Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hoàn thiện nghiệp vụ huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt nam – Chi nhánh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.87 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

VŨ NGỌC DIỆP

HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ
HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG

VŨ NGỌC DIỆP – C00589

HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ
HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH HẢI DƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60340102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THANH HUYỀN


HÀ NỘI - 2017



MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi với
sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Huyền. Tất
cả các số liệu tham khảo trung thực, nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được sử
dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào.
Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Diệp


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian nghiên cứu lý luận và thực tế tôi đã hoàn thành luận văn
thạc sỹ quản trị kinh doanh với đề tài “Hoàn thiện nghiệp vụ huy động vốn
tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt nam – Chi nhánh Hải
Dương” . Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thanh Huyền và các thầy,
cô giáo Khoa Quản trị Kinh doanh trường Đại học Thăng Long đã quan tâm,
chỉ bảo, hướng dẫn tận tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn
thành luận văn này!
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo cùng toàn thể
cán bộ các phòng thuộc BIDV chi nhánh Hải Dương trong thời gian tôi
thực tế nghiên cứu đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp cận và thu thập số
liệu cần thiết cho đề tài.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã động
viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã cố gắng để hoàn thành luận văn, bằng việc
tham khảo nhiều tài liệu , trao đổi, tiếp thu ý kiến của thầy cô và bạn bè. Do điều
kiện về thời gian và trình độ nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế, nên nghiên

cứu khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm
đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng năm 2017

Tác giả luận văn

Vũ Ngọc Diệp


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17
18
19
20

Ký hiệu
NHTM
TMCP
NHNN
TCTD
NSNN
TTTC
NHTMCP
VHĐ
CN
QLVTT
HSC
LN
HĐKD
CSH
TS
NV
TCKT
ĐCTC
DC
TKDT

Nguyên nghĩa
Ngân hàng Thương mại
Thương mại Cổ phần

Ngân hàng Nhà nước
Tổ chức tín dụng
Ngân sách Nhà nước
Thị trường tài chính
Ngân hàng thương mại cổ phần
Vốn huy động
Chi nhánh
Quản ly vốn tập trung
Hội sở chính
Lợi nhuận
Hoạt động kinh doanh
Chủ sở hữu
Tài sản
Nguồn vốn
Tổ chức kinh tế
Định chế tài chính
Dân cư
Tiết kiệm dự thưởng


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với bất kỳ
doanh nghiệp nào trong đó nhu cầu về vốn là nhu cầu tiên quyết để duy trì và phát
triển sản xuất, nó phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh
doanh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi các doanh nghiệp đều mong muốn
đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hóa dịch vụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh.

Là 1 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, thì nhu
cầu về vốn đối với Ngân hàng thương mại lại càng quan trọng bởi không có vốn,
ngân hàng sẽ không thể tồn tại. Trong nền kinh tế, ngành Ngân hàng được coi là
huyết mạch, là kênh huy động vốn có tầm quan trọng đặc biệt, hoạt động tín
dụng ngân hàng đã góp phần không nhỏ trong việc cung ứng vốn cho các doanh
nghiệp hoạt động. Để đáp ứng đủ nhu cầu vốn của thị trường, Ngân hàng thương
mại phải huy động vốn từ bên ngoài, nói cách khác Ngân hàng muốn tồn tại và
phát triển thì việc huy động vốn đóng một vai trò then chốt.
Không nằm ngoài quy luật chung đó, đối với Ngân hàng TMCP Đầu tư
và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói chung và Chi Nhánh BIDV Hải Dương
nói riêng vấn đề Vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. BIDV Hải Dương
đã không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng với tiêu chí
“Nhanh chóng, chính xác, thuận tiện” cùng với việc mở rộng mạng lưới giao
dịch, trên cơ sở đó mở đường và tạo mặt bằng vốn tăng trưởng vững chắc.
Tuy nhiên, thị trường cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày
càng gay gắt. Hơn nữa với mức lãi suất có thể gọi là thấp như hiện nay, chi
nhánh khó có thể thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư cũng như các doanh nghiệp
dẫn đến khó có thể đảm bảo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài “Hoàn
thiện nghiệp vụ huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển
Việt nam – Chi nhánh Hải Dương” được lựa chọn làm đề tài nghiên cứu
của luận văn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1


Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến nghiệp vụ huy
động vốn của ngân hàng thương mại.
Phân tích và đánh giá nghiệp vụ huy động vốn tại BIDV Hải Dương để
thấy được những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó.

Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ huy động vốn tại
BIDV Hải Dương.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận và
thực tiễn có liên quan đến nghiệp vụ huy động vốn
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiệp vụ huy động vốn tại BIDV Hải Dương
giai đoạn 2013-2016, trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp để hoàn thiện
nghiệp vụ huy động vốn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
Phương pháp thu thập thông tin số liệu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích tổng hợp theo thời gian;
Phân tích tổng hợp theo nhóm vấn đề, nhóm đối tượng.
Phương pháp so sánh.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng về nghiệp vụ huy động vốn tại ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – CN Hải Dương giai đoạn 2013- 2016.
Chương 3: Một số biện pháp hoàn thiện nghiệp vụ huy động vốn tại
ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – CN Hải Dương.

2


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN

CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Theo luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành năm 2010 (điều 4, khoản 3) chỉ rõ: Ngân hàng thương
mại (NHTM) là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này nhằm mục
tiêu lợi nhuận
Cũng theo luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: Tổ chức tín dụng là
doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ
chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài
chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân
Như vây, NHTM là một định chế tài chính trung gian quan trọng trong
nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế tài chính trung gian này mà các
nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội sẽ được huy động, tập trung và
sử dụng để cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân với mục đích phát
triển kinh tế xã hội.
1.1.2. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Nghiệp vụ huy động vốn
Nghiệp vụ nguồn vốn bao gồm: nghiệp vụ nhận tiền gửi, nghiệp vụ đi
vay, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… Trong đó tiền gửi là
nguồn quan trọng nhất và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy
động được của NHTM.
NHTM nhận tiền gửi xuất phát từ nhu cầu khách quan đó là khi khách
hàng có một lượng tiền tiết kiệm được sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu cần
thiết hoặc tạm thời nhàn rỗi họ sẽ nghĩ đến việc bảo quản nó như thế nào cho an
toàn. Khi đó giải pháp gửi tiền vào ngân hàng sẽ được chọn vì mục đích cất
3



trữ. Sau đó, số tiền này sẽ được ngân hàng sử dụng để có lãi, một phần lãi này
dùng để trả cho khách hàng đã gửi số tiền trên. Khi đó khách hàng gửi tiền
vào ngân hàng vì mục đích sinh lời.
Về khả năng, NHTM có kho tàng chắc chắn, an toàn, hệ thống bảo
vệ khá nghiêm ngặt, các điều kiện về bảo mật rất tốt, điều kiện về môi
trường luôn luôn đảm bảo. Mặt khác thông qua tác nghiệp của nhân viên
ngân hàng, các quy định, quy trình gửi rút tiền, các ngân hàng luôn sẵn
sàng đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả cũng như đảm bảo các khoản tiền
gửi của khách hàng.
Về nhu cầu, bản thân ngân hàng là những trung gian tài chính, kiếm lời
từ những khoản tiền “tạm thời nhàn rỗi” của người này đem tài trợ cho nhu
cầu của người kia với mức lãi suất cao hơn, hoặc đầu tư vào những dự án đem
lại mức lợi nhuận cao hơn. Chính vì vậy ngân hàng phải huy động vốn hay
nhận tiền gửi từ khách hàng.
Nhận tiền gửi là hoạt động tạo điều kiện cho những hoạt động khác của
ngân hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi NHTM. Nền kinh
tế càng phát triển thì nhu cầu gửi tiền sẽ càng gia tăng, thông qua hoạt động
nhận tiền gửi ngân hàng tập hợp được một số tiền tạm thời chưa sử dụng của
các chủ sở hữu để rồi sử dụng lượng tiền đó đem tài trợ lại cho nền kinh tế.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn
Nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ đầu tư là hai nghiệp vụ sử dụng vốn
quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM.
Cho vay (hay còn gọi là tín dụng ngân hàng) là một quan hệ giao dịch
giữa ngân hàng chuyển giao tiền cho các chủ thể khác được sử dụng trong
một thời gian nhất định và bên nhận tiền phải cam kết hoàn trả theo thời hạn
thỏa thuận.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho NHTM
khoản thu nhập chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của NHTM.
Thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã và đang thực hiện chức

4


năng xã hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư
được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
Còn nghiệp vụ đầu tư tức là NHTM có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư
như đầu tư vốn trực tiếp vào các doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập
công ty, hùn vốn dưới hình thức liên doanh, liên kết. Đây cũng là hoạt động có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra lợi nhuận ngân hàng. Trong hoạt động
kinh doanh của mình cũng giống như các doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh
tế ngân hàng có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, ngân hàng có thể gửi
khoản tiền đó vào các tổ chức tín dụng khác hay đầu tư trái phiếu Chính phủ để
tăng thêm lợi nhuận.
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian
Dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể
cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra
thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí…Các hoạt động
gồm: các dịch vụ thanh toán thu chi hộ khách hàng, nhận bảo quản các tài sản
giấy tờ có giá, bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo ủy nhiệm của khách
hàng, kinh doanh mua bán ngoại tệ, tư vấn tài chính, giúp các đơn vị phát
hành cổ phiếu, trái phiếu.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng được định nghĩa là một loại hình tổ chức tài chính trung
gian có vai trò quan trọng trong nền kinh tế chuyên cung cấp các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế. Trên thực tế một ngân hàng hiện đại phải thực hiện rất
nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của
xã hội:
- Vai trò trung gian: trung gian giữa người có tiền tiết kiệm như người

dân, các tổ chức để cho những cá nhân tổ chức khác vay vốn đầu tư vào kinh
doanh, tiêu dùng.
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho
5


việc mua hàng hóa và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung
cấp mạng lưới thanh toán điện tử liên ngân hàng).
- Vai trò bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất
khả năng thanh toán.
- Vai trò đại lý: đại diện những người cho vay để quản lý và bảo vệ tài sản,
phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
- Vai trò thực hiện chính sách: qua các NHTM, Nhà nước có thể điều
tiết nền kinh tế bằng các chính sách đưa ra áp đặt cho NHTM như chính sách
tiền tệ, chính sách tài khoá...
1. 2. NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNGMẠI
1.2.1.Khái niệm vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập thông qua việc
huy động, đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh
khác. Thực chất vốn của NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời
nhàn rỗi trong quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối, tiêu dùng, mà người
chủ sở hữu gửi vào ngân hàng với các mục đích khác nhau, họ chỉ có quyền
sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng, để
rồi ngân hàng phải trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy ngân hàng đã
thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm
tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động
kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến việc
tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2. Vai trò của vốn đối với hoạt độngcủa Ngân hàng thương mại
Vốn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng có vai trò hết

sức quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh
doanh của mỗi ngân hàng. Vốn là yếu tố quyết định đến khả năng sinh lời,
khả năng cạnh tranh cũng như khả năng phòng chống rủi ro của ngân hàng.
Vốn là cơ sở để ngân hàng thương mại tổ chức mọi hoạt động kinh
doanh. Đối với bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh thì đều phải có vốn, muốn mở rộng sản xuất cũng
6


cần phải có vốn vì thế tăng vốn luôn là mục tiêu của các doanh nghiệp vì quy
mô vốn thể hiện năng lực của doanh nghiệp. Riêng với hoạt động của các
ngân hàng thương mại với đặc thù kinh doanh tiền tệ thì vốn là cơ sở để ngân
hàng tiến hành tất cả các nghiệp vụ kinh doanh của mình bởi đối với ngân
hàng vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh
doanh chủ yếu. Ngân hàng muốn mở rộng kinh doanh, thu được lợi nhuận,
tăng uy tín thì ngoài vốn ban đầu cần phải thường xuyên quan tâm tới việc
tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng.
Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối
lượng tín dụng. Thông thường so với những ngân hàng lớn thì các ngân hàng
nhỏ có các khoản mục đầu tư kém đa dạng, khối lượng và phạm vi tín dụng
nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn có nhiều vốn đầu tư cho vay cả thị
trường trong nước và quốc tế, thì ngân hàng nhỏ thiếu vốn sẽ bị giới hạn cho
vay trong phạm vi hẹp. Thêm vào đó khả năng vốn hạn hẹp nên ngân hàng
nhỏ không phản ứng nhạy với những biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng
đến khả năng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Ngân hàng có
vốn ít sẽ hiếm khi có điều kiện mở rộng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, công nghệ.
Mặt khác ngân hàng cũng sẽ bỏ lỡ cơ hội tham gia vào các danh mục đầu tư
dài hạn như mua trái phiếu Nhà nước, trái phiếu công trình,… thu lợi nhuận
cao. Với xu thế ngân hàng đa năng như hiện nay việc tham gia của ngân hàng
vào thị trường chứng khoán là quan trọng, quy mô về vốn của ngân hàng có

ảnh hưởng rất lớn thậm chí giữ vai trò quyết định tới sự thâm nhập của Ngân
hàng thương mại vào thị trường này.
Vốn quyết định năng lực thanh toán của ngân hàng, đảm bảo uy tín của
ngân hàng trên thương trường từ đó quyết định năng lực cạnh tranh của ngân
hàng đó.Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường các ngân hàng phải
giữ được chữ tín, mà uy tín của ngân hàng thể hiện bằng khả năng chi trả của
ngân hàng khi đáo hạn. Vốn khả dụng càng cao thì khả năng thanh toán càng
cao vì khả năng thanh toán tỷ lệ thuận với nguồn vốn của ngân hàng nói chung
và vốn khả dụng nói riêng, nguồn vốn lớn sẽ giúp ngân hàng mở rộng quy mô
7


hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường.
Tiềm năng vốn lớn là điều kiện đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ
tín dụng đối với các thành phần kinh tế, xét cả về quy mô khối lượng tín dụng
cũng như chủ động về khối lượng tiền, thời hạn cho vay, lãi suất có thể thấp
hơn các ngân hàng khác, từ đó ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng,
doanh số kinh doanh tăng, đây là điều kiện làm tăng lợi nhuận của ngân hàng,
dẫn đến làm tăng vốn tự có, tăng quy mô hoạt động vật chất kỹ thuật của ngân hàng.
Vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính vươn tới
kinh doanh đa năng. Với xu hướng ngân hàng đa năng như hiện nay, hoạt
động ngân hàng không chỉ đơn giản như hoạt động của ngân hàng truyền
thống, mà còn vươn tới nhiều lĩnh vực khác như mở rộng các hình thức liên
doanh liên kết, hoạt động thuê mua, bảo lãnh, mua bán nợ, kinh doanh trên thị
trường chứng khoán,… Hình thức kinh doanh đa năng giúp ngân hàng phân
tán được rủi ro, tạo thêm vốn, cơ hội thuận lợi cho ngân hàng, nâng cao khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Tóm lại, vốn đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và
đối với từng ngân hàng thương mại nói riêng chính vì vậy huy động vốn luôn
là hoạt động được ưu tiên hàng đầu. Nguồn vốn không chỉ giúp ngân hàng

thương mại tồn tại, hoạt động được mà nó còn cho phép NHTM mở rộng quy
mô hoạt động, vươn tới nhiều lĩnh vực mới giúp ngân hàng có đủ uy tín và
sức mạnh để tồn tại và phát triển trên thương trường.
1.2.3. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM có thể phân chia theo nhiều cách khác nhau: theo
thời gian, theo đối tượng, theo loại tiền tệ, theo đặc điểm bản chất của nguồn vốn.
1.2.3.1. Theo thời gian
Theo thời gian,huy động vốn của NHTM được chia thành ba hình thức:
- Huy động ngắn hạn: Là hình thức huy động vốn với thời gian từ 12
tháng trở xuống. Được hình thành chủ yếu từ tiền gửi thanh toán của các tổ
chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn của dân cư, tiền thu từ việc phát
hành kỳ phiếu ngân hàng… Vì thời gian huy động ngắn nên độ rủi ro trong
8


hình thức huy động này cao hơn so với các hình thức huy động dài hạn. Vì
vậy, lãi suất huy động ngắn hạn bao giờ cũng thấp hơn lãi suất huy động trung
và dài hạn.
- Huy động trung hạn: Đây là hình thức huy động vốn qua phát hành
các công cụ nợ trung hạn trên thị trường vốn hoặc nhận tiền gửi trung hạn (từ
1 đến 5 năm). Loại huy động này ngân hàng có thể sử dụng tương đối dài và
thuận tiện. Vì thời hạn ổn định hơn nguồn ngắn hạn nên độ rủi ro của hình
thức này thấp hơn hình thức huy động ngắn hạn nên lãi suất huy động nguồn
vốn này thường cao hơn nguồn ngắn hạn.
- Huy động dài hạn: Đây là hoạt động huy động vốn dài hạn của ngân
hàng trên thị trường vốn, với nguồn huy động này ngân hàng có thể sử dụng
dễ dàng, có tính ổn định cao (từ 5 năm trở lên). Nguồn cung cho hình thức
huy động vốn này nhỏ hơn nhiều lần so với hình thức huy động kỳ hạn ngắn
và nó chủ yếu có được do phát hành trái phiếu ngân hàng, vốn uỷ thác. Ngoài
ra, tiền gửi tiết kiệm dài hạn thông thường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm chi tiêu

trong tương lai của dân cư cũng đóng góp một tỷ lệ không nhỏ, lãi suất mà
ngân hàng phải trả cũng rất cao.
Ở nước ta, vốn huy động trong thời hạn dưới 01 năm được gọi là vốn
ngắn hạn, từ 01 năm đến dưới 05 năm gọi là vốn trung hạn và từ 05 năm trở
lên được gọi là vốn dài hạn. Mặc dù NHTM có thể sử dụng một phần vốn
ngắn hạn để cho vay đối với các kỳ hạn dài hơn nhưng điều này dễ đẩy ngân
hàng đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Do vậy, các món cho vay của
NHTM nên được tài trợ từ các nguồn vốn huy động có kỳ hạn tương ứng hoặc
dài hơn một chút. Cách làm này làm giảm rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng.
1.2.3.2. Theo đối tượng huy động vốn
Phân theo đối tượng huy động, huy động vốn có thể được chia ra thành
bốn nhóm như sau:
- Dân cư: Đây là hình thức ngân hàng huy động nguồn từ các khoản
tiền nhàn rỗi của dân chúng và sau đó chuyển đến cho những người cần vốn
để mở rộng đầu tư, kinh doanh. Nguồn huy động từ dân cư thường khá ổn
9


định. Song có đặc điểm thường là những khoản nhỏ lẻ, nằm phân tán trong
dân cư do vậy chi phí cho nguồn huy động này thường chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng chi phí huy động của các NHTM đồng thời để huy động được
nguồn này thì các NHTM cũng, cần phải nắm bắt được tâm lý, cũng như tập
quán của đối tượng này.
- Các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp và các tổ chức xã hội): Để tiết kiệm
thời gian và chi phí trong thanh toán, các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ hầu hết
đều có tài khoản trong ngân hàng. Các doanh nghiệp khi bán được hàng đều gửi
tiền vào ngân hàng và thanh toán chuyển khoản hoặc rút ra khi cần. Chu kỳ
thanh toán chuyển tiền hay rút tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
không giống nhau. Vì vậy, ngân hàng luôn có trong tay một khoản tiền lớn có thể
sử dụng một cách tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, độ lớn khoản tiền này phụ

thuộc nhiều vào các dịch vụ, các tiện ích mà ngân hàng mang lại khi khách hàng
sử dụng các dịch vụ. Điều này khiến cho việc huy động vốn từ các doanh nghiệp
và các tổ chức xã hội gắn liền với việc mở rộng, cải tiến các dịch vụ ngân hàng.
- Các định chế tài chính (ngân hàng và các tổ chức tín dụng, tài chính
khác): Trong quá trình hoạt động, các ngân hàng thường có các khoản tiền gửi
lẫn nhau để thuận tiện trong giao dịch, thanh toán… Ngoài ra, việc vay lẫn
nhau giữa các ngân hàng cũng làm tăng nguồn vốn huy động. Điều này tuy
không thường xuyên song là cần thiết trong hoạt động kinh doanh của
NHTM. Khi xuất hiện việc thiếu hụt dự trữ hay khả năng thanh toán bị đe
doạ… Các NHTM có thể vay lẫn nhau. Quá trình tăng vốn huy động này có
thể được thực hiện ở trên thị trường nội tệ hay ngoại tệ.
- Ngân hàng Nhà nước (NHNN): Trong số những người cho ngân
hàng vay có một chủ thể đặc biệt: đó là NHNN, NHNN đóng vai trò là người
cho vay cuối cùng để cứu cho các NHTM khỏi các trục trặc xảy ra. Huy
động vốn từ các tổ chức NHTM và các tổ chức tín dụng khác tuy dễ dàng
nhưng số lượng thường không nhiều và chi phí huy động thường cao hơn.
Do vậy, hình thức này được sử dụng không nhiều.
1.2.3.3. Theo loại tiền
10


Tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng của bản thân và khả năng cung cấp của
thị trường mà NHTM có thể huy động vốn bằng các loại tiền tệ khác nhau.
Huy động vốn bằng đồng ngoại tệ, các NHTM phải cân nhắc đến rủi ro hối
đoái, lạm phát, lãi suất tương ứng trên thị trường quốc tế để có lãi suất, kỳ
hạn, quy mô huy động cho phù hợp, đảm bảo kế hoạch huy động và hiệu quả
sử dụng.
Theo tiêu thức phân loại này, huy động vốn chia làm hai loại:
- Huy động vốn bằng Việt Nam đồng
- Huy động bằng đồng ngoại tệ

Ở Việt Nam hiện nay, đô la Mỹ và đồng Euro là những đồng ngoại tệ
chủ yếu được NHTM có tổ chức huy động và nó đã trở thành một nguồn vốn
quan trọng, chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động
của NHTM.
1.2.3.4.Theo đặc điểm bản chất của vốn
a,Vốn chủ sở hữu của NHTM: Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là
vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân
hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh thể hiện dưới dạng lợi nhuận
để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại, nó có
vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở rộng quy mô của
mình như liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,…Vốn thuộc sở hữu của
Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau:
- Vốn tự có ban đầu: Vốn này được hình thành từ ban đầu khi mới
thành lập ngân hàng. Vốn này là một trong những điều kiện pháp lý bắt buộc
khi thành lập ngân hàng, do các chủ sở hữu đóng góp.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt
động ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở hữu theo nhiều phương thức
khác nhau tùy thuộc từng điều kiện cụ thể.
Trong điều kiện thu nhập ròng của ngân hàng lớn các ngân hàng có xu
hướng chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp
11


thêm nếu là ngân hàng cổ phần hoặc được cấp thêm từ NSNN nếu là ngân
hàng quốc doanh để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết
bị, công nghệ hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do Nhà nước
quy định.
Đây không phải là nguồn thường xuyên song nó giúp ngân hàng có
được lượng vốn chủ sở hữu khi cần thiết.

- Các quỹ của ngân hàng:
+ Quỹ dự phòng rủi ro: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
+ Quỹ bảo toàn vốn: Nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của
lạm phát.
+ Ngoài ra còn có các quỹ khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,…
nguồn hình thành các quỹ này là thu nhập sau thuế của ngân hàng. Tuy nhiên
khả năng sử dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục
đích sử dụng của các quỹ.
b,Vốn từ tiền gửi
- Tiền gửi thanh toán: Mục đích gửi khoản tiền vào ngân hàng không
phải để hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do ngân hàng cung cấp
như thanh toán hộ, chi trả hộ, thu hộ. Thời kỳ đầu ngân hàng còn thu phí trên
số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách hàng gửi tiền vào
ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các ngân hàng còn
trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân
hàng, tuy vậy mức lãi suất này là rất thấp nên ưu điểm của nguồn vốn này là
chi phí huy động thấp. Tuy nhiên, tính ổn định của nguồn vốn này là thấp nhất
vì mục đích của món tiền gửi này là dùng để thanh toán nên khách hàng có
thể rút ra bất cứ lúc nào mà ngân hàng không được phép từ chối. Biến động
của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời vụ,
hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của
nguồn vốn này, ta có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa
vào các con số thống kê trong lịch sử mà ngân hàng đưa ra kết luận. Khi sử
12


dụng nguồn vốn tiền gửi thanh toán ngân hàng phải thận trọng nếu không rủi
ro chi trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của ngân hàng, hoặc phải
tốn chi phí để đi vay.

Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán ngân hàng cần phải
khuyến khích các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng
thời cũng cần phải nâng cấp các tiện ích và dịch vụ do ngân hàng cung cấp
kèm theo như: dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán,…
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng
và khách hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian này ngân hàng có
quyền chủ động sử dụng số tiền đó, khi khách hàng muốn rút tiền trước thời
hạn cần phải báo trước và phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi
có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong dân cư hay trong quá
trình hoạt động kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội tạo ra từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn thu nhập của
doanh nghiệp,… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi những
khoản tiền này vào ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng
thường phải trả lãi cao cho khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động
thường cao nhưng bù lại nguồn vốn này lại có tính ổn định, Ngân hàng có thể
yên tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả. Trong dân cư,
mục đích của người gửi tiền có kỳ hạn (gửi tiết kiệm) là nhằm hưởng lãi suất
vì vậy lãi suất là yếu tố được người gửi quan tâm nhất, lãi suất huy động tỷ lệ
thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn
gửi dài hơn.
Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính
vì vậy chi phí huy động nguồn vốn này là lớn nhất. Để huy động được nguồn
vốn này, ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi
phụ thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về
dân số - xã hội, tình hình kinh tế xã hội. Muốn huy động nguồn tiền gửi tiết
kiệm ngân hàng cần phải chú ý đến các yếu tố thuộc về khách hàng này và
điều chỉnh lãi suất huy động cho phù hợp.
13



Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách
hàng yêu cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi
đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng.
Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác, thông thường chiếm trên
50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự dữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi
thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn
thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi
tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh
nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết
kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực
dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các yếu tố khác như địa
điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy
động đa dạng, các dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc
của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của
nguồn tiền. Vào dịp tết, nguồn tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp
có xu hướng giảm sút đặc biệt là trong điều kiện tình trạng thanh toán bằng
tiền mặt vẫn là hình thức phổ biến nhất trong các giao dịch kinh tế ở nước ta
hiện nay. Tại những thành phố lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu
nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn, thu nhập gia tăng là điều kiện để các
gia đình tăng quy mô và kỳ hạn của các khoản tiền gửi. Như vậy, ngân hàng
cần phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để có biện pháp quản lý
và sử dụng thích ứng tuy nhiên ngân hàng thường rất khó dự tính được chính
xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi.
c,Vốn từ phát hành các công cụ nợ trên thị trường tài chính (TTTC)
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM có thể phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu và chứng chỉ tiền gửi với đặc điểm có kỳ hạn và khoản lãi được hưởng
thường là hấp dẫn. Hình thức huy động này được thực hiện với mục đích sử
dụng vốn cụ thể với số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết.
Đặc điểm của khoản huy động này có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau

14


các loại tiền gửi khác. Hiện nay, ở Việt Nam có một số giấy tờ có giá có thể
được mua bán trên thị trường, trong khi đó ở các nước có thị trường tài chính
phát triển thì việc mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi động.
Hiện nay, nhu cầu vốn trung và dài hạn còn rất lớn chính vì vậy việc phát
hành giấy tờ có giá kỳ hạn dài đóng vai trò quan trọng trong việc tạo và gia
tăng nguồn vốn trung và dài hạn cho ngân hàng. Huy động vốn bằng việc phát
hành giấy tờ có giá thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng
kỳ hạn nên chi phí huy động nguồn vốn này cao tuy nhiên nó lại có tính ổn
định và tính “lỏng” vì có thể đưa ra mua bán trên thị trường vốn.
d,Vay nợ trên TTTC
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho ngân
hàng, ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh. Tuy nhiên
không phải lúc nào nguồn tiền gửi cũng đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh của
ngân hàng, chính vì vậy khi nhu cầu cho vay vượt quá khả năng hiện có của
ngân hàng, ngân hàng có thể đi vay để đáp ứng. NHTM có thể đi vay từ nhiều
nguồn khác nhau:
- Vay từ ngân hàng trung ương: NHTM có thể vay từ ngân hàng trung
ương qua các hình thức như chiết khấu, tái chiết khấu, hình thức vay này
thông qua thị trường mở. Ngân hàng thương mại thường nắm giữ một lượng
giấy tờ có giá, khi cần tiền mặt, ngân hàng thương mại đưa lượng giấy tờ này
cầm cố tại ngân hàng trung ương, thông qua lãi suất chiết khấu mà ngân hàng
trung ương có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn
của NHTM.
NHTM còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù đắp dự trữ
thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng thanh khoản. Các
khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong những trường hợp
đặc biệt NHTM vẫn có thể vay ngân hàng trung ương để cho vay lại nền kinh

tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay
này thường bị hạn chế về số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia
đang thắt chặt.
15


Vay ngân hàng trung ương để cho vay các dự án mà Chính phủ chỉ
định. Lãi suất vay từ ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay
được nguồn vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của
Chính phủ.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Khi thị trường tiền tệ liên ngân
hàng phát triển, NHTM có thể vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ
này sẽ tạo ra thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay
thường cao hơn vay từ ngân hàng trung ương, quy mô món vay phụ thuộc
vào thị trường, về kỳ hạn có thể co giãn, hoặc là rất ngắn hoặc có thể tới 3-5
năm. Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền
gửi đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại nhưng lãi
suất lại cao.
Ngân hàng có thể đi vay bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như
phát hành các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hiện nay hình
thức vay từ việc phát hành các giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng cao so
với tổng lượng tiền đi vay của các ngân hàng. Bởi hình thức phát hành giấy tờ
có giá là một phần của chiến lược huy động vốn tiền gửi của Ngân hàng, lãi
suất của các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát hành ra sẽ thấp hơn lãi suất đi
vay, tuy nhiên Ngân hàng phải mất thêm chi phí in ấn, phát hành và quảng cáo
cho các giấy tờ có giá này.
- Vay từ nước ngoài: Theo Nghị định 134/2005/NĐ-CP ngày
01/11/2005 của Chính phủ về quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài thì
các NHTM có thể vay vốn trung và dài hạn ở Ngân hàng nước ngoài để cho
vay lại trong nước, các NHTM Việt Nam hiện nay có quan hệ đại lý và quan

hệ thanh toán rộng rãi với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên
nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo
lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt
Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định, hạn mức
này phải do Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh, theo Nghị định
134/CP thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không
16


quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó, nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ
trước chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy, muốn tận dụng được hạn mức
tín dụng nước ngoài các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do Ngân hàng Nhà
nước trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải qua
Ngân hàng Nhà nước xét duyệt, các NHTM có quyền chủ động tìm kiếm các
nguồn vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn
nguồn tiền gửi, đồng thời các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô
xác định trước nên tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận
tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ
vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay
phù hợp với nhu cầu sử dụng, nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt
buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho
tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản
vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song
thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu
thanh toán của khách hàng tăng cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất
lớn vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc vay mượn các ngân hàng
khác trên cùng địa bàn cũng gặp khó khăn khi nhiều ngân hàng đang thiếu

phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy mô vay mượn trên thị trường liên
ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với
khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trò quan
trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho
ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài trợ
cho trang thiết bị và bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các
nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô,
sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản
17


×