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào Việt Nam.
Nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn sau:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
+ Kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ
+ Vay nợ, nhận viện trợ
+ Xuất khẩu hàng hoá
Các nguồn vốn ngoại tệ như: đầu tư trực tiếp nước ngoài, vay nợ, kinh
doanh dịch vụ thu ngoại tệ không đóng góp nhiều lắm vào việc tăng thu ngoại tệ,
chỉ có xuất khẩu hàng hoá là nguồn thu ngoại tệ lớn của đất nước, nguồn thu này
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
8
dùng để nhập khẩu các trang thiết bị hiện đại phục vụ công nghiệp hóa và trang
trải những chi phí cần thiết khác cho quá trình này, xuất khẩu không những nâng
cao được uy tín xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước mà còn phản ánh
năng lực sản xuất hiện đại của chính nước đó.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hội đầu
tư, vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư
và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu nguồn vốn duy nhất để trả nợ
trở thành hiện thực. Điều này càng nói lên vai trò vô cùng quan trọng của
xuất khẩu.

2/ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản
xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ. Đó chính là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình Công Nghiệp Hoá phù hợp với
xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách
nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá
tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế nước ta còn quá lạc hậu và chậm
phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng. Nếu chỉ thụ động
chờ ở sự thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng
chậm chạp, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm.
Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để
tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát
triển. Khi chúng ta xuất khẩu một mặt hàng nào đó kéo theo đó là sự phát triển
các ngành khác phục vụ cho việc xuất khẩu mặt hàng này. Chẳng hạn khi xuất
khẩu các sản phẩm dệt may thì ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc
nhuộm cũng sẽ phát triển theo quy mô xuất khẩu sản phẩm may. Chính điều này
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
9
làm cho cơ cấu kinh tế thay đổi một cách đồng bộ không có sự mất cân đối giữa
các ngành với nhau. Như vậy xuất khẩu đã góp phần tạo ra một cơ cấu kinh tế
phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất phát triển và ổn định.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường, nâng cao khả

năng chiếm lĩnh thị trường từ đó thu lợi nhuận cao. Mặt khác mở rộng thị trường
xuất khẩu là giảm sự phụ thuộc vào thị trường nội địa khi thị trường này có sự
biến động ảnh hưởng không tốt đến việc kinh doanh của doanh nghiệp và tăng
khả năng thoả mãn nhu cầu cho người tiêu dùng.
Thị trường nước ngoài hầu như là những thị trường có sức tiêu thụ hàng
hoá lớn hơn so với nhu cầu tiêu dùng trong nước, chính vì vậy mọi doanh nghiệp
đều luôn cố gắng thoả mãn tốt nhất nhu cầu này để tăng doanh thu đạt lợi nhuận
cao nhưng lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, doanh nghiệp phải chịu sự
cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp khác. Trong điều kiện như vậy doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất
kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng
bằng cách nhập các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, áp dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Như vậy
xuất khẩu góp phần phát triển sản xuất ngày một hiện đại hơn và ổn định hơn.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu
là điều kiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào Việt
Nam, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
Xuất khẩu chính là việc hàng hoá được tiêu dùng ở nước ngoài, chịu sự
cạnh tranh về giá cả, chất lượng.
Doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng trên thị trường thì phải có kế hoạch
sản xuất kinh doanh sao cho có thể tận dụng hết mọi năng lực sản xuất hiện có
để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt đáp ứng được đòi hỏi của người tiêu
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
10
dùng về tính năng công dụng của sản phẩm càng nhiều càng tốt nhưng lại phải
có mức giá cả hợp lý để vừa có thể cạnh tranh về giá với các doanh nghiệp khác
vừa mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp

luôn cố gắng để sản xuất có hiệu quả tăng cường đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường.
Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng có nghĩa là nền kinh tế cũng ngày
một đi lên, như vậy xuất khẩu không chỉ đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mà
còn làm cho nền kinh tế ngày một phát triển và ổn định.
3/ Xuất khẩu có tác dụng tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống của người dân.
Hiện nay việc hàng trăm triệu người lao động đang đổ xô về thành phố
kiếm việc làm đã gây ra nhiều vấn đề xã hội và làm cho sự quản lý của nhà nước
thêm khó khăn. Nó cũng chứng tỏ người dân đặc biệt là những người dân ở các
vùng nông thôn đang thiếu việc làm một cách trầm trọng. Xuất khẩu đã giải
quyết được vấn đề công ăn việc làm cho người lao động, tạo thu nhập và cải
thiện đời sống của dân cư. Đồng thời xuất khẩu cũng đóng góp vào ngân sách
quốc gia một nguồn vốn ngoại tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu
các vật phẩm tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục
vụ nhu cầu ngày càng cao của người dân.
4/ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động
qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động xuất khẩu có sớm hơn hoạt
động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ này phát triển.
Chẳng hạn, xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc
tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng
xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để
phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
11
III. Sự cần thiết phải phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất

khẩu
1/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu
2/ Sự cần thiết phải phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải chịu sự cạnh
tranh gay gắt từ các đối thủ cạnh tranh về mọi mặt: giá cả, chất lượng, thị trường,
khách hàng nếu như doanh nghiệp không nhanh nhậy nắm bắt được tình hình
thực tế cũng như không biết chính xác về tình hình kinh doanh, hiệu quả kinh
doanh của chính doanh nghiệp mình thì doanh nghiệp sẽ có những ảo tưởng về
kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được điều này dẫn tới doanh nghiệp sẽ thất bại
trong cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp sẽ dần mất đi
những gì mà mình đang có mà điều này cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp
đang dần suy vong và có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu hàng
hoá thì sự cạnh tranh còn gay gắt hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước
bởi vì doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài
không những phải chịu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp từ nhiều nơi khác mà
còn phải chịu áp lực từ chính nước mình xuất khẩu hàng hoá sang lý do là nhiều
khi các nước đó áp dụng các chính sách quy chế gây cản trở cho các doanh ngiệp
xuất khẩu mục đích là để bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước của họ. Để giúp
cho các chủ doanh nghiệp xuất khẩu luôn nắm bắt được tình hình kinh doanh
thực tế cũng như biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả không thì công tác
phân tích tình hình xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu là một việc làm hết sức cần
thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu mà tất
cả các doanh nghiệp đều phải chú trọng tới công tác phân tích. Phân tích tình
hình và hiệu quả xuất khẩu đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp:
+ Việc phân tích tình hình xuất khẩu được thực hiện sau mỗi một kỳ
kinh doanh giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch xuất khẩu mà doanh nghiệp đã đề ra ở kỳ kế hoạch.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5

12
Để thực hiện các nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi
chủ doanh nghiệp và các nhà quản lý phải xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch sản
xuất kinh doanh cũng như các kế hoạch tài chính, kế hoạch lao động, tiền
lương đó là những mục tiêu cần đạt được trong kỳ kế hoạch. Nhưng đồng thời
nó cũng là cơ sở để chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do vậy, để nhận thức và đánh giá tình hình và kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ doanh nghiệp cần thiết phải phân tích để thấy
được mức độ hoàn thành của các chỉ tiêu kế hoạch về phần trăm và số chênh lệch
tăng giảm.
Việc phân tích này là cần thiết bởi vì thông qua phân tích các nhà quản lý
sẽ thấy được doanh nghiệp đã thực hiện kế hoạch đề ra ở mức độ nào, có hoàn
thành kế hoạch đề ra hay không từ đó tìm ra nguyên nhân của việc không hoàn
thành kế hoạch cũng như nhân tố góp phần vào việc hoàn thành vượt mức kế
hoạch đặt ra và đưa ra các giải pháp để kỳ kinh doanh tiếp theo sẽ hoàn thành và
hoàn thành vượt mức kế hoạch đặt ra. Việc phân tích này sẽ giúp doanh nghiệp
nhìn ra đâu là mặt mạnh cũng như những điểm còn yếu kém trong từng khâu của
quá trình sản xuất kinh doanh để có thể tận dụng hết thế mạnh của mình, khắc
phục dần những điểm còn tồn tại từ đó nâng cao lợi nhuận, mở rộng sản xuất
kinh doanh, mở rộng thị trường nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên
thương trường.
Doanh nghiệp nào cũng có thị trường, khách hàng, mặt hàng riêng của
mình, tuy nhiên doanh nghiệp cũng chia ra thành thị trường chính, mặt hàng chủ
lực, khách hàng truyền thống để từ đó có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho phù
hợp. Nếu đối với các thị trường chính có sức tiêu thụ lớn mà ta lại không chú ý
tới, không có kế hoạch cung ứng hàng hoá đầy đủ kịp thời đáp ứng tốt nhất nhu
cầu của khách hàng thì doanh nghiệp sẽ dần mất đi thị phần trên thị trường đó và
các doanh nghiệp khác sẽ có cơ hội để chiếm lĩnh thị trường đó có nghĩa là
doanh nghiệp đang đánh mất cơ hội làm tăng lợi nhuận của chính mình.
Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu theo thị trường sẽ cho ta

biết được mức độ hoàn thành kế hoạch đối với thị trường chính cũng như các thị
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
13
trường khác để có kế hoạch cung ứng hàng hoá cho phù hợp. Như vậy việc phân
tích tình hình thực hiện kế hoạch xuất khẩu là thật sự cần thiết đối với mỗi một
doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
+ Phân tích tình hình xuất khẩu ngay trong khi thực hiện kế hoạch
xuất khẩu giúp doanh nghiệp phát hiện ra những thay đổi bất thường của thị
trường có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu cũng như
gây tổn thất cho doanh nghiệp về mặt kinh tế, những khó khăn mới nảy sinh
cản trở tiến trình thực hiện xuất khẩu.
Sau mỗi một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều đưa ra những kế hoạch kinh
doanh cho kỳ tiếp sau, mặc dù đã có sự chuẩn bị trước nhưng trong thực tế không
phải lúc nào mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều diễn ra theo kế hoạch đã
định. Thị trường luôn chứa đựng trong nó những biến động bất thường, những
biến động này có thể là theo chiều hướng xấu đối với doanh nghiệp cũng có thể
theo chiều hướng thuận lợi cho doanh nghiệp nhưng bất kể là xấu hay tốt thì
nhiệm vụ của nhà quản lý doanh nghiệp là phải luôn đưa ra các quyết định chỉ
đạo kinh doanh linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế đưa doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng khó khăn do thị trường gây ra cũng như tận dụng cơ hội kinh
doanh do thị trường đem lại. Để làm được điều này các nhà quản lý phải luôn
nắm chắc tình hình kinh doanh xuất khẩu bằng cách tiến hành phân tích thường
xuyên, cẩn thận, kỹ lưỡng tình hình xuất khẩu từ đó có sự điều chỉnh kế hoạch
xuất khẩu cho phù hợp.
Thị trường quốc tế luôn biến động hàng ngày hàng giờ nếu không phân tích
một cách toàn diện, thường xuyên thì không thể đưa ra một quyết định tối ưu
nhất, sáng suốt nhất. Một quyết định sai lầm, xa rời thực tế không giải quyết
được yêu cầu đang đặt ra sẽ khiến cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
không được liên tục thông suốt, gây tổn thất cho doanh nghiệp. Để có thể đưa ra

được những chính sách biện pháp và chỉ đạo quản lý một cách hiệu quả thì việc
phân tích rất cần thiết phải được tiến hành ngay từ giai đoạn lập kế hoạch đến
khi thực hiện kế hoạch và sau khi kế hoạch đã được thực hiện.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
14
+ Phân tích hiệu quả xuất khẩu sẽ cung cấp những thông tin chính xác
về kết quả kinh doanh, các nhân tố ảnh hưởng và nguyên nhân ảnh hưởng
đến kết qủa kinh doanh, từ đó tìm ra những chính sách biện pháp thích hợp
để nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, các doanh nghiệp hoạt động dưới sự
chỉ đạo của nhà nước bằng các hệ thống chỉ tiêu pháp lệch. Mọi khâu của quá
trình sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? Sản xuất như thế
nào đều do nhà nước trực tiếp chỉ đạo, doanh nghiệp chỉ như một cỗ máy hoạt
động theo kế hoạch đã định sẵn. Bởi vậy mà việc doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hay không không phải là vấn đề cần quan tâm trong thời kỳ đó, nếu
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đã có nhà nước bù lỗ vì vậy doanh nghiệp chỉ quan
tâm xem mình có đạt được các chỉ tiêu kế hoạch do bên trên giao hay không.
Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế nhà nước đã trao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp
có nghĩa là chủ doanh nghiệp sẽ phải quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mình và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp, nhà nước chỉ kiểm soát doanh nghiệp ở tầm vĩ mô:định hướng cho
doanh nghiệp hoạt động, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi và doanh nghiệp
chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ mà nhà nước cho phép. Và khi mà sự
suy vong hay phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào nỗ lực của chính bản
thân doanh nghiệp thì hiệu quả kinh doanh lại là một vấn đề sống còn đối với
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp luôn cố gắng để tìm ra các biện pháp nâng cao hiệu
quả kinh doanh, tìm cho mình một chỗ đứng trên thị trường. Muốn nâng cao hiệu

quả kinh doanh thì trước hết ta phải biết được hiệu quả kinh doanh hiện tại như
thế nào để từ đó tìm ra nguyên nhân cũng như những điểm đã đạt được, rút ra bài
học cho kỳ sau. Định kỳ cứ sau mỗi kỳ kinh doanh doanh nghiệp cần phải tiến
hành phân tích xem doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh doanh cao hay thấp bằng
các chỉ tiêu phân tích đã định trước phù hợp với yêu cầu và nội dung phân tích.
Việc phân tích sẽ cung cấp những thông tin chính xác trung thực về chất lượng
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
15
kinh doanh của doanh nghiệp, tìm ra các nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó có kế hoạch chỉ đạo cho kỳ kinh
doanh sau để làm sao doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn nữa.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng đồng nghĩa với việc nâng cao lợi nhuận,
phát triển mở rộng công việc kinh doanh của doanh nghiệp.
Tiền đề của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là tối ưu hoá trong
việc sử dụng các loại nguồn lực. Nguồn lực ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao
gồm các nguồn lực tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể và không tồn tại dưới dạng
vật chất cụ thể. Tối ưu hoá trong việc sử dụng các loại nguồn lực phải được xem
xét trong một tổng thể chung. Để đạt được điều này đòi hỏi phải tiến hành phân
tích một cách toàn diện, đầy đủ tổng hợp toàn bộ các mặt có liên quan đến hoạt
động của doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các nhân tố tích cực cũng như tiêu
cực trong kinh doanh làm cơ sở đề ra các quyết định đúng đắn và kịp thời nhằm
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hiểu quả kinh doanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau, nhưng cũng cần phải thấy rằng: hoạt động kinh doanh cũng như các
hoạt động khác nhiều khi cũng gặp những rủi ro làm giảm hiệu qủa kinh doanh
và có khi còn làm cho doanh nghiệp phá sản. Phân tích giúp chủ động đối phó
với các bất trắc có thể xảy ra và tránh các rủi ro.
Không phải ngẫu nhiên mà các doanh nghiệp đều luôn quan tâm đến việc
phân tích hiệu quả kinh doanh và họ cho là phân tích là điều cần thiết. Công việc
này không những đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích mà còn giúp doanh

nghiệp tận dụng được những khả năng tiềm tàng mà doanh nghiệp chưa sử dụng
hết để thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao
cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu hoạt động có hiệu quả không
những đem lại nguồn ngoại tệ cho doanh nghiệp mình mà còn góp phần tăng thu
ngoại tệ cho đất nước, cải thiện cán cân thương mại, bình ổn tỷ giá hối đoái, góp
phần nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của các doanh nghiệp xuất
khẩu trong nước. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cần phải được
tiến hành trên nhiều mặt, tiến hành một cách toàn diện từ đó mới có được những
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
16
phương hướng hoạt động thích hợp cho kỳ kinh doanh sau để làm sao sử dụng
hết nguồn lực vật chất hiện có nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh.
+ Phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu là cơ sở khoa học cho việc
đề ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh ở kỳ tiếp theo.
Doanh nghiệp là một hệ thống bao gồm nhiều phần tử: phòng, ban, chi
nhánhmỗi một bộ phận đều có chức năng nhiệm vụ riêng, những chức năng đó
dù là nhỏ nhất cũng đều có quan hệ với nhau tạo nên hiệu quả kinh doanh chung
của toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Phân tích tình hình và hiệu quả kinh
doanh xuất khẩu là cơ sở khoa học cho việc đề ra các kế hoạch sản xuất kinh
doanh tiếp theo đó cũng chính là việc phối hợp hoạt động giữa các phòng ban
trong doanh nghiệp sao cho ăn khớp, hoạt động nhịp nhàng, hợp lý, tất cả các
phòng ban đều hướng tới một mục tiêu chung là lợi nhuận của doanh nghiệp thì
doanh nghiệp sẽ đạt được hiệu quả kinh doanh cao. Trên cơ sở nhận xét đánh giá
về kết quả doanh nghiệp đạt được ở kỳ này, phân tích hiệu quả kinh doanh cao
hay thấp, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra một kế hoạch kinh doanh cũng như đưa ra
các chỉ tiêu cần đạt được trong kỳ tiếp theo sao cho phù hợp với khả năng của
doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra.
Một kế hoạch kinh doanh đưa ra mà không dựa trên các kết quả đã đạt
được trước đó rất có thể sẽ là một kế hoạch nằm ngoài khả năng thực hiện của

doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ theo đuổi những mục tiêu xa vời mà không để ý
đến thực lực của doanh nghiệp mình sẽ dẫn đến không hoàn thành kế hoạch và
không đạt được hiệu quả kinh doanh như mong muốn. Các doanh nghiệp luôn
đứng vững trước mọi thay đổi của thị trường là những doanh nghiệp có kế hoạch
kinh doanh hợp lý, luôn thích ứng với sự thay đổi của thị trường, cung ứng hàng
hoá kịp thời đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Các kế hoạch sản xuất
kinh doanh không chỉ là mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt tới mà nó còn là định
hướng cho doanh nghiệp hoạt động.
Nói tóm lại, phân tích tình hình và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là một
việc làm hết sức cần thiết trong mỗi doanh nghiệp, nó giúp doanh nghiệp nhận
thức và đánh giá đúng đắn tình hình và hiệu quả hoạt động kinh doanh, thấy
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
17
được những thành tích, kết quả đã đạt được, những mâu thuẫn tồn tại và những
nguyên nhân ảnh hưởng để trong kỳ kinh doanh tới phát huy hơn nữa những
thành tích đã đạt được, tránh lặp lại những sai lầm và giải quyết mâu thuẫn còn
vướng mắc. Đúc kết được những bài học kinh nghiệm, những sáng kiến cải tiến
rút ra từ thực tiễn, kể cả những bài học kinh nghiệm thành công huặc thất bại
làm cơ sở cho việc đề ra những phương án, kế hoạch kinh doanh trong kỳ tới.
IV. Nguồn tài liệu và phương pháp phân tích
1.Nguồn tài liệu
Phân tích kinh tế nói chung cũng như phân tích hoạt động kinh tế nói
riêng có một vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô cũng như vi mô.
Để quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, quản lý một ngành hay quản lý một doanh
nghiệp đòi hỏi các nhà quản lý phải đưa ra những chủ trương chính sách biện
pháp quản lý đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn và quy luật phát triển
khách quan. Muốn vậy đòi hỏi các nhà quản lý các cấp phải thường xuyên tiến
hành phân tích các hiện tượng kinh tế cũng như quá trình và kết quả sản xuất
kinh doanh.

Để có thể tiến hành phân tích đòi hỏi phải thu thập một lượng thông tin
cần thiết đầy đủ kịp thời phù hợp với mục đích yêu cầu về nội dung và phạm vi
của đối tượng phân tích. Thông tin dùng trong phân tích hoạt động kinh tế là
những số liệu tài liệu cần thiết làm cơ sở để tính toán và phân tích tình hình và
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó cũng là cơ sở cho
việc đề ra các quyết định tối ưu trong kinh doanh và quản lý. Các quyết định của
nhà quản lý nếu thiếu sự nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ toàn diện các số
liệu thông tin thì sẽ dẫn tới những quyết định thoát ly thực tế không phù hợp với
yêu cầu khách quan từ đó sẽ dẫn đến khả năng rủi ro thua lỗ trong sản xuất kinh
doanh.
Nguồn tài liệu ta có thể sử dụng để phân tích hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp gồm: nguồn tài liệu bên ngoài và nguồn tài liệu bên trong doanh nghiệp
cung cấp.
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
18
* Nguồn tài liệu bên ngoài là các nguồn tài liệu phản ánh chủ trương
chính sách của Đảng nhà nước và các ngành về việc chỉ đạo, phát triển sản xuất
và lưu thông trong và ngoài nước.
+ Chính sách kinh tế tài chính do nhà nước quy định trong từng thời
kỳ như: chính sách cấp vốn huặc cho vay vốn, các chính sách thuế của nhà nước,
chính sách về kinh tế đối ngoại, chính sách về ngoại giao.
+ Tình hình thay đổi về thu nhập thị hiếu trong và ngoài nước.
+ Biến động về cung cầu giá cả trên thị trường trong và ngoài nước.
* Nguồn tài liệu bên trong là các tài liệu liên quan đến việc phản ánh quá
trình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp
+ Tài liệu thông tin từ các kế hoạch sản xuất kinh doanh đã đặt ra bao
gồm: kế hoạch tài chính, kế hoạch xuất khẩu hàng hoá, kế hoạch về sử dụng
vốn
+ Số liệu trên các báo cáo tài chính do phòng kế toán lập hàng kỳ: báo cáo

kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, bảng cân đối tài khoản, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Số liệu do các phòng kinh doanh cung cấp hàng tháng: báo cáo xuất
khẩu theo tháng, theo quý.
+ Tài liệu hạch toán: các sổ sách kế toán, hạch toán tổng hợp, chi tiết, các
chứng từ hoá đơn.
Thông tin trong phân tích hoạt động kinh tế rất phong phú và đa dạng,
trước khi tiến hành phân tích cần phải kiểm tra lại thông tin, số liệu tài liệu đã
thu thập để đảm bảo tính đúng đắn về mặt nội dung kinh tế, thời điểm địa điểm
phát sinh, phương pháp ghi chép, tính toán để tránh những sai sót vì sự sai sót về
số liệu dùng trong phân tích sẽ ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Tuỳ thuộc vào
nội dung và yêu cầu phân tích mà nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin cho thích
hợp.
2. Phương pháp phân tích
Xuất phát từ nội dung, đối tượng và nhiệm vụ phân tích của doanh nghiệp,
phân tích kinh tế vừa phải sử dụng các phương pháp nghiên cứu của các môn
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
19
khoa học khác như thống kê, kế toán, tài chính, quản lý kinh tế vừa có những
phương pháp nghiên cứu riêng của mình, mỗi phương pháp đều có những ưu
nhược điểm và điều kiện vận dụng nhất định, mang tính nghiệp vụ kỹ thuật cụ
thể, phải tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, bản chất của các hiện tượng kinh
tế, kết quả kinh tế, đối tượng cụ thể, các nguồn tài liệu, số liệu và vào mục đích
phân tích để lựa chọn phương pháp thích hợp. Sau đây là một số phương pháp
thường được sử dụng:
2.1/ Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến để đánh giá kết quả, xác
định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương
pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được của các chỉ

tiêu:
+ Thống nhất về nội dung, phương pháp xác định, thời gian và đơn vị tính
của chỉ tiêu so sánh.
+ Tuỳ theo mục đích phân tích để xác định gốc so sánh. Gốc so sánh có thể
chọn gốc thời gian (kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ năm trước) huặc gốc không
gian (so với tổng thể, so với đơn vị khác có điều kiện tương đương, so với các bộ
phận trong cùng tổng thể) kỳ được chọn làm gốc so sánh gọi là kỳ gốc, còn kỳ
được chọn để phân tích là kỳ phân tích. Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng thời
kỳ tương ứng là trị số chỉ tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích.
Có nhiều dạng so sánh, phải căn cứ vào mục đích và yêu cầu của việc
phân tích để lựa chọn dạng so sánh. Mỗi dạng so sánh đều có ý nghĩa kinh tế
riêng của nó, giúp cho doanh nghiệp biết được sự vận động của các hoạt động
kinh tế trên mọi góc độ khác, từ đó có những phương pháp khai thác tiềm năng
của bản thân doanh nghiệp và tiềm năng của xã hội mà doanh nghiệp có thể khai
thác được. Qua so sánh ta biết được kết quả của việc thực hiện các nhiệm vụ đã
đặt ra, biết được tốc độ phát triển của các hiện tượng kinh tế đồng thời biết được
mức độ cụ thể của từng bộ phận cấu thành hệ thống chỉ tiêu cần phân tích.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong phân tích hoạt động kinh tế bao
gồm nhiều nội dung khác nhau:
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
20
So sánh giữa số thực hiện của kỳ báo cáo với số kế hoạch huặc số định
mức để thấy được mức độ hoàn thành bằng tỷ lệ phần trăm (%) hay số chênh
lệch tăng giảm.
So sánh giữa số liệu thực hiện kỳ báo cáo với số liệu cùng kỳ năm trước
huặc các năm trước. Mục đích của việc so sánh này là để thấy được sự biến động
tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua những thời kỳ khác nhau và xu thế phát
triển của chúng trong tương lai.
So sánh giữa số liệu thực hiện của một đơn vị này với một đơn vị khác

để thấy được sự khác nhau và mức độ,khả năng phấn đấu của đơn vị. Thông
thường thì người ta thường so sánh với những đơn vị bình quân tiên tiến trở lên.
Ngoài ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta thường phải so sánh
giữa doanh thu với chi phí đế xác định kết quả kinh doanh huặc so sánh giữa chỉ
tiêu cá biệt với các chỉ tiêu chung để xác định tỷ trọng của nó trong chỉ tiêu
chung
Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích người ta thường tiến hành
so sánh bằng các phương pháp sau:
* So sánh giản đơn
So sánh giản đơn là phương pháp so sánh trực tiếp trị số của chỉ tiêu phân
tích giữa hai kỳ (kỳ phân tích và kỳ gốc)
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) =
Mức chênh lệch = Chỉ tiêu thực hiện Chỉ tiêu kế hoạch.
Việc so sánh như trên sẽ cho biết khối lượng, quy mô mà doanh nghiệp
đạt ở mức độ nào, với tỷ lệ đạt bao nhiêu.
* So sánh có liên hệ:
So sánh có liên hệ là phương pháp so sánh để xem xét sự biến động của
chỉ tiêu phân tích nhưng có liên hệ với tình hình thực hiện của một chỉ tiêu khác
có liên quan.
Chỉ tiêu thực hiện
Chỉ tiêu kế hoạch
ì
100
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
21
Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch =
(liên hệ với )
Phương pháp so sánh còn được dùng để phản ánh nhịp độ biến động hay
tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu cần phân tích (thường là 5 năm).

Tốc độ phát triển liên hoàn:
100
1
ì=
i
i
i
M
M
T
Tốc độ phát triển định gốc:
100
0
ì=
M
M
T
i
oi
Tốc độ phát triển bình quân:
1
=
n
i
tichcacTT
Trong đó:
i
T
: tỷ lệ phát triển liên hoàn
T

: tỷ lệ phát triển bình quân
i
T
0
: tỷ lệ phát triển định gốc
i
M
: doanh thu bán hàng kỳ i
1i
M
: doanh thu bán hàng kỳ i -1
0
M
: doanh thu bán hàng kỳ gốc
Phương pháp so sánh giản đơn được sử dụng để phân tích tình hình xuất
khẩu theo thị trường, theo các đơn vị trực thuộc, theo các phòng kinh doanh và
theo tháng. Thông qua việc so sánh này ta biết được các phòng kinh doanh xuất
nhập khẩu có hoàn thành nhiệm vụ xuất khẩu của mình hay không cả về số
tương đối và số tuyệt đối, phương pháp so sánh còn được sử dụng để theo dõi
tình hình xuất khẩu qua các năm (thường là 5 năm trở lên) để thấy được xu
hướng của xuất khẩu qua các năm là tăng hay giảm.
Như vậy phương phương pháp so sánh được sử dụng hầu hết trong các nội
dung phân tích tình hình xuất khẩu. Ngoài phương pháp so sánh còn có một số
Chỉ tiêu thực hiện
Chỉ tiêu kế hoạch
ì
Chỉ tiêu liên hệ kế hoạch
Chỉ tiêu liên hệ thực hiện
ì
100

Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
22
phương pháp cũng được sử dụng trong phân tích tình hình và hiệu quả xuất khẩu,
sau đây là các phương pháp đó.
2.2/ Phương pháp biểu mẫu sơ đồ
Trong phân tích kinh tế người ta phải dùng biểu mẫu, sơ đồ phân tích để
phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích. Biểu phân tích nhìn
chung được thiết lập theo các dòng cột để ghi chép các chỉ tiêu và số liệu phân
tích. Các dạng biểu phân tích thường phản ánh mối quan hệ so sánh giữa các chỉ
tiêu kinh tế có liên hệ với nhau: so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch, so với
số cùng kỳ năm trước huặc so sánh giữa chỉ tiêu cá biệt với chỉ tiêu tổng thể. Số
lượng các dòng cột tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu và nội dung phân tích. Tuỳ
theo nội dung phân tích mà biểu phân tích có tên gọi khác nhau, đơn vị tính khác
nhau.
Còn sơ đồ, biểu đồ đồ thị được sử dụng trong phân tích để phản ánh sự
biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế trong những khoảng thời gian khác
nhau huặc các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau mang tính chất hàm số giữa các
chỉ tiêu kinh tế. Khi tiến hành phân tích tình hình hay hiệu quả xuất khẩu thì ta
đều phải lập bảng biểu để ghi các số liệu vào các dòng cột đã chọn thực chất
chính là ta đang áp dụng phương pháp biểu mẫu sơ đồ, tuy nhiên phương pháp
này không được sử dụng một mình nó nó còn kết hợp với các phương pháp khác
như phương pháp so sánh, phương pháp số chênh lệch, tỷ trọng, tỷ suất. Ngoài
ra, trong phân tích hoạt động kinh tế người ta còn sử dụng các phương trình quy
hoạch tuyến tính huặc phương trình phi tuyến trong trường hợp các chỉ tiêu phân
tích kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu khác bằng các phương trình trên. Các kết
quả thu được khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu phục vụ
cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn và dài hạn.
Nhưng khi sử dụng các kết quả đó cần phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa
trên các hiện tượng và kết quả kinh tế đã xảy ra trong quá khứ và lại được sử

dụng cho hiện tại và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khác. Do đó, cần phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để
tiến hành điều chỉnh các chỉ tiêu đã được lập ra sao cho phù hợp với tình hình
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
23
biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu,
giúp cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất. trọng, tỷ suất.
Phương pháp này được dùng để phân tích tình hình xuất khẩu theo các nội
dung như đã nêu ở phương pháp so sánh. Đây cũng là một phương pháp được sử
dụng phổ biến giống như phương pháp so sánh.
2.3/ Phương pháp cân đối
Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế tài chính của doanh nghiệp có
nhiều chỉ tiêu có liên hệ với nhau bằng những mối liên hệ mang tính chất cân
đối. Các quan hệ cân đối trong doanh nghiệp có hai loại: cân đối tổng thể và cân
đối cá biệt
Cân đối tổng thể là mối quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp.
Ví dụ: giữa tài sản và nguồn vốn kinh doanh liên hệ với nhau bằng công thức:
Tài sản = Nguồn vốn
Huặc giữa các chỉ tiêu của lưu chuyển hàng hoá có mối quan hệ cân đối được
phản ánh qua công thức:
Hàng tồn
đầu kỳ
+
Hàng nhập
trong kỳ
=
Hàng bán
trong kỳ
+

Hao
hụt
+
Hàng tồn
cuối kỳ
Cân đối cá biệt là quan hệ cân đối của các chỉ tiêu kinh tế cá biệt
v.v
Từ những mối liên hệ mang tính cân đối nếu có sự thay đổi một chỉ tiêu
nào đó sẽ dẫn sự thay đổi một chỉ tiêu khác từ đó xác định được ảnh hưởng của
từng nhân tố đến đối tượng phân tích.
Do vậy khi phân tích một chỉ tiêu kinh tế có liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế
khác bằng mối liên hệ cân đối ta phải lập công thức cân đối, thu thập số liệu, áp
dụng phương pháp số chênh lệch để xác định mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu
đến chỉ tiêu phân tích.
Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
trongkỳ
=
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
cuối kỳ
Luận văn tốt nghiệp

SV: Trần Việt Linh - K36 D5
24
Ví dụ: Khi tính toán phân tích trị giá vốn của hàng xuất bán trong kỳ ta có công
thức sau:
Trị giá
vốn hàng
xuất bán
=
Trị giá hàng
tồn kho đầu
kỳ
+
Trị giá hàng
mua vào
trong kỳ
-
Hao hụt
trong kỳ
-
Trị giá
hàng tồn
cuối kỳ
Luận văn tốt nghiệp
SV: Trần Việt Linh - K36 D5
25
Hoặc
Nợ phải thu
khách hàng
cuối kỳ
=

Nợ phải thu
khách hàng
đầu kỳ
+
Nợ phải thu
khách hàng
trong kỳ
-
Nợ phải thu
khách hàng đã
thu trong kỳ
2.4/ Phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch
Quá trình sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp luôn chịu sự tác
động ảnh hưởng của các nhân tố trong đó có những nhân tố mang tính chất
khách quan và có những nhân tố mang tính chất chủ quan. Về mức độ ảnh hưởng
có nhân tố ảnh hưởng tăng, nhưng có những nhân tố ảnh hưởng giảm kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, để phân tích các nhân
tố ảnh hưởng qua đó thấy được mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố
đến đối tượng nghiên cứu ta phải áp dụng những phương pháp tính toán khác
nhau trong đó có phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch.
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng trong trường hợp giữa đối
tượng phân tích với các nhân tố ảnh hưởng có mối liên hệ phụ thuộc chặt chẽ
được thể hiện bằng những công thức toán học mang tính chất hàm số trong đó có
sự thay đổi của các nhân tố thì kéo theo sự biến đổi của chỉ tiêu phân tích. Ví dụ:
khi phân tích doanh thu bán hàng ta thấy có hai nhân tố ảnh hưởng cơ bản là số
lượng hàng bán và đơn giá bán. Hai nhân tố đó có liên hệ với doanh thu bán
hàng bằng công thức sau:
Doanh thu bán hàng = Số lượng hàng bán ì Đơn giá bán
Phương pháp thay thế liên hoàn cho phép thu nhận một dãy số những giá
trị điều chỉnh bằng cách thay thế liên hoàn các giá trị ở kỳ gốc của các nhân tố

bằng giá trị của các kỳ báo cáo. Số lượng nhân tố càng nhiều thì số điều chỉnh
càng nhiều. Mỗi lần thay thế là một lần tính toán riêng biệt. Kết quả tính toán
được khi thay thế trừ đi giá trị của kỳ gốc huặc giá trị thay thế lần trước thể hiện
mức độ ảnh hưởng nhân tố đó đến đối tượng phân tích.
Nếu số chênh lệch mang dấu (+) thì ảnh hưởng tăng và ngược lại. Khi
thay thế một nhân tố thì phải giả định nhân tố khác không thay đổi. Các nhân tố
thay đổi phải được sắp xếp trong công thức tính toán theo một trình tự hợp lý.

×