Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.58 KB, 146 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG ĐỨC THIỆN

THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CHỐNG
NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG ĐỨC THIỆN

THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CHỐNG
NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THỊ MAI

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lương Đức Thiện


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU THẬP
CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CHỐNG NGƯỜI THI
HÀNH CÔNG VỤ
.....................................................................................................8
1.1. Một số vấn đề lý luận về chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi
hành công vụ ...............................................................................................................8
1.2. Một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ
án chống người thi hành công vụ ..............................................................................18
Tiểu kết chương 1......................................................................................................32
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT
ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI TỈNH QUẢNG NINH.............33
2.1. Quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các vụ
án chống người thi hành công vụ ..............................................................................33
2.2. Đặc điểm tình hình tội phạm và kết quả hoạt động thu thập chứng cứ trong
điều tra vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ............49

2.3. Đánh giá, nhận xét thực trạng hoạt động thu thậpchứng cứ trong điều tra các
vụ án các vụ án chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .........62
Tiểu kết chương 2......................................................................................................67
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI TỈNH QUẢNG NINH.............68
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra các
vụ án chống người thi hành công vụ .........................................................................68
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu chứng cứ trong điều tra các vụ án
chống người thi hành công vụ...................................................................................71
Tiểu kết chương 3......................................................................................................79
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VAHS:

Vụ án hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

VKS:

Viện kiểm sát

TTHS:


Tố tụng hình sự

ANTT:

An ninh trật tự

ĐTV:

Điều tra viên


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Hiện nay, thực tế xã hội ngày càng chuyển động theo hướng tiến bộ kéo theo
những tác động của nền kinh tế tự do, vật chất, với những mặt mặt chưa được vốn
có đã làm ảnh hưởng tới nhiều hoạt động của cuộc sống. Nền kinh tế thị trường phát
triển, xu hướng hội nhập kinh tế thế giới kéo theo sự du nhập của các nền văn minh
mới, luồng tư tưởng tiến bộ mới, phong cách sống mới đã và đang là điều kiện làm
gia tăng các loại tội phạm. Tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước ngày càng có xu
hướng gia tăng về số lượng, phức tạp và tinh vi hơn về thủ đoạn và hình thức. Bên
cạnh đó, cùng với thực trạng trên thì luật pháp một công cụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con nguwoif luôn bám sát tình trạng tội phạm và có những quy định, những
sửa đổi phù hợp nhằm đạt được hiệu quả phòng chống, ngăn ngừa và trừng trị thích
đáng đối với các loại tội phạm. Hỗ trợ và đưa pháp luật đi vào đời sống một cách
nhanh chóng và công bằng nhất là đội ngũ những người thực thi pháp luật hay còn
gọi là người thi hành công vụ, nhưng tại một thời điểm nào đó, chính những “người
thi hành công vụ” cũng là đối tượng hướng đến của tội phạm. Pháp luật bị vi phạm,
người thực thi pháp luật bị xâm hại và đó cũng chính là lúc sự răn đe, ngăn ngừa,
phòng chống, sự nghiêm trị từ những quy định của pháp luật cần được đề cao. Tội
chống người thi hành công vụ được quy định tại Điều 330 của BLHS 2015 sửa đổi,

bổ sung 2017, là một trong những chế tài hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người thi hành công vụ cũng như răn đe và trừng phạt những hành vi
chống người thi hành công vụ.
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [19]. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [16], Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được

1


chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của
Tòa án có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [21].
Điều đó có nghĩa chừng nào chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật thì người bị buộc tội vẫn được coi là người chưa có tội. Như vậy, hoạt động thu
thập, đánh giá chứng cứ trong TTHS là hoạt động mang tính chất quyết định, xác
định một người có tội hay không có tội và là tội gì. Đây là nội dung cơ bản của việc
áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình giải quyết vụ án và là một trong những
biện pháp đưa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định người
phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật
hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối
với hành vi phạm tội đó. Vì thế, hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ được xem là
tiền đề, điều kiện cho việc điều tra, truy tố, xét xử, góp phần mang lại hiệu quả
trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong trường hợp hoạt động thu thập, đánh
giá chứng cứ không chính xác, khách quan, sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý
khác là oan, sai, kéo dài thời gian giải quyết vụ án...Luật tố tụng hình sự quy định

việc thu thập chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ. Nhưng trong thực tiễn
không ít những vụ án hình sự có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau trong việc thu
thập, đánh giá chứng cứ, có những vụ án qua nhiều cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm). Song mỗi một bản án lại đánh giá khác nhau. Có tình trạng trên
chính là sự khác nhau trong nhận thức, trong thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ
trong vụ án.
Quảng Ninh là tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc của Việt Nam với địa bàn rộng
lớn, địa hình đa dạng và đặc biệt có rất nhiều ưu thế để phát triển các ngành kinh tế
từ khai khoáng, khai thác đánh bắt hải sản, cảng biển, du lịch cho đến xuất nhập
khẩu. Tỉnh Quảng Ninh có địa bàn trải dài và tiếp giáp với quốc gia láng giềng là
Trung Quốc do đó tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội chống người thi
hành công vụ ở Quảng Ninh là tương đối phức tạp. Những năm gần đây, tình hình

2


tội phạm chống người thi hành công vụ (THCV) nói chung, chống lại lực lượng
chức năng đang thi hành nhiệm vụ nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tuy chưa
thực sự bức xúc nhưng đã và đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Từ những
vụ việc đơn lẻ, mang tính bột phát đến những vụ có tổ chức, với số đối tượng tham
gia đông, hành vi mang tính liều lĩnh, manh động, coi thường pháp luật.
Theo thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xảy
ra 39 vụ chống người THCV với 56 đối tượng tham gia (chiếm tỷ lệ 0.57% so với
số vụ phạm pháp hình sự xảy ra cùng thời điểm: 56/6.804), làm bị thương 58 cán bộ
đang thi hành nhiệm vụ, hư hỏng 5 xe tuần tra (2 xe ôtô)…CQĐT công an tỉnh
Quảng Ninh đã tích cực chủ động tiến hành khởi tố điều tra đối với các vụ án chống
người thi hành công vụ, đảm bảo mọi vụ việc được tiến hành điều tra nhanh chóng
nhằm đưa ra xét xử trước Tòa án. Trong quá trình điều tra các vụ án chống người
thi hành công vụ trên địa bàn Quảng Ninh, hoạt động thu thập chứng cứ để chứng
minh hành vi phạm tội đã được làm triệt để, nhiều nội dung được chứng minh đảm

bảo yêu cầu điều tra, tránh tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy, hoạt động thu thập chứng cứ
trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo luật TTHS Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ những hạn chế như: không kiểm tra đầy đủ
các loại chứng cứ, không đánh giá đúng và xác định chính xác mối liên hệ giữa các
chứng cứ, chưa tạo sự đồng bộ giữa thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ…Những
hạn chế trên dẫn đến một số vụ án vẫn còn kéo dài thời hạn giải quyết, các vụ chống
người thi hành công vụ xảy ra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ nên còn bỏ lọt
những đối tượng khác, đặc biệt trong các vụ án có nhiều đối tượng cùng chống
người thi hành công vụ…
Do vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ
trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, cũng như thực trạng hoạt động
thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật
TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, từ đó đề xuất những giải pháp để
nâng cao chất lượng, kết quả hoạt động này góp phần nâng cao hiệu quả công tác

3


đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chống người thi hành công vụ là yêu cấp thiết được
đặt ra. Chính vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài “Thu thập chứng cứ trong
điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có một số đề tài và một số công trình khoa học công bố liên
quan đến đề tài như:
- Đỗ Văn Đương (2000), “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra VAHS ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ.
- Nguyễn Thanh Tùng (2004), “Hoạt động thu thập đánh giá và sử dụng
chứng cứ trong điều tra các vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn thành phố Hà

Nội, thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả”, Luận văn Thạc sĩ.
- Hoàng Trung Thực (2005), “Hoạt động thu thập, bảo quản và xử lý vật
chứng trong điều tra các VAHS theo chức năng của lực lượng Cảnh sát nhân dân
Công an thành phố Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp”,
- Huỳnh Tấn Hải (2014), “Hoạt động thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ
trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo luật TTHS Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ.
- Vương Văn Bép, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ
trong Luật TTHS Việt Nam. Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2013.
Bên cạnh đó, còn có một số công trình khoa học, luận văn, luận án nghiên
cứu về các vấn đề có liên quan như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam (Chương VI,
mục 6), PGS, TS.Võ Khánh Vinh chủ biên (Trường Đại học Huế, 2002); tài liệu tập
huấn chuyên sâu về Bộ luật TTHS năm 2003 của Hội đồng phối hợp công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật Bộ Công an (Hà Nội, 2004); một số vấn đề về chứng minh
trong TTHS, của tác giả Trần Quang Tiệp (Tạp chí Kiểm sát số 9, 2003)...
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về tội chống người thi hành
công vụ trong luật hình sự và điều tra đối với tội phạm này như:

4


- Khóa luận tốt nghiệp: Tình hình tội chống người thi hành công vụ ở Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2010 của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngọc – Đại học Luật Hà
Nội năm 2011;
- Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn Thành
phố Hà Nội” Hà Thương Huyền, Học viện Khoa học xã hội năm 2014;
- Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” Lê Đức Sơn, Học viện khoa học xã
hội năm 2016;

Các công trình khoa học, luận văn, luận án và tài liệu nêu trên chủ yếu đi sâu
nghiên cứu về mặt lý luận quá trình chứng minh trong điều tra VAHS. Hiện nay,
chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cụ thể về hoạt động
thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật
TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Như vậy, đề tài: “Thu thập
chứng cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ninh” là một đề tài mới, đây là đề tài không trùng lặp với các đề tài
đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ trong điều tra vụ
án chống người thi hành công vụ theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ninh, tìm ra ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại để từ đó đề
xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ trong
điều tra vụ án chống người thi hành công vụ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án
chống người thi hành công vụ như: Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương pháp
thu thập chứng cứ…;

5


Đánh giá thực tiễn thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi
hành công vụ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, xác định những ưu điểm và nhược điểm
cũng như những nguyên nhân của quá trình đó;
Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ
trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ theo pháp luật
TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, trong khoảng thời gian từ năm 2014 - 2018.
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS về thu thập chứng cứ
trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ thuộc chuyên ngành: Luật hình
sự và TTHS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con
đường nhận thức nói chung và khả năng nhận thức chân lý trong TTHS nói riêng.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ nội
dung đề tài bao gồm: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp điều tra, phương pháp tọa đàm trao đổi, phương pháp thống kê,
lịch sử, logíc…Những luận điểm khoa học trong luận văn của tác giả được nghiên
cứu và phát triển trên các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý ở
nước ta.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa về khoa học cũng như thực tiễn.

6


- Về khoa học: Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào lý luận về thu thập
chứng cứ trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ ở Việt Nam hiện nay.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu có thể được tham khảo trong hoạt động

lập pháp cũng như thực tiễn hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ
ở Việt Nam.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học
tập về tố tụng hình sự, điều tra tội phạm.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chứng cứ và thu thập chứng cứ trong
điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng hoạt động thu thập chứng
cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng
cứ trong điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ THU THẬP CHỨNG CỨ
TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chứng cứ trong điều tra các vụ án chống
người thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự
Để giải quyết VAHS, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng CQĐT,
VKS và Tòa án khi giải quyết VAHS cần xác minh những sự việc có liên quan đến
tội phạm đang được tiến hành xem xét, trong đó cần phải khẳng định được tội phạm
đã xảy ra, xác định được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách
nhiệm về hành vi đã thực hiện, tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp
với hiện thực khách quan. Để làm được điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có
thể dựa vào chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được

cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong TTHS.
Hiện nay trong khoa học Luật TTHS Việt Nam có một số quan điểm khác
nhau về chứng cứ: Theo tác giả Đỗ Văn Đương thì: Chứng cứ là những thông tin
xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố tụng
dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án [10, tr.44].
Giáo trình Luật TTHS, trường Đại học Kiểm sát cho rằng: Chứng cứ là
những sự vật, hiện tượng, những dấu vết được CQĐT, VKS, Tòa án thu thập được
trong quá trình điều tra, xét xử theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, để
chứng minh có hay không có hành vi nguy hiểm cho xã hội, lỗi của người thực hiện
hành vi ấy và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án [27, tr.56].
Còn tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng: Chứng cứ là những thông tin có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định mà CQĐT, VKS, Tòa án
dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện

8


hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án [23, tr.32].
Tác giả không hoàn toàn đồng ý với quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ
hai bởi lẽ: quan điểm thứ nhất mặc dù hợp lý nhưng lại chưa nêu ra chủ thể - các cơ
quan tiến hành thực hiện; quan điểm thứ hai lại quá chi tiết nhưng thiếu giai đoạn
truy tố của cơ quan VKS thực hiện việc thu thập chứng cứ. Còn quan điểm thứ ba
về cơ bản là hợp lý nhất vì nó bao quát cả các cơ quan tiến hành có trách nhiệm
thực hiện việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ gắn liền với Luật TTHS Việt
Nam, đồng thời chỉ rõ những thuộc tính về nội dung và các đặc điểm về hình thức
của chứng cứ để làm cơ sở cho việc chứng minh tội phạm và người phạm tội.
TTHS của Nhà nước ta lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở của
chứng cứ. Lý luận nhận thức khẳng định rằng: “Nhận thức là sự phản ánh biện

chứng tích cực, trong thế giới khách quan thì không có gì con người không nhận
thức được, chỉ có những điều chưa nhận thức được nhưng dần dần cũng sẽ nhận
thức được”. Chính vì vậy, trong VAHS, dù người phạm tội có dùng mọi thủ đoạn
tinh vi đến đâu để nhằm mục đích che dấu hành vi của mình thì tội phạm cũng được
phản ánh lại bằng những dấu vết của nó, và trước sau dấu vết đó cũng bị phát hiện.
Những dấu vết đó được phản ánh qua các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm
tội, phản ánh các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan
đến người phạm tội. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ
quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong TTHS.
Với vai trò quan trọng như vậy trong hoạt động tố tụng, Bộ luật TTHS đã
đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau: Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có
hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án [21].
Theo đó, dựa vào chứng cứ, sự thật khách quan mới được làm sáng tỏ, đồng
thời loại bỏ những gì không có thật.

9


Chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, được
xác định bằng các vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng (nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị
cáo), các kết luận giám định, biên bản về hoạt động điều tra và xét xử, các tài liệu,
đồ vật khác.
Như vậy, chứng cứ trong vụ án chống người thi hành công vụ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, dùng
làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án chống

người thi hành công vụ.
Chứng cứ vụ án phải đảm bảo được thu thập một cách kịp thời, khách quan
chẳng hạn việc xem xét hiện trường phải thể hiện được hiện trường còn nguyên vẹn
hay không nguyên vẹn, việc khám xét, khám nghiệm không được bỏ sót dấu vết, đồ
vật quan trọng liên quan đến vụ án, việc lấy dấu vết phải sử dụng các phương tiện
kỹ thuật đảm bảo không bị biến dạng, phân huỷ…và các chứng cứ này phải được
thể hiện trên biên bản do người có thẩm quyền đứng ra thiết lập. Các cơ quan tiến
hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu, đồ vật lời khai do các tổ chức,
cá nhân cung cấp và phải thể hiện tài liệu xác định việc giao nhận, phản ánh; đồng
thời phải chủ động tiến hành xác minh, điều tra, thu thập để làm rõ vụ án.
Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng có thật và thống nhất không thể tách
rời, vì vậy xem xét từng thuộc tính của chứng cứ phải trong mối quan hệ với các
thuộc tính khác và trong mối quan hệ tổng thể.
Thứ nhất, tính khách quan
Đây là thuộc tính quan trọng hàng đầu của chứng cứ. Chứng cứ là những gì
có thật, có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin có thật từ tài liệu, vật chứng tồn
tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và
những chứng cứ đó liên quan trực tiếp đến các tình tiết của vụ án đang được chứng
minh. Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng chỉ phát hiện, thu thập,

10


nghiên cứu chứng cứ chứ không tạo ra chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.
Tại Điều 86 của BLTTHS, tính khách quan của chứng cứ còn được gọi là tính xác
thực của chứng cứ.
Trong quy định tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015 có quy định một
trong các nguồn chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng [21]. Theo một số
quan điểm cho rằng việc lấy chứng cứ là lời khai của người tham gia tố tụng dù ít
hay nhiều đều bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chủ quan, ý chí của người khai báo

mà không thể phản ánh một cách khách quan hoàn toàn những thông tin về tội
phạm. Chính vì vậy, những thông tin này không đảm bảo thuộc tính khách quan của
chứng cứ. Tuy vậy, về bản chất, việc cung cấp thông tin là khách quan và trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, vì vậy các cơ quan
này đồng thời cũng phải có trách nhiệm xác minh, đánh giá để xác định thông tin đó
có chính xác hay không, so sánh thông tin này với thông tin thu được từ các nguồn
khác. Mọi thông tin, sự thật thu thập được dù tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên
tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan thì không còn mang tính khách
quan. Và những tài liệu đó cũng không thể là chứng cứ của vụ án [6, tr.74].
Thứ hai, tính liên quan.
“Tính liên quan của chứng cứ được thể hiện ở mối liên hệ khách quan của cá
thông tin, tài liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này có
thể là trực tiếp hoặc gián tiếp” [10, tr.83]. Mối quan hệ trực tiếp ở đây được hiểu là
việc chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất của vụ án, đó là những
căn cứ quan trọng và chủ yếu để xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của
người phạm tội, các tình tiết có ý nghĩa quan trọng đối với việc quyết định hình
phạt…Mối quan hệ gián tiếp là trong trường hợp thông tin, tài liệu đó không thể
làm căn cứ để giải quyết thực chất vụ án nhưng lại đóng góp một phần nhất định
vào việc chứng minh tội phạm. Chẳng hạn lời khai của người làm chứng rằng vào
thời điểm tội phạm xảy ra đã chứng kiến sự có mặt của người bị tạm giữ. Như vậy,
dù việc nhìn thấy sự có mặt của người bị tạm giữ không có ý nghĩa trong việc quyết
định liệu rằng người bị tạm giữ có phải là người phạm tội hay không nhưng lại đóng

11


vai trò quan trọng với CQĐT trong việc lập phương án điều tra làm sáng tỏ sự việc.
Trong hoạt động tố tụng, CQĐT cũng như VKS, Tòa án phải xem xét về tính liên
quan của chứng cứ ở cả hai mối quan hệ này để xác định một thông tin, đồ vật hay
tài liệu có được coi là chứng cứ hay không [10, tr.85].

Thứ ba, tính hợp pháp.
Đó là sự phù hợp với các quy định của pháp luật TTHS về chứng cứ. Tính
hợp pháp của chứng cứ được thể hiện qua quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu,
bảo quản theo trình tự của pháp luật quy định.
Nó được thể hiện ở các mặt sau:
Một là, chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của
pháp luật. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì nguồn chứng cứ bao gồm các
nhóm sau: Vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định,
định giá tài sản; biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án; kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; các tài liệu, đồ vật
khác.
Hai là, các loại chứng cứ phải được thu thập theo một trình tự, thủ tục thống
nhất chính xác do BLTTHS quy định. Tùy thuộc vào tính chất đặc điểm của chứng
cứ mà BLTTHS quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo được
tính khách quan và giá trị chứng minh của chứng cứ.
Trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử có không ít các trường hợp cơ quan
tiến hành tố tụng thu giữ, đồ vật, tài liệu không đúng thủ tục rồi sau đó mới tiến
hành hợp pháp hóa các tài liệu đó rồi đưa vào hồ sơ vụ án hoặc thu thập lời khai
bằng cách đe dọa, đánh đập, mớm cung…[6, tr.89]. Điều này dẫn đến các thông tin
thu thập được bị thiếu tính hợp pháp, không có giá trị chứng minh trong TTHS và
đôi khi dẫn đến các trường hợp án oan, xác định sai tội phạm, người phạm tội.
Có thể thấy thuộc tính khách quan của chứng cứ, tính liên quan của chứng cứ
và tính hợp pháp của chứng cứ là các thuộc tính quan trọng, giữa chúng nó có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau và cũng độc lập với nhau trong việc thể hiện các khía cạnh
của chứng cứ. Khi xem xét bất cứ các vật chứng, nguồn tài liệu gì để sử dụng làm

12


chứng cứ cho vụ án thì cũng cần phải xem xét đầy đủ ba tính chất này, nếu thiếu đi

bất kỳ thuộc tính nào thì thông tin được thu thập không phải là chứng cứ.
Như vậy, chứng cứ trong các vụ án chống người thi hành công vụ là:
1.1.2. Khái niệm điều tra vụ án chống người thi hành công vụ
- Điều tra vụ án chống người thi hành công vụ
Khi có tội phạm chống người thi hành công vụ cũng như tội phạm hình sự
xảy ra, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ phải tiến hành quá trình TTHS gồm: Khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án để giải quyết vụ án. Trong đó, hoạt động
điều tra vụ án là một giai đoạn không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng. Có thể
nêu khái niệm về điều tra vụ án chống người thi hành công vụ như sau:“Điều tra vụ
án chống người thi hành công vụ là hoạt động điều tra của CQĐT và những cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến
hành theo trình tự và thủ tục TTHS, nhằm chứng minh sự thật khách quan của vụ án
chống người thi hành công vụ theo yêu cầu của pháp luật”.
Như vậy có thể thấy, hoạt động điều tra loại án chống người thi hành
công vụ là một hoạt động độc lập của quá trình TTHS, phục vụ cho việc thực
hiện mục đích chung của quá trình TTHS đó là: “Phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người phạm tội”(Điều 1 - Bộ luật TTHS).
Là một giai đoạn độc lập của quá trình TTHS, điều tra vụ án chống người thi
hành công vụ được tiến hành theo trình tự TTHS. Trong quá trình điều tra các vụ án
chống người thi hành công vụcác CQĐT chỉ được áp dụng những biện pháp, những
phương tiện kỹ thuật theo quy định của pháp luật, không trái với những quy định
của pháp luật. Kết quả tiến hành điều tra vụ án chống người thi hành công vụđược
phản ánh trong các văn bản tố tụng và có giá trị pháp lý.
Như vậy, điều tra vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng hay điều tra
VAHS nói chung là một dạng hoạt động nhận thức đặc biệt, bởi vì hoạt động điều
tra có đặc điểm pháp lý. Đặc điểm pháp lý của hoạt động điều tra vụ án chống
người thi hành công vụ thể hiện ở chỗ, đối tượng nhận thức của hoạt động điều tra

13



là vụ án chống người thi hành công vụ đã xảy ra, những biện pháp và phương tiện
được áp dụng trong hoạt động điều tra phải phù hợp với pháp luật, không trái với
các quy định của pháp luật và kết quả điều tra vụ án chống người thi hành công
vụcó giá trị pháp lý.
Khi tiến hành điều tra vụ án chống người thi hành công vụ, CQĐT chứng
minh được sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ theo yêu cầu của pháp
luật.
Chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ theo yêu cầu
của pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc đấu tranh chống tội phạm. Bởi
vì, chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án mới có đủ căn cứ để khẳng định một
người nào đó có tội hay không có tội đối với tội phạm đã xảy ra và quyết định có
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó hay không. Như vậy, chứng minh sự
thật của vụ án chống người thi hành công vụ không những là mục đích cuối cùng
của điều tra vụ án chống người thi hành công vụ mà còn là yêu cầu của pháp luật
đối với giai đoạn điều tra vụ án chống người thi hành công vụ.
Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) tiến hành điều tra nhằm mục đích làm
sáng tỏ sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ chỉ có thể bằng cách chứng
minh. Sở dĩ như vậy là vì:
Một vụ án chống người thi hành công vụ hay một VAHS bất kỳ là một sự
kiện vật chất và đều xảy ra trong hiện thực khách quan. Theo lý luận của phép biện
chứng duy vật, trong mọi trường hợp chống người thi hành công vụ xảy ra đều phản
ánh trong hiện thực mà kết quả phản ánh là những thay đổi trong hiện thực do vụ án
gây ra. Những thay đổi trong hiện thực do vụ án chống người thi hành công vụgây
ra chính là những dấu vết vật chất, dấu vết tâm sinh lý, được thu thập theo trình tự
TTHS sẽ trở thành những chứng cứ để chứng minh sự thật của vụ án, xác định tội
phạm và người phạm tội.
Chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ hoàn toàn
không thể tiến hành những biện pháp quan sát trực tiếp, bởi vì vụ án chống người


14


thi hành công vụ đó đã xảy ra trong quá khứ so với thời điểm tiến hành hoạt động
điều tra.
Vụ án chống người thi hành công vụ là một sự kiện thực tế, do đó để chứng
minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụchỉ có thể là những tài liệu
thực tế đó là những chứng cứ pháp lý.
Như vậy, mục đích của hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công
vụ là chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ đã xảy ra và
chứng minh sự thật của vụ án chống người thi hành công vụ hoàn toàn có thể bằng
cách tiến hành hoạt động điều tra.
- Đặc điểm điều tra các vụ án về chống người thi hành công vụ.
Theo lý luận về điều tra tội phạm thì điều tra các VAHS là hoạt động mà
CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tến hành một số hoạt động điều tra theo
quy định của Bộ luật TTHS thực hiện các hoạt động hợp pháp để thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội phục vụ
cho việc truy tố, xét xử. Trong quá trình điều tra, CQĐT chỉ được áp dụng các biện
pháp, phương tiện theo quy định của pháp luật để thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh tội phạm. Như vậy, để hoạt động điều tra này có hiệu quả thì các cơ
quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng quy định, biện pháp điều tra theo TTHS,
đồng thời, kết hợp và sử dụng có hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ trinh sát hỗ
trợ cho quá trình điều tra.
Từ sự phân tích trên có thể thấy công tác điều tra vụ án chống người thi
hành công vụ có một số đặc điểm của công tác điều tra tội phạm nói chung. Bên
cạnh đó,
công tác này cũng có một số đặc điểm riêng biệt như sau:
Hoạt động điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ là công việc hết
sức khó khăn, phức tạp, thường thực hiện theo chuyên án đỏi hỏi sự linh hoạt

và bảo đảm bí mật tuyệt đối.

15


Tóm lại, hoạt động điều tra vụ án chống người thi hành công vụ là hoạt động
tố tụng của cơ quan điều tra, cơ quan được giao tến hành một số hoạt động điều
tra,

16


được tổ chức tến hành dưới các hình thức nhất định tương ứng với các tình
huống
xảy ra.
Chủ thể của hoạt động điều tra các vụ án chống người thi hành công vụ là
các lực lượng được giao nhiệm vụ thực hiện hoạt động điều tra các vụ án về chống
người thi hành công vụ theo quy định của pháp luật, gồm: Cảnh sát điều tra
tội phạm trật tự xã hội, và một số cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra.
Thêm vào đó việc tổ chức hoạt động điều tra các vụ án về chống người thi
hành công vụ đòi hỏi chủ thể phải sử dụng tổng hợp, đồng bộ nhiều biện pháp,
phương tện nghiệp vụ, thu thập tài liệu chuyển hóa thành chứng cứ nhằm làm rõ
sự thật về vụ án.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thu thập chứng cứ trong quá trình chứng
minh trong điều tra vụ án chống người thi hành công vụ
Chứng cứ chính là phương tiện chứng minh VAHS. Việc chứng minh trong
VAHS nói chung và vụ án chống người thi hành công vụ nói riêng không thể thực
hiện nếu không có chứng cứ. Và để thực hiện tốt quá trình chứng minh, khâu thu
thập chứng cứ đóng vai trò quan trọng nhất. Tiếp đó quá trình chứng minh sẽ

tiếp tục trải qua các giai đoạn: kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Theo lý luận về tố tụng hình sự thì thu thập chứng cứ là một trong các hoạt
động đầu tên có tính chất quan trọng của quá trình chứng minh trong VAHS. Thu
thập chứng cứ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ quá trình chứng minh
VAHS. Hoạt động này có mục đích là để tái tạo lại những tình tiết khách quan của
vụ án đã xảy ra trước đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được
đầy đủ những chứng cứ về vụ việc phạm tội đó, bởi vì các chứng cứ phản ánh về
hoạt động của tội phạm được hình thành, tồn tại là tất yếu khách quan, có tính
quy luật, mang đặc tính phản ánh chân lý khách quan về vụ án. Hoạt động của tội
phạm là một quá trình vật chất nên dù dưới hình thức này hay hình thức khác
cũng đều được phản ánh lại ở môi trường xung quanh dưới dạng những dấu vết
17


nhất định. Đồng thời, sự thay đổi ở môi trường xung quanh do tội phạm gây ra tất
yếu sẽ hình

18


thành thông tin về tội phạm[3, tr.85]. Chính vì vậy, kết quả của hoạt động thu thập
chứng cứ có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Số
lượng, chất lượng các chứng cứ thu thập được sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoặc
ngược lại gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh đối với vụ
án. Vì vậy, các cơ quan tến hành tố tụng thường quan tâm đặc biệt đến hoạt động
này.
Thu thập chứng cứ là việc chủ thể có thẩm quyền tến hành tố tụng,
người bào chữa áp dụng các phương tiện, biện pháp và phương pháp theo quy
định của BLTTHS để xác định nguồn chứng cứ, tìm ra, thu giữ, bảo quản những
chứng cứ nhằm giải quyết chính xác đối với vụ án. Xét về bản chất, hoạt động thu

thập chứng cứ bao gồm tổng hợp các hoạt động, các hành vi phát hiện, ghi nhận,
thu giữ và bảo quản chứng cứ.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu có ý nghĩa hết sức quan trọng, tuy
nhiên không thể thay thế các giai đoạn khác, vì trong thực tiễn việc phát hiện, thu
giữ tài liệu, chứng cứ trong VAHS là công việc hết sức phức tạp và khó khăn.
Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau, bởi vì người
phạm tội luôn luôn tìm mọi cách che giấu hành vi phạm tội, có thể tạo hiện trường
giả, tạo ra những chứng cứ giả để nhằm đánh lạc hướng việc điều tra, phát
hiện, thu thập chứng cứ. Bởi vậy, trong các VAHS, chứng cứ cần và đủ trong việc
chứng minh, xác định sự thật của vụ án không phải lúc nào cũng đầy đủ. Trong một
vụ án có thể vừa thiếu lại vừa thừa chứng cứ, có thể thu thập các loại thông tn,
tài liệu không liên quan đến vụ án có nghĩa là không có giá trị chứng minh,
nhưng lại bỏ sót những thông tn, tài liệu có giá trị chứng minh, có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án [38, tr.37]. Chính vì vậy, mọi chứng cứ đã thu thập được chỉ
có thể trở thành cơ sở cho các quyết định, kết luận của CQĐT, VKS và Tòa án về
vụ án hay các tình tết cụ thể của nó sau khi được kiểm tra một cách chu đáo và
thận trọng.
Sau hoạt động thu thập chứng cứ, quá trình chứng minh sẽ trải qua 3 giai
19


đoạn
gồm:

tếp

theo,

- Kiểm tra chứng cứ: Kiểm tra chứng cứ là hoạt động của ĐTV, KSV, Thẩm
phán và Hội thẩm tến hành nhằm xác định một cách thận trọng, toàn diện,

khách

20


×