Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

Biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện vân đồn, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 163 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

–––––––––

ĐOÀN VĂN LONG

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
VỀ TỘI PHẠM MA TÚY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH
QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

–––––––––

ĐOÀN VĂN LONG

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
VỀ TỘI PHẠM MA TÚY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH
QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Biện pháp bắt người trong điều tra vụ án
hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”
là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả luận văn


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sỹ, tác giả đã nhận được
sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thày, cô giáo, các nhà khoa học, các
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đề tài nghiên cứu cũng được hoàn thành dựa trên
sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu có liên quan
của các tác giả. Đặc biệt đề tài còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận
lợi từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.
Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thày TS. Nguyễn Trung
Thành, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công
sức hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Tác giả xin được trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thày, cô giáo,
các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thiện công trình
nghiên cứu.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu

sót, tác giả kính mong các quý thày, cô, các nhà khoa học những người quan
tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Đoàn Văn Long


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT
NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................ 7
1.1. Bắt người trong tố tụng hình sự. .......................................................... 7
1.2. Phân biệt bắt người với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác.
24
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP NÀY TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ
TỘI PHẠM MA TÚY TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH 29
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
biện pháp bắt người................................................................................... 29
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ
án hình sự về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh...... 46
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN
PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ
TỘI PHẠM MA TÚY ....................................................................................
55
3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp bắt người. .................... 55
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về biện pháp bắt người ......................................................... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự TAND

:

Toà án nhân dân TANDTC

: Toà án

nhân dân tối cao TANDCC

: Toà án

nhân dân cấp cao XHCN

: Xã hội

chủ nghĩa
Nxb


: Nhà xuất bản

VKS

: Viện kiểm sát

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Các biện pháp ngăn chặn nói chung, bắt người nói riêng là một chế định
quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và được áp dụng phổ biến
trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, nhất là biện pháp bắt người tất yếu sẽ hạn chế quyền tự do của người bị
bắt, nhưng có tác dụng không nhỏ đối với quá trình điều tra, truy tố, xét xử, và thi
hành án hình sự cũng như đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều 20 (khoản 2)
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ
trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” [26,
tr.19].
Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đảm bảo người dân không bị bắt,
giam, giữ một cách tùy tiện, vô cớ. Vì thế, khi áp dụng biện pháp bắt người đòi
hỏi phải hết sức thận trọng, phải có căn cứ, đúng đối tượng và đúng thẩm quyền
do luật định. Có như vậy, mới phát huy được tác dụng của biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự. Nếu bắt người không đúng không chỉ ảnh hưởng đến
quyền con người, quyền công dân mà còn tạo dư luận xã hội không tốt và có thể
dẫn đến những hậu quả tiêu cực như để lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội,

gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hình sự.
Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể các biện pháp bắt người, bao gồm: bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người
đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
Trong số những biện pháp bắt người nêu trên, có biện pháp lần đầu tiên được
quy định trong BLTTHS (bắt người bị yêu cầu dẫn độ) để đáp ứng yêu cầu hợp
tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
Từ thực tiễn bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy tại
huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong 5 năm qua (2014 – 2018) cho thấy, các
biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy được áp

1


dụng tương đối phổ biến. Do vậy, đã phát huy được tác dụng tích cực của các
biện pháp bắt người trong điều tra loại án này và góp phần quan trọng vào công

1


tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực, việc áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra vụ
án hình sự về tội phạm ma túy vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót ảnh hưởng đến
quá trình điều tra làm rõ vụ án, gây dư luận xấu trong nhân dân. Những hạn chế,
thiếu sót này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau đòi hỏi
phải có giải pháp khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy trong tình hình mới. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện, chuyên sâu biện pháp bắt người trong điều tra vụ án ma túy từ thực
tiễn của một địa bàn cấp huyện nhằm góp phần làm phong phú thêm lý luận về

biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy, đánh giá
thực trạng áp dụng biện pháp này, trên cơ sở đó xây dựng, kiến nghị những giải
pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp bắt
người là hướng nghiên cứu cần thiết và cấp thiết.
Vì lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Biện pháp bắt người trong điều tra
vụ án hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”
để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến tài
Những vấn đề liên quan đến các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự nói chung, biện pháp ngăn chặn bắt người nói riêng đã được các nhà nghiên
cứu lý luận và cán bộ thực tiễn đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu đã
được công bố.
Trước hết, là các giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại
học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội… Trong các cuốn giáo
trình này, các tác giả đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cũng như quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện
pháp bắt người. Nhưng do khuôn khổ của một giáo trình bậc đại học nên những
vấn đề trên chỉ được đề cập ở mức độ khái quát.
Ngoài hệ thống giáo trình Luật Tố tụng hình sự, nghiên cứu lý luận và
quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn có các cuốn bình luận khoa học
BLTTHS, tiêu biểu là cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ
2


biên, Nxb Tư pháp phát hành năm 2012; Cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015”, do TS. Phạm Mạnh Hùng chủ biên, do Nxb Lao động
phát hành năm 2018; cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015” của tập thể tác giả, do Nxb Công an nhân dân phát hành năm 2018…
Trong các cuốn bình luận khoa học BLTTHS nêu trên, các tác giả đã bình luận

làm rõ nội dung các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, trong đó có đề cập đến các biện pháp bắt người.
Một số công trình khác đề cập đến biện pháp ngăn chặn là sách chuyên
khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình
sự. Điển hình là:
Sách chuyên khảo “những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc
đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Lê
Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương – Th.S Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên), do
Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 2013; Sách chuyên khảo “chế định các
biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn dề lý luận
và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc, do Nxb Chính trị quốc gia phát hành
năm 2015… Trong các cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đã phân tích làm rõ
không chỉ những vấn đề lý luận mà còn thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn ở
Việt Nam.
Luận án tiến sĩ “áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình
sự của lực lượng cảnh sát nhân dân” của tác giả Trịnh Văn Thanh, Học viện
Cảnh sát nhân dân; Luận văn thạc sĩ: “Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn của thành phố Đà Nẵng” của tác giả Trương
Hùng Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Ngô Thùy Khánh
Linh, Học viện Khoa học xã hội năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm
giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của
tác giả Trần Thanh Tùng, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016… Trong các
công trình trên các tác giả đã đề cập đến biện pháp ngăn chặn ở nhiều cấp độ,
phạm vi khác nhau cả về phương diện lý luận, thực tiễn và giải pháp đảm bảo áp
3


dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS
năm 2015 còn có các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: “chế định biện pháp chăn chặn trong BLTTHS năm 2015” của tác
giả Mai Đắc Biên và Mai Ngọc Hải; bài “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo
quy định của BLTTHS năm 2015” của tác giả Hoàng Tám Phi; bài “Những nội
dung mới cơ bản về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong
BLTTHS năm
2015” của tác giả Hoàng Anh Tuyên; bài “Một số quy định về biện pháp tạm
giam trong BLTTHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Hồng Thiện; bài “Những
điểm mới trong các quy định về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam của
BLTTHS năm
2015” của tác giả Ngô Văn Vịnh; bài “Một số vấn đề trao đổi về biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp” của tác giả Ngô Thanh Nhân và Ngô Văn
Vịnh; bài “Tăng cường các biện pháp kiểm sát bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm
giam và thi hành bản án hình sự tuân thủ đúng pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân” của tác giả Vũ Huy Thuận và Bùi Thị Tú Oanh.
Như vậy, mặc dù có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến các biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự (trong đó có biện pháp bắt người). Tuy
nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập đến các biện pháp ngăn chặn nói
chung, ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp bắt người trong tố
tụng hình sự, đặc biệt là trong điều tra vụ án ma túy. Mặc dù vậy, các công trình
khoa học này là những tài liệu tham khảo hết sức bổ ích để học viên thực hiện
luận văn của mình. Đồng thời, qua đây có thể xác định đề tài luận văn này
không trùng với các công trình khoa học đã được công bố ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội
phạm ma túy ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng tới


4


mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong điều tra vụ án ma túy.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích luận giải cơ sở lý luận về biện pháp bắt người trong tố tụng
hình sự trên các bình diện: khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, đối tượng,
áp dụng và mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt người đối với việc giải quyết vụ
án hình sự.
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam (nhất là BLTTHS năm 2015) về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự,
rút ra những điểm mới, hoàn thiện cũng như những vấn đề còn hạn chế, bất cập
trong các quy định đó.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra
vụ án hình sự về tội phạm ma túy ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh,
chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.
+ Đưa ra yêu cầu và thiết lập các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố

tụng hình sự và thực tiễn áp dụng trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện
pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy
+ Về không gian, thời gian: Tại địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018.

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
tư pháp, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ngoài ra, luận văn còn
dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự để làm rõ đối tượng
nghiên cứu.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia… để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
6.1. Ý nghĩa lý luận.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có tác dụng góp phần làm rõ và phong
phú thêm lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong
tố tụng hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong thực tiễn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự, nhất là áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra vụ

án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng
dạy, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự
Chương 2. Thực trạng quy định và áp dụng biện pháp bắt người trong
điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự
về tội phạm ma túy.
7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Bắt người trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Các biện pháp ngăn chặn là nhóm biện pháp cưỡng chế được áp dụng phổ
biến trong thực tiễn điều ta, truy tố, xét xử. Khi tiến hành tố tụng hình sự, cơ
quan người có thẩm quyền được phép áp dụng các biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã;
bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ; bảo lãnh; đặt tiền để
đảm bảo; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh. Các biện pháp này khoa
học luật tố tụng hình sự Việt Nam gọi là các biện pháp ngăn chặn. Trong các
BLTTHS được ban hành năm 1988, 2003 và 2015, nhà lập pháp nước ta không
dành một điều luật riêng để quy định khái niệm pháp lý về các biện pháp ngăn

chặn, mặc dù có quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, đối tượng và các biện pháp
cụ thể có thể áp dụng.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về các
biện pháp ngăn chặn như: “những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp
cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối
với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang),
nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp
tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [49, tr.166]. Khái niệm này đã chỉ rõ tính chất
cưỡng chế, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng, song chưa chỉ ra căn cứ,
chủ thể áp dụng.
Quan niệm khác thì cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính
chất bắt buộc của Nhà nước do những người có thẩm quyền trong cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo
luật định áp dụng, tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một phần quyền tự do thân thể
của bị can, bị cáo và trong trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với người
7


chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục gây nguy hại cho
xã hội”. [35, tr.40]. Khái niệm này đã cho thấy tính chất bắt buộc phải chấp
hành từ phía người bị áp dụng, chủ thể, đối tượng, mục đích áp dụng, nhưng
không hợp lý khi cho là khi áp dụng biện pháp ngăn chặn “tạm thời tước bỏ một
phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo…” Trong khi đó, biện pháp ngăn
chặn không phải là hình phạt, không có nội dung “tước bỏ, hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội” như hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm
2015. Ngoài ra, trong khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ chủ thể có thẩm quyền
áp dụng biện pháp ngăn chặn như chủ thể bắt người phạm tội quả tang và bắt
người đang bị truy nã.

Quan niệm thứ ba thì cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp hạn
chế quyền tự do cá nhân, do người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người liên quan đến việc thực hiện
tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo
đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đạt hiệu quả
cao” [25, tr.41-42]
Quan niện này đã đúng khi chỉ ra bản chất chủ thể, đối tượng, mục đích
áp dụng. Tuy nhiên, không chỉ ra căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.
Mặc dù có sự khác nhau nhất định, nhưng các quan niệm nêu trên tương
đối thống nhất khi đề cập đến bản chất của biện pháp ngăn chặn là biện pháp
cưỡng chế trong tố tụng hình sự, có nội dung hạn chế tạm thời (chứ không tước
bỏ) quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng, đối tượng, mục đích áp dụng. Tuy
nhiên những khái niệm này được xây dựng trước thời điểm ban hành BLTTHS
năm 2015 nên chưa thật sự chính xác và phản ánh đầy đủ những vấn đề thuộc
nội hàm của khái niệm biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Để đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn thật sự khoa học, theo tác giả
của luận văn thì trong nội dung khái niệm này phải thể hiện được bản chất, căn
cứ; chủ thể có thẩm quyền áp dụng; đối tượng bị áp dụng; trình tự thủ tục và
mục đích áp dụng mà BLTTHS năm 2015 quy định.
Với cách tiếp cận như vậy, tác giả luận văn cho rằng: “các biện pháp ngăn
8


chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do cơ quan; người có thẩm
quyền áp dụng đối với những đối tượng nhất định khi có căn cứ và theo một
trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội
phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận
lợi”.
Từ khái niệm này cho thấy, các biện pháp ngăn chặn có các đặc điểm sau:
Một là, biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật

tố tụng hình sự quy định.
Đặc điểm này cho thấy tính cưỡng chế và tính pháp lý (tính luật định) của
biện pháp ngăn chặn
Tính cưỡng chế của các biện pháp ngăn chặn thể hiện ở tính chất và nội
dung cưỡng chế. Xét về tính chất, các biện pháp ngăn chặn là biện pháp tác động
trực tiếp của nhà nước và xã hội lên đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng bị áp
dụng phải chấp hành. Còn xét về nội dung, các biện pháp ngăn chặn khi được áp
dụng, chúng tác động đến thể chất và tinh thần của đối tượng bị áp dụng thông
qua việc cấm đoán một số hoạt động nhất định của đối tượng bị áp dụng như:
cấm tiếp tục phạm tội; cấm bỏ trốn, rời khỏi nơi cư trú mà không được phép của
cơ quan có thẩm quyền; cấm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án; cấm phạm tội mới. Cùng với việc cấm đoán đó, các biện pháp ngăn chặn khi
được áp dụng còn hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của đối
tượng bị áp dụng như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại,
cư trú… Mặc dù các biện pháp ngăn chặn có nội dung này, nhưng không phải là
hình phạt.
Tính pháp lý của biện pháp ngăn chặn thể hiện ở chỗ, chỉ những biện
pháp nào có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án được pháp luật tố tụng hình sự quy định mới
được coi là biện pháp ngăn chặn truy tố hình sự.
Những tính chất này phản ánh bản chất xã hội pháp lý của biện pháp ngăn
chặn.
Hai là, căn cứ áp dụng là những tài liệu, chứng cứ xác đáng phản ánh khả
năng đối tượng bị áp dụng (bị can, bị cáo) sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,
9


truy tố, xét xử và thi hành án, cản trở việc xác định sự thật của vụ án hoặc khả
năng tiếp tục thực hiện tội phạm. Đây là những căn cứ thực tế chứng tỏ cần phải


10


ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây khó khăn, cản trở các hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án.
Ba là, mục đích áp dụng: mục đích chung nhất của việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn là để kịp thời ngăn chặn tội phạm và các hành vi gây trở ngại
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: ngăn chặn việc người
bị tình nghi phạm tội; người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ; ngăn chặn
việc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Bốn là, đối tượng bị áp dụng chỉ bao gồm những người mà BLTTHS quy
định. Họ có thể là người bị buộc tội (bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo); người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị kết án; người bị yêu cầu
dẫn độ. Trong số họ có người đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về tội hình sự
(bị can); có những người đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử (bị cáo); có người
đã bị tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật và phải thi hành bản án đó.
Nhưng cũng có người chưa bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự (người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang…)
Năm là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng là những người mà theo quy định
của BLTTHS họ có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn. Những chủ thể này chủ
yếu là những người tiến hành tố tụng hình sự; những người trong các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; hoặc bất kỳ ai mà theo
quy định của pháp luật có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang
bị truy nã.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bắt người trong tố tụng hình sự.
Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.
Do vậy, cũng có những đặc điểm chung của biện pháp ngăn chặn như đã phân
tích ở trên. Tuy nhiên, đây là một biện pháp ngăn chặn đặc thù khác với các biện
pháp ngăn chặn khác, nên có những đặc điểm riêng (biểu hiện riêng) về bản chất
xã hội pháp lý, căn cứ, mục đích, đối tượng, thẩm quyền áp dụng. Cụ thể là:

+ Thứ nhất, về bản chất xã hội – pháp lý: bắt người trong tố tụng hình sự
biện pháp tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với đối tượng bị áp dụng.
Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác khi được áp dụng có thể hạn chế
không chỉ quyền tự do thân thể mà còn hạn chế một số quyền, lợi ích thiết thực
10


khác của đối tượng bị áp dụng như quyền tự do cư trú, quyền về tài sản… thì
biện pháp này chủ yếu hạn chế quyền tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng.
+ Thứ hai, căn cứ, điều kiện áp dụng tùy theo từng biện pháp bắt người
mà có những căn cứ, điều kiện tương ứng. Tuy nhiên những căn cứ bắt người
phải là những tài liệu, chứng cứ xác đáng phản ánh đối tượng có khả năng tiếp
tục thực hiện tội phạm, khả năng bỏ trốn, khả năng gây khó khăn cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
+ Thứ ba, mục đích áp dụng là để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
những hành vi gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố xét xử, thi hành án,
nhất là hành vi tiêu hủy chứng cứ, bỏ trốn…
+ Thứ tư, đối tượng áp dụng là những người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người có yêu
cầu dẫn độ.
+ Thứ năm, chủ thể có thẩm quyền áp dụng rất đa dạng bao gồm không
chỉ những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,
những người trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra mà còn có thể là bất kỳ ai trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang,
người đang bị truy nã.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm về các biện pháp bắt người
trong tố tụng hình sự như sau: “Bắt người là một trong những biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị
buộc tội, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị yêu cầu dẫn độ, tạm
thời hạn chế tự do thân thể của họ, theo những trình tự thủ tục do pháp luật tố

tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn
tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án được thuận lợi”.
1.1.3. Các biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015, các biện pháp
bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội
quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị
yêu cầu dẫn độ.
11


1.1.3.1. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự áp dụng đối
với người đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà xét thấy cần phải tiếp tục áp
dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người đó trong một thời hạn nhất định.
Qua đây thấy rằng, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt này chỉ là người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điều 110 BLTTHS hiện hành.
Căn cứ để áp dụng biện pháp này là những tài liệu, chứng cứ cho thấy cần
phải tiếp tục áp dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp trong một thời hạn nhất định
Mục đích áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn chặn không để người đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng tiếp tục thực hiện tội phạm, ngăn chặn ngay người phạm tội bỏ trốn, hoặc
tiêu hủy chứng cứ.
Về thẩm quyền, trình tự thủ tục bắt: theo quy định tại khoản 4 Điều 110
BLTTHS năm 2015, những người sau đây có thẩm quyền ra lệnh bắt người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp.
+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
+ Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng

Đồn biên phòng; Chỉ huy trưởng Biên phòng cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ
đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cục trưởng Cục trinh sát
biên phòng; Cục trưởng cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên
phòng; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội
biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển; Cục trưởng Cục nghiệp vụ
và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng,
chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng chi cục kiểm
ngư vùng…
Việc áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được
tiến hành theo trình tự thủ tục như sau:
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, cơ quan điều tra phải lấy lời khai và người có thẩm quyền ra lệnh bắt
12


phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
hoặc trả tự do ngay cho người đó.
Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện
kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê
chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn
lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Thời hạn 12 giờ xét phê chuẩn được
tính liên tục kể cả trong và ngoài giờ làm việc. Do vậy, sau khi đã dẫn giải người
bị bắt về trụ sở của mình. Cơ quan điều tra thụ lý vụ án phải chuyển ngay hồ sơ
có đủ tài liệu cho VKS cùng cấp xét phê chuẩn.
Trường hợp cơ quan điều tra đã ra quyết định tạm giữ nhưng VKS thấy
không có căn cứ để phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
thì VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp. Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn
cấp phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, cơ quan điều tra đã nhận
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.
1.1.3.2. Bắt người phạm tội quả tang.
Căn cứ vào Điều 111 BLTTHS năm 2015 thì bắt người phạm tội quả tang
là trường hợp bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi
thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt [17, tr.217].
Qua đây cho thấy có ba trường hợp bắt người phạm tội quả tang:
+ Trường hợp thứ nhất là trường hợp bắt người khi người đó đang thực
hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đối với trường hợp này phải có căn cứ xác định
một người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi được mô
tả trong cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng chưa kết thúc, hành vi phạm tội của
người này đang gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Việc đang thực hiện tội phạm diễn ra dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất của

13


hành vi phạm tội, có hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời
gian ngắn như hành vi cướp giật, nhưng cũng có hành vi phạm tội được thực

14


hiện trong một thời gian dài và không gian đoạn như hành vi tàng trữ trái phép
chất ma túy quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015. Đối với tội phạm này thì
trong suốt thời gian người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị phát
hiện vào bất kỳ thời điểm nào đều được coi là “đang thực hiện tội phạm thì bị
phát hiện” cần ngăn chặn không để tội phạm tiếp tục được thực hiện.

+ Trường hợp thứ hai là trường hợp một người ngay sau khi thực hiện tội
phạm thì bị phát hiện.
Đối với trường hợp này phải có căn cứ xác định một người ngay sau khi
thực hiện hành vi phạm tội xong, chưa kịp chạy trốn, chưa kịp cất giấu tang vật
hoặc đang cất giấu tang vật, xóa vết tích của tội phạm thì bị phát hiện. Đồng
thời, giữa thời điểm kết thúc việc thực hiện tội phạm và thời điểm phát hiện tội
phạm không có sự gián đoạn về mặt thời gian. Nếu người thực hiện tội phạm đã
kết thúc việc phạm tội và bỏ trốn, sau một khoảng thời gian nhất định người đó
mới bị người khác phát hiện, thì việc bắt người phạm tội trong trường hợp này
không thuộc trường hợp bắt người phạm tội quả tang.
Việc người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm
xong có bị phát hiện hay không tùy thuộc vào tính chất của tội phạm, bối cảnh
xảy ra tội phạm cũng như khả năng phát hiện của người khác.
+ Trường hợp thứ ba là trường hợp một người đang thực hiện tội phạm
hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt.
Đối với trường hợp này phải có căn cứ chứng minh một người đang thực
hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm xong thì bị phát hiện nên đã
bỏ chạy và bị đuổi bắt. Đồng thời giữa việc người phạm tội bị phát hiện, bỏ chạy
và việc bị người khác phát hiện đuổi bắt phải có sự kế tiếp nhau, không gián
đoạn về mặt thời gian, nghĩa là việc đuổi bắt phải diễn ra ngay sau khi người
phạm tội bỏ chạy.
Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang. Do tính cấp bách cần phải
bắt ngay người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc
hành vi trốn tránh pháp luật, cũng như để phát huy tính tích cực của nhân dân
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy

14


định: “bất kỳ người nào cũng có quyền bắt” (khoản 1 Điều 111 BLTTHS năm

2015).

15


×