Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (886.38 KB, 129 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HẢI ĐĂNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HẢI ĐĂNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ bất cứ luận văn của một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn
gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan trên.
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2019
Tác giả

Trần Hải Đăng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ ................................................................................... 10
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ.......................................................................................................... 10
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ......................................................................... 21
Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI TỈNH QUẢNG NINH .................................... 31
2.1. Định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại
tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 31
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ tại tỉnh Quảng Ninh......................................................................... 49
Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI
TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................... 60
3.1. Yêu cầu của việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ........................................... 60
3.2. Các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đúng đối
với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Quảng
Ninh ................................................................................................................. 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ATGT

An toàn giao thông

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT


Cơ quan thi hành tố tụng

CTTP

Cấu thành tội phạm

CTTPCB

Cấu thành tội phạm cơ bản

ĐTD

Điều tra

GTĐB

Giao thông đường bộ

HĐXX

Hội đồng xét xử

QĐHP

Quyết định hình phạt

QPPL

Quy phạm pháp luật


TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao thông đường bộ luôn giữ vị trí và vai trò quan trọng đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Trong những năm
qua, mặc dù Đảng, Nhà nước cũng như chính quyền các cấp đã nỗ lực
tiến hành nhiều giải pháp nhằm kiềm chế, kéo giảm tình hình tai nạn giao
thông nói chung và tình hình tội vi phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ nói riêng nhưng tình hình tai nạn giao cũng như tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thông vẫn diễn biến phức
tạp, gây thiệt hại không nhỏ về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác,
trở thành vấn đề xã hội hết sức bức xúc và làm đau đầu các cơ quan chức
năng, các nhà quản lý ở nước ta. Đối với Quảng Ninh, điều đó cũng không
phải là ngoại lệ.
Trong thời gian qua, TAND các cấp tỉnh Quảng Ninh đã cùng với các
cơ quan bảo vệ pháp luật khác của tỉnh như Viện kiểm sát nhân dân các cấp,

Cơ quan điều tra… đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực trong công tác
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB nói riêng, Hội đồng xét xử đã đưa ra xét xử nghiêm minh, hợp tình,
hợp lý nhiều vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn tỉnh, qua
đó góp phần tích cực trong hoạt động phòng, chống tội phạm vi phạm quy
định về tham gia GTĐB, bước đầu nâng cao được hiệu lực quản lý của bộ
máy Nhà nước cũng như hiệu quả của các cơ quan tư pháp tại Quảng Ninh.
Tuy nhiên trong công tác vẫn còn bộc lộ những bất cập, khó khăn nhất
định, như: Biên chế cán bộ chiến sĩ làm công tác phòng ngừa hiện nay còn
thiếu; việc thực hiện trách nhiệm của các cơ quan có liên quan chưa thật sự
tốt, còn đùn đẩy né tránh, nhiều trường hợp làm không hết chức năng, nhiệm
vụ. Bên cạnh đó giữa cơ quan công an với các cơ quan có liên quan chưa có
sự phối hợp hoặc nếu có thì còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ. Chế độ chính sách
đãi ngộ cán bộ chưa đảm bảo ảnh hưởng đến hiệu quả công tác này. Trang
2


thiết bị đã cũ và thiếu hoặc trang bị mới nhưng không được tập huấn chuyển
giao công nghệ nên nhiều phương tiện không phát huy được tác dụng. Đối với
hoạt động xét xử của TAND các cấp tại tỉnh Quảng Ninh, trong thời gian qua
vẫn còn một số vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB chưa thật sự
đảm bảo tính thuyết phục trong quá trình xét xử, gây nên những dư luận chưa
được tốt trong nhân dân, ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động phòng, chống
tội phạm nói chung và tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Xuất phát từ thực tiễn tình hình vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ cũng như công tác xét xử các vụ án về loại hình tội phạm này
của tỉnh Quảng Ninh, để hoạt động phòng, chống tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB có hiệu quả thì các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh và đặc biệt
là TAND cấp tỉnh, cấp huyện của tỉnh Quảng Ninh phải có giải pháp đúng
đắn, linh hoạt, phù hợp và hiệu quả, có cơ sở lý luận khoa học trong quá trình

triển khai các nhiệm vụ. Đồng thời, phải có cơ chế phối kết hợp chặt chẽ,
đồng bộ giữa TAND, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan công an với nhau cũng
như các cơ quan, ban ngành có liên quan, các đoàn thể chính trị, xã hội (Mặt
trận tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên…); phải nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, viên chức, người lao động tham gia trong
quá trình phòng, chống tội phạm; có sự nhìn nhận, đánh giá chuẩn xác và cụ
thể về thực tiễn tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong những năm
qua tại tỉnh Quảng Ninh để càm căn cứ xây dựng các kế hoạch phòng, chống
tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Để thực hiện được yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng nêu trên, việc trang bị
một nền tảng lý luận vững chắc là rất cần thiết cho các cơ quan bảo vệ pháp
luật của tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động đấu tranh, phòng chống với tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn Quảng Ninh là rất quan trọng.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có công trình, luận án, luận
văn, đề tài nghiên cứu khoa học… nghiên cứu một cách toàn diện, cụ thể và

3


có hệ thống về hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm theo chức năng
của các cơ quan bảo vệ pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh đối với tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB với bối cảnh và tình hình phức tạp của địa phương.
Do vậy, tác giả chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
để nghiên cứu, làm rõ hơn thực trạng, thông qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để phân tích làm rõ thực trạng tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ, đề xuất các giải pháp phù hợp và hiệu quả thông qua

việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, đề tài đã tổng quan các giáo
trình của các trường đại học, các luận án, luận văn, sách báo, tạp chí, tài liệu
tham khảo… đề cập đến loại tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB,
cụ thể:
Tác giả Ngô Hoàng Huy (2010), với luận văn tốt nghiệp thạc sĩ nghiên
cứu tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh có tên: Đấu tranh phòng chống
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa
bàn tỉnh Bến Tre, đã phân tích và làm rõ hơn các nội dung về quy định liên
quan đến tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn cụ thể là tỉnh
Bến Tre, đây là tài liệu hữu ích giúp tác giả xây dựng hệ thống lý luận về loại
tội phạm này [20].
Tác giả Nguyễn Văn Nghiệp (2011), với luận văn thạc sĩ được triển
khai tại Trường Đại học Luật Hà Nội: Phòng ngừa tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đã
hệ thống hóa hệ thống những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ, phân tích và làm rõ thông qua các ví
dụ điển hình trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng [26].

4


Tác giả Nguyễn Thế Anh (2013), hoàn thành luận văn thạc sĩ luật học
tại Học viện khoa học xã hội với tên đề tài: Đấu tranh phòng chống tội vi
phạm quy định về [1].
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung (2015), với luận văn thạc sĩ luật học,
hoàn thành tại Trường Đại học Luật Hà Nội với tên đề tài: Phòng ngừa tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh [25].
Ngoài ra, nghiên cứu về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB đã có
nhiều bài báo, đề tài, bài nghiên cứu ngắn phân tích và làm rõ các nội dung

liên quan cụ thể:
Tác giả Lê Văn Luật (2011), với bài viết nghiên cứu khoa học “Xác
định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ - một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, tr. 10-14 [22]
Tác giả Nguyễn Việt Cường (2014), đã nghiên cứu và làm rõ một số
nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu là “Một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định tại Điều 202 BLHS 1999 tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ”, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân tối
cao, tr. 18-20 [10].
Có thể khẳng định rằng các công trình trên tập trung chủ yếu nghiên
cứu về hoạt động đấu tranh đối với tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện GTĐB, tập trung nêu lên thực trạng và phân tích nguyên nhân để
đưa ra giải pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện GTĐB. Tuy nhiên, khi tìm hiểu và làm rõ các nội dung nghiên
cứu thì các công trình này chưa đi sâu phân tích tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
những năm gần đây, đặc biệt là hoạt động định tội danh và quyết định hình
phạt.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận; quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (trước
đây là tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ);
thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Quảng Ninh, luận văn đề xuất các

giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội nói trên
tại tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để triển khai thực hiện có hiệu quả mục đích nghiên cứu nêu trên, luận
văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận, các dấu hiệu pháp lý cũng như các quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam trước đây và hiện hành về tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn định tội danh cũng như quyết định
hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại
tỉnh Quảng Ninh;
- Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích thực trạng của
vấn đề nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hiệu quả, bảo đảm định tội danh và
quyết định hình phạt đúng, nghiêm minh đối với tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để
nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình
sự và tố tụng hình sự đối với tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
Áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ gồm nhiều nội dung và chủ thể tiến hành khác

nhau. Tuy nhiên, luận văn này giới hạn ở hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đối với tội này.
Do vậy, các số liệu và các bản án điển hình phục vụ việc nghiên cứu đề tài
được thu thập từ thống kê của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh trong
thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lênin với hạt nhân là phép duy vật biện
chứng và phép duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật, nhất là chính sách hình sự
của Nhà nước ta về tội phạm, về hình phạt, về bảo vệ công lý, quyền con
người, về cải cách tư pháp… để nhìn nhận, đánh giá và giải quyết các vấn đề
lý luận chung về tội vi phạm qui định về tham gia GTĐB, các vấn đề lý luận
chung về định tội danh và quết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB và liên hệ với thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh, để từ đó phân
tích và đưa ra giải pháp hoàn thiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài và phân tích làm rõ hơn các quy định
về vi phạm quy định về tham gia GTĐB, tác giả luận văn còn sử dụng kết hợp
trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thu thập tài liệu
thứ cấp là các sách chuyên khảo, các đề tài, luận án, các báo cáo…, phân tích,
so sánh đối chiếu, chứng minh, đánh giá, khái quát hóa và hệ thống hóa vấn

7


đề và một số phương pháp khác liên quan để nghiên cứu đề tài thuộc chuyên
ngành luật hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Với kết quả nghiên cứu tương đối đầy đủ về khái niệm, các dấu hiệu
pháp lý cũng như các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB, lý luận và thực tiễn định tội danh cũng như lý luận và
thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB, luận văn góp phần nhận thức thống nhất những vấn đề lý luận về tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho đội ngũ tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát
viên, Điều tra viên…), những người tham gia tố tụng như luật sư, giám định
viên, trợ giúp viên pháp lý... Đồng thời, những kết quả nghiên cứu của đề tài
luận văn là tài liệu hữu ích về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB nhằm
phục vụ cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan
chức năng ở tỉnh Quảng Ninh và các địa phương khác sử dụng làm tài liệu
tham khảo, vận dụng trong công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục về hoạt
động phòng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm qui định về tham gia
GTĐB nói riêng.
Đặc biệt, trong bối cảnh mới, hội nhập quốc tế, quá trình toàn cầu hóa
diễn ra sâu rộng… thì tình hình tội phạm vi phạm qui định về tham gia GTĐB
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đặc biệt là khi vực thành phố Hạ Long, Uông
Bí và Móng Cái… ngày càng diễn biến phức tạp và nguy hiểm, gây ra những
hậu quả nghiêm trọng, các quy định pháp luật cũng như công tác tổng kết xét
xử, kiểm tra xét xử về vấn đề này… còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như
hiện nay thì một số kiến nghị, giải pháp được nêu trong luận văn sẽ có ý nghĩa

8


nhất định trong việc bảo đảm áp dụng đúng, nghiêm minh các quy định của

pháp luật hình sự về tội vi phạm qui định về tham gia GTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, danh
mục các chữ viết tắt và danh mục các bảng biểu, luận văn có kết cấu gồm 03
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết
định hình phạt đúng đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ tại tỉnh Quảng Ninh.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ
Tội phạm là một khái niệm pháp lý được đề cập và định nghĩa cụ thể
trong Bộ luật hình sự của nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam. Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu trách
nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự [28, tr.18].

Tội phạm không chỉ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong luật hình sự mà đồng thời là hiện tượng xã hội tiêu cực được nhiều
ngành khoa học khác nhau nghiên cứu, trong đó có khoa học luật hình sự và
tội phạm học. Khoa học luật hình sự và tội phạm học đều là khoa học về tội
phạm. Tuy nhiên, khoa học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự là
khoa học về tội phạm có tính pháp lý, còn tội phạm học và khoa học điều tra
tội phạm là khoa học về tội phạm không có tính pháp lý hay nói cách khác là
khoa học về tội phạm hiện thực.
Tất cả những hành vi bị coi là tội phạm đều có cùng bản chất xã hội và
những đặc điểm nhất định. Trước hết, tội phạm là hiện tượng xã hội tồn tại
trong mọi quốc gia, được phản ánh trong luật hình sự vì trái với chuẩn mực xă
hội ở mức cao nhất so với các hiện tượng lệch chuẩn khác. Nó là hiện tượng
xã hội-pháp lí [28]. Hiện nay trong tội phạm học có khá nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm tình hình tội phạm. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về tình hình
tội phạm đề tài luận văn chia sẻ quan điểm của tác giả Võ Khánh Vinh cho
rằng tình hình tội phạm được hiểu là một hiện tượng xã hội tiêu cực, được
10


thay đổi về mặt lịch sử mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ
thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và
khoảng thời gian nhất định [59, tr.60].
Khoa học luật hình sự và tội phạm học tuy cùng nghiên cứu về tội
phạm nhưng mỗi ngành đều có nội dung mục đích nghiên cứu cũng như
phương pháp nghiên cứu riêng về đối tượng này. Theo đó, trong một số ngôn
ngữ tồn tại hai khái niệm khác nhau được dùng trong hai ngành khoa học này.
Theo quy định tại điều 8 của BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ

quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội
phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” [39].
Ý thức chấp hành các quy định về tham gia giao thông đường bộ của
người tham gia giao thông kém dẫn đến tình trạng tai nạn giao thông xảy ra
thường xuyên. Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao gây hậu quả
nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự [34][39].
Chủ thể của tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”
quy định tại điều 260 BLHS 2015 bao gồm tất cả những người tham gia giao
thông đường bộ; người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ,
người đi bộ trên đường bộ hoặc là người điều khiển, dẫn dắt súc vật lưu thông
trên đường bộ chứ không phải chỉ đơn thuần là người điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ như điều 202 BLHS 1999 [39]. Sự thay đổi những quy

11


định trên là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thực tiễn, bởi lẽ trên thực tế đã
có rất nhiều người đi bộ, người điều khiển, dẫn dắt súc vật khi tham gia giao
thông đường bộ và có những hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao
thông đường bộ, trong một số trường hợp thì hành động trên đã và có thể sẽ
gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người và phương tiện khác khi tham
gia giao thông, nên việc xử lý đối với họ là hoàn toàn đúng đắn, cần thiết và
công bằng với những người tham gia giao thông khác.
Theo quy định tại khoản 2 điều 260 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) thì các nhà làm luật quy định các tình tiết định khung tăng nặng trách

nhiệm hình sự đối với các tội phạm này dựa trên các yếu tố thuộc về người
tham gia giao thông như: không có giấy phép lái xe khi tham gia giao thông,
lái xe trong tình trạng có sử dụng rượu, bia, chất ma túy hoặc chất kích thích
khác…đây là yếu tố nhằm khẳng định người điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ có đủ điều kiện hoặc có đủ khả năng để điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ hay không, mà không hề có quy định chi tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự nào dựa trên loại phương tiện tham gia giao thông
đường bộ mà người điều khiển sử dụng khi tham gia giao thông, phương tiện
đó có đủ điều kiện an toàn kỹ thuật hoặc có được phép tham gia giao thông
không? [39].
Bởi lẽ, phương tiện giao thông đường bộ, trong đó có nhiều loại được
quy định và được coi là nguồn nguy hiểm cao độ bởi khả năng tiềm ẩn những
rủi ro, những mối nguy hiểm đối với con người, tài sản khi tham gia giao
thông. Vì vậy nhà nước đã có các quy định rất chặt chẽ về các loại phương
tiện được phép lưu hành, cấm lưu hành; việc tiến hành đăng kiểm, kiểm định
về an toàn kỹ thuật định kỳ cũng như việc thi, cấp giấy phép lái xe đối với
từng loại phương tiện giao thông nhất định, nhằm đảm bảo các phương tiện và
người điều khiển phương tiện phải hội đủ các điều kiện, tiêu chuẩn nhất định
mới được phép đưa vào tham gia giao thông.

12


Như vậy, có thể khẳng định rằng những vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ của người tham gia giao thông là hành vi vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ được quy định trong các văn bản pháp
luật hiện hành gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sức khỏe, tài sản của người khác.
Như vậy, rõ ràng, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) của
nước ta đã có sự thay đổi rõ rệt so với quy định tại BLHS năm 1999 (sửa đổi,

bổ sung năm 2009) khi có những quy định rộng hơn về chủ thể của hành vi
tham gia giao thông gồm tất cả những người tham gia giao thông kể cả những
người không tham gia giao thông như người đi bộ.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn và trên cơ sở so sánh, phân tích
các quy định của BLHS năm 1999 và 2015, tác giả đưa ra khái niệm như sau:
“Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được hiểu là hành vi
chủ thể tham gia giao đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ theo quy định của BLHS hiện hành, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý,
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài
sản của người khác”.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
(1) Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn GTĐB. Đối với những
hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà không có tính
chất nguy hiểm, không gây thiệt hại cho người khác thì bị xử phạt vi phạm
hành chính. Đối tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông
đường bộ bao gồm: xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao
thông đường bộ. Điều này căn cứ vào Luật Giao Thông đường bộ để xử lý.

13


(2) Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
Hành vi khách quan: Người phạm tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB đã có hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ
theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam. Để xác định hành vi vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết phải xác định
phương tiện giao thông đường bộ bao gồm những loại nào. Việc xác định

hành vi vi phạm các quy định về tham gia GTĐB không chỉ căn cứ vào các
quy định của Bộ luật hình sự hiện hành mà phải căn cứ vào các quy định tại
Luật giao thông đường bộ hiện hành và các văn bản hướng dẫn của các cơ
quan có thẩm quyền liên quan đến hoạt động giao thông đường bộ.
Hậu quả: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là tội phạm có cấu
thành vật chất theo quy định của Bộ Luật hình sự hiện hành. Vì vậy, hậu quả
là dấu hiệu bắt buộc đối với tội này. Nếu hành vi vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại về tính mạng (làm chết
người) hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ (gây thương tích), tài sản
của người khác thì không cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trên thực tế, hành vi vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn giao thông thường gây
thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng về sức khỏe hoặc tài sản cho
người khác. Hậu quả của tai nạn giao thông là một trong những căn cứ để xác
định trách nhiệm đối với người gây tai nạn [39].
Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị chết; Thiệt hại nghiêm
trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác là làm cho người khác bị
thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát hư hỏng nặng.
Khi xác định thiệt hại tài sản mà hành vi vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ gây ra cho người khác cần chú ý: Chỉ những tài sản do
hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trực tiếp gây ra,
còn những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm
hình sự
14


đối với người phạm tội như: Do bị thương nên phải chi phí cho việc điều trị
và các khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả…).
Hành vi tham gia giao thông đường bộ khi vi phạm các quy định của
pháp luật về tham gia giao thông đường bộ có thể gây thiệt hại về tính mạng,

sức khoẻ, tài sản mà người phạm tội gây ra là thiệt hại đối với người
khác, nên không tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho chính mình.
Theo quy định của Bộ luật hình sự và Luật giao thông đường bộ thì
đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ,
đây là những cơ sở hạ tầng cốt lõi của đường bộ. Còn phương tện tham gia
GTĐB gồm phương tện giao thông cơ giới đường bộ, phương tện giao thông
thô sơ đường bộ mà người tham gia GTĐB sử dụng để lưu thông trên đường
bộ. Phương tện tham gia GTĐB theo quy định gồm phương tện giao thông
đường bộ thông dụng (xe máy, ô tô, xe tải…) và xe máy chuyên dùng (xe máy
thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp có tham gia giao thông đường bộ).
Đối với phương tiện giao thông đường bộ, nói chung không khó xác
định. Tuy nhiên, đối với xe máy chuyên dùng, việc xác định có phải là
phương tiện tham gia giao thông hay không trên thực tế gặp rất nhiều khó
khăn, có nhiều trường hợp phức tạp.
Ngoài ra còn có những dấu hiệu khách quan khác như: Đường bộ, công
trình đường bộ, đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ, phần
đường xe chạy, làn đường, khổ giới hạn của đường bộ, đường phố, dải phân
cách, đường cao tốc… Các yếu tố này cũng rất quan trọng khi xác định hành
vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ.
(3) Chủ thể của tội phạm
Để nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB thì việc xác
định rõ chủ thể của loại tội phạm này là rất quan trọng, mặc dù không phải là
chủ thể đặc biệt, nhưng chỉ những người tham gia giao thông đường bộ mới
15


là chủ thể của tội phạm này. Khi xác định chủ thể của tội vi phạm quy định
về

16



tham gia GTĐB cần chú ý: Người người tham gia GTĐB thì có thể không
phải là người điều khiển phương tiện GTĐB.
Điều 202 BLHS 1999 quy định “Tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tện giao thông đường bộ”, theo đó chỉ những người nào điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mới phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội này [34].
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ năm
2008 quy định cụ thể về người tham gia giao thông đường bộ thì:
“Người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương
tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người
đi bộ trên đường bộ” [36]…
Như vậy, hiểu theo Điều 202 của BLHS 1999 thì không thể xử lý trách
nhiệm hình sự đối với “người sử dụng phương tện tham gia giao
thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường
bộ” [34] mặc dù họ cũng tham gia giao thông và gây thiệt hại đến tính mạng,
gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản của người
khác.
Điều 260 BLHS năm 2015 Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ (sửa đổi, bổ sung 2017) đã sửa đổi tên điều luật theo hướng
đầy đủ hơn về chủ thể phạm tội, tức là người nào tham gia giao thông
đường bộ mà vi phạm quy định về đảm bảo an toàn giao thông thì đều có thể
bị xử lý trách nhiệm hình sự về tội này [39].
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm được thực
hiện do lỗi vô ý và không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng
(theo quy định tại điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung
năm 2017). Chủ thể của tội tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
17



đường bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có khả năng nhận thức, khả năng
điều khiển hành vi [39].

18


(4) Mặt chủ quan của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
Trường hợp người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao
thông đường bộ thực hiện hành vi của mình trong quá trình tham gia giao
thông là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả). Vô ý vì quá tự tin
được hiểu là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây
ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra
hoặc có thể ngăn ngừa được nên tiếp tục thực hiện hành vi của mình nên
gây ra những hậu quả nghiệm trọng. Vô ý vì cẩu thả là người phạm tội không
thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó nhưng vẫn thực
hiện hành vi của mình khi tham gia giao thông đường bộ.
Lỗi hỗn hợp trong vụ án tai nạn giao thông là điều rất dễ gặp trong
thực tễn, lỗi này được hiểu là cả hai bên đều có những sai phạm so với quy
định của luật giao thông đường bộ. Trong lập pháp thì “tội phạm có hai hình
thức lỗi” là vấn đề còn bỏ ngỏ. làm sáng tỏ hơn nữa về tội phạm có hai
hình thức lỗi là việc làm rất cần thiết. nhiều trường hợp cố ý phạm tội,
nhưng vô ý gây hậu quả nguy hại cho xã hội. loại tội thường được gọi là hình
thức “hỗn hợp lỗi” hoặc “lỗi pha trộn”. Lỗi hỗn hợp là trường hợp có hành vi
gây thiệt hại nhưng đó là kết quả của nhiều bên có lỗi, có thể có lỗi của
người phạm tội, người bị hại hoặc của những người thứ ba. Chẳng hạn, tai
nạn giao thông xảy ra, có thể do lỗi của người lái xe, người bị hại bất cẩn,
hoặc có một người nào đó gây ra chướng ngại.

1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ với một số tội phạm khác
1.1.2.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội giết người quy định tại điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015

19


Những điểm giống nhau: Chủ thể của tội phạm đều do những người có
năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện


20


động cơ, mục đích đều không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành
tội phạm của 02 tội này.
Những điểm khác nhau:
(1) Về khách thể của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ được xác định là xâm phạm đến sự an toàn, trật tự của
hoạt động giao thông đường bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài
sản của người khác khi gây ra lỗi trong quá trình tham gia giao thông, còn tội
giết người theo quy định của BLHS thì xâm phạm đến quyền được bảo vệ
tính mạng của con người, tức là tội giết người có thể được hình thành khi
người tham gia giao thông cố ý gây tai nạn, đe dọa đến tính mạng của người
khác để phân biệt với hành vi vô ý của tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông.
(2) Về mặt khách quan của tội phạm thì hai loại tội phạm này có sự
khác biệt như sau: Hành vi giết người là hành vi mà người phạm tội đã thực
hiện việc tước đoạt trái pháp luật tính mạng hoặc có khả năng gây ra cái chết

cho người khác, được thể hiện dưới dạng hành động và không hành động
(âm mưu giết người được chứng minh), trong khi đó, hành vi vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ của các chủ thể là hành vi vi phạm
các quy định về an toàn giao thông đường bộ của người tham gia giao thông
được thể hiện dưới dạng hành động cụ thể trong quá trình tham gia giao
thông.
(3) Về mặt chủ quan của tội phạm: tội giết người được tội phạm thực
hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tếp hoặc cố ý gián tiếp) nhằm thực hiện hành vi
phạm tôi, còn tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được
thực hiện do lỗi vô ý (vì quá tự tin hoặc cẩu thả). Như vậy, một người dùng
phương tện giao thông để tước đoạt tính mạng của người khác trong quá
trình tham gia giao thông một cách trái pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm
21


×