Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

XỬ lý tài sản PHÁ sản THEO LUẬT PHÁ sản 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.85 KB, 137 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH HẰNG

XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các kết luận, số liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
độ tin cậy./.
Học viên

Nguyễn Thanh Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ
SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN........................................................... 9
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản ..................................................... 9
1.2. Khái quát thủ tục xử lý tài sản phá sản ................................................ 21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG XỬ LÝ TÀI SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM ......... 30
2.1. Những quy định pháp luật về thủ tục xử lý tài sản phá sản................. 30
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật phá sản về xử lý tài sản phá sản............. 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN XỬ LÝ TÀI
SẢN PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN 2014 .......................................... 62
3.1. Phương hướng hoàn thiện .................................................................... 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản...................... 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý tài sản phá sản.
67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, dưới tác động của cạnh
tranh, phá sản doanh nghiệp xảy ra hiện tượng tất yếu. Kinh tế thị trường là
mô hình kinh tế mở trong đó coi trọng và tuân thủ các quy luật vận động, điều
tiết của thị trường, tôn trọng tự do cạnh tranh, tự do hợp tác, mở rộng giao lưu
thương mại, tạo cơ hội cho mọi chủ thể kinh tế tham gia thị trường, tìm kiếm
lợi nhuận,....Có thể nói, kinh tế thị trường là mô hình được nhiều quốc gia lựa
chọn cho quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế. Qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau, thái độ ứng xử của công chúng lẫn Nhà nước đối với hiện tượng phá
sản các doanh nghiệp có nhiều sự khác biệt. Bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ,
người lao động, xử lý tài sản phá sản của doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một
thủ tục thanh toán nợ đặc biệt kèm với việc trừng phạt chủ doanh nghiệp bị
phá sản, xử lý tài sản phá sản như là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả
năng thanh toán và tìm những giải pháp phục hồi doanh nghiệp trước khi
quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường quyền tự chủ trong kinh doanh
của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được pháp luật tôn trọng
và bảo vệ. Đi kèm với quyền tự chủ rộng rãi trong kinh doanh là nghĩa vụ tự
chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng
tiềm ẩn nguy cơ đối diện với phá sản. Xử lý tài sản phá sản làm phát sinh các
mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan và đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh.
Luật Phá sản năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực
thi hành từ ngày 15/10/2004, thay thế cho Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 với nhiều điểm tiến bộ. Với Luật Phá sản năm 2004 theo Báo cáo của
PGS.TS Dương Đăng Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh (tháng 11/2008) về
thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh

1


doạnh tại Việt Nam thì Tòa án thụ lý gần 350 đơn yêu cầu tuyên bô phá sản,

ra quyết định mở thủ tục phá sản 236 trường hợp, và thực tế cũng chỉ quyết
đinh tuyên bô phá sản được 83 trường hợp. So với năm 2004, năm 2012,
doanh nghiệp đăng ký đã vượt trội hơn rất nhiều, có gần 5000 doanh nghiệp
dừng hoạt động và hơn 9.000 doanh nghiệp giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp. Tình hình thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 mặc dù đã được cải thiện nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản
so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động là rất thấp, hiệu quả giải quyết
việc phá sản ở các cấp Tòa án vẫn chưa đạt kết quả tốt.
Tại Mục 3 Phần II về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở hữu,
quyền tự do kinh doanh có nhận định: “…Xây dựng một khung pháp luật
chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ đặc quyền
và độc quyền kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; từng bước thống nhất
pháp luật áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài” theo Nghị
quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
Tại kỳ họp VII, ngày 19/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật phá sản số 51/2014/QH13. Có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Luật Phá sản 2014 đã có nhiều sửa
đổi bổ sung mới so với Luật Phá sản 2004. Luật Phá sản 2004 có 9 chương và
95 điều luật thì Luật Phá sản 2014 có tận 14 chương và 133 Điều luật. Luật
Phá sản 2014 được đánh giá là có những sửa đổi khá căn bản và toàn diện từ
những khó khăn và bất cập của Luật Phá sản 2004. Sửa đổi, bổ sung một số
nội dung như: tiêu chí xác định Doanh nghiệp, Hợp tác xã (doanh nghiệp, hợp
tác xã) lâm vào tình trạng phá sản, chế định quản tài viên, về thủ tục xử lý tài
sản phá sản …

2



“Tổng hợp hơn 23 báo cáo của các TAND cấp tỉnh cho thấy: Năm
2017, số vụ việc yêu cầu phá sản được các tòa án thụ lý, giải quyết tăng mạnh
với 439 vụ việc, trong đó có 45 quyết định tuyên bố phá sản. Con số này phản
ánh thực tế LPS 2014 đã đi vào cuộc sống, từng bước khắc phục những
vướng mắc, bất cập của LPS năm 2004. Tuy nhiên, trên thực tế, năm 2017, có
38.869 DN tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN
hoàn tất thủ tục giải thể là 12.113. Năm 2018, có 27.126 DN đăng ký tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn và 63.525 DN tạm ngừng hoạt động không
đăng ký hoặc chờ giải thể; số DN hoàn tất thủ tục giải thể là 16.314.” theo
Báo cáo kết quả triển khai thi hành LPS năm 2014 . Như vậy, số DN, HTX
chấm dứt hoạt động thì số vụ xử lý tài sản thông qua thủ tục phá sản tại tòa án
vẫn còn rất khiêm tốn.
Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật Phá
sản 2014 không chỉ nhằm giải quyết vụ việc phá sản đúng pháp luật mà
còn góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của các chủ nợ, cơ cấu lại nền
kinh tế thị trường phát triển đất nước. Vận dụng những nguyên tắc của pháp
luật phá sản và những quy định về xử lý tài sản phá sản là để tìm ra những
giải pháp góp phần ngày một hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản phá sản.
Luật Phá sản
2014, một số vấn đề đã được sửa đổi bổ sung nhưng khi áp dụng các quy định
vào thực tiễn đã cho thấy còn nhiều khó khăn, vướng mắc về xử lý tài sản phá
sản. Xác định giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán trong xử lý tài sản phá sản cần phải có những quy định chặt chẽ, cụ thể
và đầy đủ hơn nữa làm căn cứ khi áp dụng với thực tiễn.
Nhận thức được xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 rất quan
trọng trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hậu quả của nó không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp, người lao động, chủ nợ trong doanh nghiệp
mà còn tác động đến các thành phần khác tùy vào quy mô của doanh nghiệp
phá sản. Đề tài “Xử lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản 2014” là luận văn
3



em chọn, với mong muốn phần nào làm rõ và định hướng cụ thể để tháo gỡ
những vướng mắc, bất cập, đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả khi áp dụng
quy định về xử lý tài sản phá sản và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về xử lý tài sản phá sản theo Luật phá sản 2014 đã có
những bước tiến quan trọng, cụ thể có liên quan đến Đề tài như sau:
- “Pháp Luật phá sản của Việt Nam” của PGS, TS. Dương Đăng Huệ,
xuất bản năm 2005;
- “Thực trạng pháp luật về phá sản và hoàn thiện môi trường pháp luật
kinh doạnh tại Việt Nam” tháng 11/2008 – chủ biên PGS.TS Dương Đăng
Huệ, Thạc sỹ Nguyễn Thanh Tịnh;
-“Phá sản doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt Nam”ngày
10/8/2017 - Phan Thị Mỹ Hạnh, Viện Dầu khí Việt Nam;
- “Pháp luật phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện” ngày 29/6/2017 – Thạc sỹ Nguyễn Thị Dung;
- “Thực trạng phá sản doanh nghiệp và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về phá sản ở Việt Nam” - Thạc sỹ Nguyễn Kim Anh;
- “Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật phá
sản Việt Nam” – Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thị Hồng Vân,
khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Với đề tài “Quản lý và xử lý tài
sản phá sản theo quy định của pháp luật phá sản Việt Nam”, tác giả đã hẹ
thông hóa các vấn đề ly luạn và thực tiễn về tài sản phá sản, về quản ly tài sản
phá sản, và xư ly tài sản phá sản. Phan tích những nọi dung cua pháp luạt về
quản ly và xư ly tài sản phá sản, đồng thời chi ra mọt sô quy đinh bất cạp
trong các van bản pháp luạt hiẹn hành của Viẹt Nam và những hạn chế, vướng
mắc trong thực tiễn áp dung các quy đinh về quản lý, xư ly tài sản phá sản.
Đưa ra một sô đề xuất, kiến nghi về phưong hướng và giải pháp sửa đổi, bô


4


sung và hoàn thiẹn các quy định pháp luạt Viẹt Nam về quản lý, xư ly tài sản
phá sản nhằm phát huy hiẹu lực của nhưng quy đinh đo;
- “Xử lý tài sản theo pháp luật phá sản Việt Nam” - Luận văn Thạc sĩ
Luật học của Quách Thị Minh Phượng (2009), Khoa Luật trường Đại học
Quốc gia Hà Nội. Về mặt lý luận tác giả đã nêu được khái niệm tình trạng phá
sản, thủ tục thanh lý Tài sản phá sản, mối quan hệ giữa thủ tục thanh lý tài sản
và các thủ tục khác trong thủ tục giải quyết phá sản. Phần thực trạng tác giả
đã phân tích được các quy định về thanh lý tài sản theo pháp luật của Việt
Nam hiện hành: về điều kiện ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản phá
sản, về giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định mở thủ tục thanh
lý tài sản phá sản; về xử lý và thanh lý tài sản phá sản. Các giải pháp được
tác giả tập trung vào 2 nhóm: hoàn thiện quy định về thủ tục thanh lý tài sản
phá sản và giải pháp đảm bảo hiệu quả thực thi quy định về thanh lý tài sản
phá sản;
- “Trình tự thu tục thanh lý tài sản pha san theo phap luạt Viẹt Nam
hiẹn nay”- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Thị Huệ (2017), Học
Viện Khoa Học Xã Hội đã hệ thống hoá được các khái niẹm phá sản, mất khả
nang thanh toán, thu tục phá sản, nêu so luợc sư hinh thành và phát triển của
quy đinh về thu tuc thanh ly tài sản phá sản ở Viẹt Nam và phân tích mối
quan hẹ giữa thu tục thanh ly tài sản với các thu tuc khác trong giải quyết phá
sản. Tác giả đã phân tích thực trạng Thực trạng các quy định cua pháp luạt về
thanh ly tài sản phá sản của doanh nghiẹp, hợp tác xã, các tô chức tín dụng.
Đã phân tích thực trạng về quản tài vien, Doanh nghiẹp quản ly, thanh ly tài
sản, phân tích thực trạng thực hiẹn các quy định của pháp luạt về thanh ly tài
sản phá sản. Nêu lên các hạn chế, bất cạp lien quan đến thanh ly tài sản phá
sản. Đặc biệt tác giả đã nêu được các giải pháp cu thể nhằm hoàn thiẹn pháp
luạt về thanh ly tài sản phá sản như: Sớm ban hành van bản huớng dẫn thực


5


hiẹn Nghi đinh sô 22/2015/NĐ-CP cua chính phủ, xay dựng co chế phôi hợp
giữa Tòa án, Viẹn kiểm sát, co quan thi hành án dan sự, ngan hàng, Quản tài
vien và doanh nghiẹp hành nghề thanh ly tài sản trong hoạt đọng quản lý,
thanh ly tài sản, Rà soát các đạo luạt co quy định lien quan đến thanh ly tài
sản của doanh nghiẹp, hợp tác xã phá sản để sửa đôi, bô sung mọt cách đông
bọ, thông nhất;
- “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn”, bài báo của Th.s Nguyễn Tuấn Hải (Học viện Tư pháp) đăng trên Tạp
chí Toà án Nhân dân ngày 02/04/2018 về “Thanh lý tài sản của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” đã phân tích những vướng mắc, bất cập
của Luật Phá sản năm 2014. Qua đó nêu lên một số kiến nghị nhằm thực thi
có hiệu quả thủ tục thanh lý tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 như:
Quy định cụ thể về giới hạn tài sản phá sản; Bổ sung các quy định về tài sản
được loại trừ khỏi khối tài sản phá sản, nêu những định hướng để thực hiện
hiệu quả chế định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý tài sản, định giá lại tài
sản, thu hồi nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán…
Như vậy, các Đề tài nghiên cứu có nhiều nội dung nhau nhưng về kết
quả đều là làm cho các quy định pháp luật phá sản dễ đi vào cuộc sống và dễ
áp dụng vào thực tiễn, bảo đảm được quyền và lợi ích các chủ thể có liên
quan. Mặc dù trong quá trình vận dụng pháp luật vào thực tiễn vẫn còn một số
vướng mắc về xử lý tài sản phá sản, Luật Phá sản 2014 đã có những thay đổi
mới về xử lý tài sản phá sản đòi hỏi phải có sự nhất quán trong cách hiểu vận
dụng trong thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là chỉ rõ được những khó khăn, bất cập trong xử
lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán theo Luật phá

sản 2014. Phân tích thực trạng về xử lý tài sản phá sản khi áp dụng những quy
định hiện hành của Luật Phá sản 2014. Trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu về
6


xử lý tài sản phá sản để hiện thực hóa các quy định của Luật Phá sản vào cuộc
nhằm tạo môi trường kinh doanh và động lực mới cho phát triển kinh tế đất
nước.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa và giải quyết những vấn đề lý luận cơ bản về tài sản
phá sản xử lý tài sản phá sản;
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định Luật Phá sản 2014 về
thủ tục xử lý tài sản phá sản trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản
2004;
+ Nghiên cứu, phân tích thực tiễn áp dụng Luật Phá sản 2004, từ đó đề
ra một số biện pháp nhằm thực thi có hiệu quả Luật Phá sản 2014.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về xử lý tài sản
phá sản, những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh
lý tài sản, từ việc thành lập, chất lượng hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, sự
phối hợp với Thẩm phán, chấp hành viên, chế độ làm việc, lưu giữ tài liệu
hoạt động của tổ đến vấn đề nhạy cảm là tiền thù lao cho thành viên của Tổ.
Những vướng mắc khác liên quan đến việc thực hiện quản lý và bảo quản tài
sản phá sản, kiểm kê tài sản doanh nghiệp, xác định giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp, vấn đề thu hồi tài sản phá sản. Quan trọng hơn cả là vấn đề xử
lý tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với vấn đề xác
định giá trị tài sản, giải quyết quyền sử dụng đất của doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản, xử lý các tài sản đảm bảo để thanh toán cho các chủ nợ có bảo đảm,
xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản nằm rải rác ở nhiều nơi, vấn
đề phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được viết dựa trên các phương pháp phân tích, tổng hợp các
chế định pháp lý về thủ tục phá sản nói chung, về xử lý tài sản phá sản nói
7


riêng trên phương diện lý luận và phân tích thực tiễn để nhận định, đánh giá
những vướng mắc, khó khăn dẫn đến hạn chế tính khả thi của các quy định
pháp luật. Phương pháp phân tích so sánh những tiến bộ qua các lần sửa đổi,
bổ sung các quy định liên quan đến Luật Phá sản 2014. Các quy định từng
vấn đề pháp lý trong giới hạn nghiên cứu của pháp luật một số quốc gia để rút
ra được kinh nghiệm khi đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục xử lý tài sản phá sản theo
Luật Phá sản 2014
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về tài sản và thủ tục xử
lý tài sản phá;
- Quy định rõ về tài sản và cách thức xử lý tài sản phá sản;
- Chỉ rõ một số điểm mới giữa Luật Phá sản 2014 và Luật Phá sản 2004;
- Phân tích thực trạng về thi hành pháp luật xử lý tài sản phá sản ở Việt
Nam;
- Chỉ ra những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng
các quy định pháp luật về xử lý tài sản phá sản;
- Đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả
pháp luật xử lý tài sản phá sản.
7. Kết cấu luận văn
Toàn bộ Luận văn gồm phần mở đầu,chương 1, chương 2, chương 3,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính của luận văn được bố
cục thành ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản tài sản phá sản và thủ tục xử lý

tài sản phá sản;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành hoạt động xử lý
tài sản ở Việt Nam hiện nay;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi có hiệu quả
pháp luật xử lý tài sản phá sản theo pháp luật Việt Nam.
8


Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN, TÀI SẢN PHÁ SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản phá sản
1.1.1. Khái niệm về tài sản
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất
động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và
tài sản hình thành trong tương lai.” theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự
năm 2015.
* Tài sản là vật chỉ có ý nghĩa khi trở thành đối tượng của quan hệ pháp
luật, nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của
con người. Không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được
coi là vật. Vì vậy, có những bộ phận của thế giới vật chất ở dạng này thì được
coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.
Ví dụ, Ô-xi còn ở dạng không khí trong tự nhiên thì chưa thể được coi là
vật, vì chưa thể đưa vào giao dịch dân sự. Chỉ khi con người có thể nắm giữ,
quản lý được thì mới có thể đưa vào giao lưu dân sự và được coi là vật. Chính
vì vậy, để thỏa mãn được thành vật trong dân sự thì phải có những điều kiện
sau:
- Là bộ phận của thế giới vật chất;
- Con người chiếm hữu được;
- Mang lại lợi ích cho chủ thể;

- Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở
hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch.
Căn cứ xác định giá trị sử dụng của vật để được chia ra thành nhiều phần
nhỏ mà Bộ luật dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia
được. Căn cứ vào giá trị của tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao
và vật không tiêu hao. Căn cứ vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta
9


phân loại vật thành vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Không chỉ vậy,
người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đồng bộ, Vật được phân
loại thành các nhóm khác nhau:
- Vật có đăng ký quyền sở hữu và vật không đăng ký quyền sở hữu Vật
chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng (ví dụ: ti vi, điều hòa, máy
ảnh…);
- Vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật
chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính (ví dụ:
điều khiển ti vi, điều hòa, vỏ máy ảnh,…).
*Tiền: Theo Mác thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra
khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các
loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ
sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Bộ luật dân sự năm 2005 và cả
Bộ luật dân sự năm 2015 đều quy định tiền là một loại tà sản nhưng lại không
có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. chỉ có loại tiền có giá trị đang
được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là
tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là
thước đo giá trị.
* Giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao lưu dân sự hiện
nay đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác. Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển

giao được trong giao lưu dân sự. Giấy tờ có giá tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau, có thể có rất nhiều cơ quan ban hành như : kho bạc, các công ty cổ
phần…, có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá, có thể có thời hạn sử
dụng hoặc không có thời hạn sử dụng, có thể ghi danh hoặc không ghi danh
và việc thực hiện quyền định đoạt về số phận thực tế đối với giấy tờ có giá
cũng không bị hạn chế như việc định đoạt tiền. Ví dụ: giấu nhận nợ, tờ vé số
trúng thưởng, trái phiếu, cổ phiếu…tất cả những giấy tờ trị gia được bằng
10


đồng Việt Nam. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài
sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật
bảo vệ. giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển
nhượng với điều kiện chuyển nhượng tòan bộ một lần, việc chuyển nhượng
một phần giấy tờ có giá là vô hiệu.
Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính
rủi ro, các loại giấy tờ xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà,
giấy đăng ký xe máy,… không phải là giấy tờ có giá. Những loại giấy tờ này
chỉ được coi là một vật thuộc sở hữu của người đứng tên trên giấy tờ đó.
* Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác đã được quy định tại Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015.
* Quyền sử dụng đất là quyền tài sản, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không được coi là tài sản cũng đã được quy định tại điều 105 Bộ luật dân
sự 2015. Điều 163 Bộ luật dân sự 2005.
=> Quyền tài sản được là một loại tài sản và có thể dùng để trao đổi
trong các giao dịch dân sự, thương mại, thực hiện góp vốn hoặc để lại thừa kế
trong trường hợp cá nhân chết hoặc tuyên bố là đã chết.
Điều 107 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định bất động sản và động sản

như sau:
“1. Bất động sản bao gồm:
a) Đất đai;
b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai;
c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng;
d) Tài sản khác theo quy định của pháp luật.
2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản.”

11


Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản là cách phân loại
tài sản dựa vào đặc tính vật lý của tài sản là có thể di dời được hay không thể
di dời được, các tài sản không thể di, dời được do bản chất tự nhiên cấu tạo
nên tài sản đó, bao gồm:
- Đất đai: đất đai trong giao lưu dân sự được xác định bằng diện tích đất
cùng vị trí của mảnh đất đó. Điều này được thể hiện trên bản đồ địa chính,
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận thông qua quyết định giao
đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó.
- Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai: Khoản 1 Điều 104 Luật
Đất đai năm 2013 quy định về cấp Giấy chứng nhận đối với tài sản gắn liền
với đất, như sau: “Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, qu yền sở hữ u n hà ở và tài sản khác gắn liền với đất bao
gồm nhà ở, cô ng tr ình xâ y dựn g khác, rừng sản xuất là rừng trồng và
câ y lâu nă m có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, theo quy
định của pháp luật, tài sản gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây
dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất.

- Cây cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất: Khoáng sản, cây cối hoa
màu trên đất cũng được coi là bất động sản chừng nào người ta chưa khai
thác, chặt cây, hay hái lượm.
- Các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đều được coi là bất
động sản. Thông thường, việc gắn một động sản vào nhà, công trình xây dựng
một mặt phải nhằm tạo một chỉnh thể thống nhất phục vụ cho mục đích sử
dụng nhà, công trình đó, mặt khác, việc gắn động sản vào nhà, công trình phải
do người có quyền đối với nhà, công trình xây dựng đó thực hiện. Việc gắn
liền phải mang tính chất kiên cố, không thể tháo ra mà không làm hư hại hoặc
mất vẻ mỹ quan của nhà, công trình.
12


Ví dụ: Hệ thống điện, nước trong nhà, bức tượng… (nếu được gắn vào
hốc tường một cách kiên cố cũng có thể được coi là bất động sản).
Ngoài những tài sản là bất động sản kể trên, pháp luật có quy định
những tài sản khác là bất động sản và bằng các văn bản hướng dẫn cụ thể.
Ví dụ: theo quy định của Điều 5, “Luật Kinh doanh bất động sản năm
2014 thì quyền sử dụng đất là bất động sản”.
Căn cứ vào thời điểm hình thành tài sản và thời điểm xác lập quyền sở
hữu cho chủ sở hữu, bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại vào thời
điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở hữu của tài sản đó
(nhà đã được xây,…). Tài sản hình thành trong tương lai được hiểu là tài sản
chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ vào thời điểm xem xét nhưng chắc
chắn sẽ có hoặc được hình thành trong tương lai (nhà đang được xây dựng
theo dự án, tiền lương sẽ được hưởng,…).
Ngoài tài sản hiện có là tài sản đã tồn tại còn có tài sản hình thành trong
tương lai. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản đã được hình
thành tại thời điểm giao kết giao dịch nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch

tài sản đó mới thuộc sở hữu của các bên (ví dụ: tài sản mua bán, thừa kế
nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển giao cho chủ sở hữu).
- “Sản nghiệp thương mại là toàn bộ tài sản gồm cả tài sản hữu hình và
vô hình thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp của thương
nhân phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa hàng, kho tàng,
trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu hàng hóa,
mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ” theo khoản 7, Điều 5, Luật
Thương mại 1997.
Thương mại ở thời kỳ trước là hàng đổi hàng,con người trao đổi trực tiếp
hàng hóa hay dịch vụ mà không cần thông qua các phương tiện thanh toán. Ví
dụ: Đổi một xe đạp lấy một mảnh đất). Tuy nhiên, hình thức trao đổi trực tiếp

13


này ít còn tồn tại đến ngày nay do nhiều nguyên nhân.Trong hình thức này
không có sự phân biệt rõ ràng giữa người bán và người mua, do người bán
mặt hàng A lại là người mua mặt hàng B đồng thời điểm. Vì thế tiền được
hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa thương mại
giữa “Tiền – Hàng – Tiền). Trước đây, tiền thường được liên kết với các
phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị ví dụ như đồng tiền bằng vàng thì
tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (ví dụ:
tiền giấy). Trong thương mại quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là
tiền tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho
chúng. Chính vì vậy, khi đưa thêm tiền giấy hay tiền kim loại vào sử dụng thì
tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được nâng cao
thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát. Điều này sẽ làm suy giảm phát triển kinh tế thị
trường.
Nguyên nhân Thương mại tồn tại vì nó là sự chuyên môn hóa và phân
chia lao động, trong đó các nhóm người nhất định nào đó chỉ tập trung vào

việc sản xuất để cung ứng các hàng hóa hay dịch vụ thuộc về một lĩnh vực
nào đó để đổi lại hàng hóa hay dịch vụ của các nhóm người khác. Thương mại
cũng tồn tại giữa các khu vực là do sự khác biệt giữa các khu vực này đem lại
lợi thế so sánh hay lợi thế tuyệt đối trong quá trình sản xuất ra các hàng hóa
hay dịch vụ có tính thương mại hoặc do sự khác biệt trong các kích thước của
khu vực (dân số chẳng hạn) cho phép thu được lợi thế trong sản xuất hàng
loạt. Vì thế, thương mại theo các giá cả thị trường đem lại lợi ích cho cả hai
khu vực. Thương mại được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát
sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng.
Thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: giao dịch về cung cấp hoặc trao
đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ
thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác
hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc
14


kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển,
đường không, đường sắt hoặc đường bộ.
1.1.2. Khái niệm tài sản phá sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản
Nghiên cứu pháp luật nhiều nước cho thấy, hiện nay có hai loại têu
chí để xác định thời điểm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tiêu chí
về định lượng và têu chí về định tính. Kinh nghiệm của một số nước khi xây
dựng khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì trường có quy
định về số nợ cụ thể, về thời hạn chậm thanh toán nợ từ phía doanh nghiệp
mắc nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Tính định tính thể hiện ở quy định
về những tài liệu cần thiết mà còn nợ phải gửi cho Tòa án sau khi Tòa thụ
lý đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản để Tòa án đánh giá tổng số nợ và
tổng tài sản của con nợ như danh sách chủ nợ kèm theo số nợ, báo cáo về

tình trạng tài chính, tài sản và khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp mắc
nợ. Như vậy, khái niệm tnh trạng phá sản đã được xây dựng trên cơ sở
kết hợp giữa hai têu chí định lượng và tiêu chí định tính.
Theo từ điển Tiếng Việt thì thuật ngữ “phá sản” được hiểu là “lâm vào
tình trạng tài sản không có gì, thường là do kinh doanh bị thua lỗ, thất
bại. Các văn bản pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa thế nào là phá
sản, phá sản doanh nghiệp mà chỉ giải thích khi nào thì doanh nghiệp, hợp
tác xã được coi là “lâm vào tnh trạng phá sản”. Theo Luật Phá sản năm 2014
thì phá sản được hiểu là “tnh trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Như
vậy, phá sản dù chưa định nghĩa thống nhất nhưng về cơ bản được sử dụng
để chỉ sự đổ vỡ trong hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp hoặc cá
nhân.

15


Giống như pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật phá
sản ở nước ta hiện nay điều chỉnh hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản


16


thủ tục phá sản. Pháp luật phá sản doanh nghiệp hiện hành bao gồm tất cả
các quy định của pháp luật đang còn hiệu lực điều chỉnh việc phá sản, giải
quyết phá sản doanh nghiệp. Bản chất của pháp luật phá sản hiện đại là pháp
luật về thủ tục đòi nợ tập thể (liên quan đến nhiều người) và cứu vớt
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ. Điều đó có nghĩa là pháp luật

phá sản không chỉ là pháp luật về thanh toán mà còn là pháp luật về quản trị
doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính nhằm cứu vớt doanh nghiệp đó.
Pháp luật phá sản là toàn bộ các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, quy định về điều kiện mở thủ tục phá sản và điều kiện tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Giáo trình Luật Thương Mại tập 2 – Trường
Đại học Luật Hà Nội (2014) có đưa ra khái niệm như sau: “Pháp luật phá sản
có thể hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành,
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã..”; quy định trình tự, thủ tục giải quyết và
yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng như thi hành quyết định tuyên bố phá sản;
về địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia tố tụng phá sản và
các vấn đề khác phát sinh liên quan đến giải quyết phá sản.
Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù khi vừa chứa đựng các quy
phạm của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật
hình thức (pháp luật tố tụng). Với tư cách là pháp luật nội dung, pháp luật
phá sản điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Với tư cách là
pháp luật hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên
quan, quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

17


Trên cơ sở vận dụng có chọn lọc những thành tựu của các hệ thống
luật tên tiến trên thế giới kết hợp với việc nghiên cứu quá trình giải quyết
phá sản, luận văn đưa ra khái niệm tài sản phá sản:

18



Tài sản phá sản là khối sản nghiệp của doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ
những tài sản có và tài sản nợ của doanh nghiệp từ thời điểm Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến thời điểm có quyết định của Tòa án
về việc hoàn tất vụ việc phá sản.
Tài sản doanh nghiệp gồm hai loại: tài sản có và tài sản nợ
• Tài sản có
Những tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền quản lý, sử dụng của
doanh nghiệp được gọi là tài sản có và được phân loại thành tài sản lưu động
và tài sản cố định như sau:
- Tài sản lưu động là biểu hiện dưới hình thái vật chất của các thành
phần tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh sản xuất (các thành
phần này còn được gọi là đối tượng lao động). Tài sản lưu động trong doanh
nghiệp thường được chia thành 2 loại: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản
lưu động lưu thông. Tài sản lưu động sản xuất: Các loại nguyên vật liệu, nhiên
liệu, phụ tùng thay thế… dự trữ sản xuất và các loại sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm đang trong quá trình sản xuất. TSLĐ lưu thông: Các loại tài
sản nằm trong quá trình lưu thông như thành phẩm chờ tiêu thụ, vốn trong
thanh toán, vốn bằng tiền…
Việc tài sản lưu động sản xuất và lưu thông vận động thường xuyên và
đổi chỗ cho nhau sẽ đảm bảo cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trong
doanh nghiệp diễn ra ổn định và nhịp nhàng.
- Tài sản cố định là tư liệu sản xuất chuyên dùng trong sản xuất kinh
doanh, có giá trị lớn và dùng được vào nhiều chu kì sản xuất. Có ba loại tài
sản cố định: tài sản cố định hữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài
hạn, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, các khoản đầu tư xây dựng cơ bản...

19



Những tài sản cố định hữu hình có hình thái vật chất cụ thể do
doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như:
trụ sở, cửa

20


hàng, kho tàng, máy móc, thiết bị công tác, phương tiện vận tải, phương
tện truyền dẫn...và hao mòn dần theo thời gian.
Những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị
đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham
gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới
đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản
quyền tác giả… ví dụ như lợi thế của địa điểm kinh doanh, điều này có ý
nghĩa quan trọng khi xác định giá trị quyền sử dụng đất; tay nghề của người
lao động trong doanh nghiệp, có ý nghĩa khi trả một số phụ cấp cho họ khi
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản...
Tài sản cố định tài chính là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê
của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được
quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tếp tục thuê theo các điều kiện đã
thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tền thuê một loại tài sản
quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của
tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Giá trị của các khoản đầu tư tài chính
dài hạn với mục đích kiếm lời, thời gian thu hồi vốn lớn hơn một năm hay
một chu kỳ kinh doanh như: đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê tài sản cố
định, đầu tư chứng khoán dài hạn.
• Tài sản nợ
Tài sản nợ là các loại nợ của doanh nghiệp. Tài sản nợ được phân loại
như sau nợ : nợ có đảm bảo, nợ có đảm bảo một phần, nợ không có đảm bảo.
- Các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc

của
người thứ ba thì được gọi là nợ có bảo đảm.

21


×