Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 91 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ của tôi được hoàn thành bởi sự nỗ lực của bản thân, sự giúp
đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, anh chị em đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Giáo viên hướng dẫn GS.TS Phạm
Quang Trung, người đã tận tình chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng đề cương
và hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn Ban Chủ Nhiệm, cùng các thầy cô giáo Khoa Tài
chính Ngân hàng trường Đại học Kinh tế quốc dân đã tổ chức và thực hiện thành
công khóa đào tạo thạc sĩ chuyên năm 2009-2011, tạo cơ hội học tập nâng cao trình
độ về lĩnh vực mà tôi tâm huyết.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Thăng Long đã nhiệt tình trao đổi, góp ý và
cung cấp thông tin tài liệu, kinh nghiệm thực tế bổ ích.
Để đáp lại tấm chân tình đó, tôi sẽ cố gắng vận dụng các kiến thức mà mình
đã được trang bị vào thực tiễn cuộc sống một cách có hiệu quả nhất nhằm đem lại
lợi ích cho bản thân, công việc và xã hội.

MỤC LỤC
Chi phí huy động vốn 22
4.1.2. Định hướng phát triển của VCB Thăng Long đến năm 2015 65
4.1.3. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của VCB Thăng Long đến năm
2015 66
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. TMCP: thương mại cổ phần
2. Vietcombank: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
3. VCB Thăng Long: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi
nhánh Thăng Long
4. NHTM: Ngân hàng thương mại
5. NHNN: Ngân hàng nhà nước
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG


Chi phí huy động vốn 22
Chi phí huy động vốn 22
4.1.2. Định hướng phát triển của VCB Thăng Long đến năm 2015 65
4.1.2. Định hướng phát triển của VCB Thăng Long đến năm 2015 65
4.1.3. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của VCB Thăng Long đến năm
2015 66
4.1.3. Định hướng phát triển hoạt động huy động vốn của VCB Thăng Long đến năm
2015 66
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tình hình huy động vốn tại VCB Thăng Long từ năm 2008-2010
Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.2: Tình hình tăng trưởng dư nợ tín dụng tại VCB Thăng Long từ năm
2008-2010 Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.3: Tình hình huy động vốn tại VCB Thăng Long từ năm 2008-2010
Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.4: Cơ cấu huy động vốn theo loại tiền của VCB Thăng Long (Từ năm
2008-2010) Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.5: Cơ cấu huy động vốn theo đối tượng của VCB Thăng Long (Từ
năm 2008-2010) Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.6: Cơ cấu huy động vốn theo kỳ hạn của VCB Thăng Long (Từ năm
2008-2010) Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.7: Chi phí trả lãi tại VCB Thăng Long (Từ năm 2008-2010) Error:
Reference source not found
Biểu đồ 3.8 : Lãi suất bình quân cho vay–huy động bằng VND năm 2008-2009-2010
Error: Reference source not found
Biểu đồ 3.9: Lãi suất bình quân cho vay–huy động bằng ngoại tệ năm 2008-
2009-2010 Error: Reference source not found
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Lý do lựa chọn đề tài

Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các
dịch vụ khác. Trong đó, huy động vốn – hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng
thương mại đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân
hàng và đóng một vai trò to lớn trong việc trung chuyển vốn cho nền kinh tế, giúp
đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng đối tương, đúng mục đích. Nền kinh tế muốn
đạt được tốc độ tăng trưởng cao thì nguồn lực về vốn là rất quan trọng do vậy vấn đề
tăng cường huy động vốn của các ngân hàng thương mại để phục vụ phát triển kinh tế
xã hội đang rất cấp thiết.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trên đà phát triển, một loạt các ngân
hàng thương mại ra đời, đồng thời với sự gia nhập vào thị trường tài chính Việt
Nam ngày càng sâu và rộng của các ngân hàng nước ngoài. Cuộc canh tranh, chạy
đua giữa các ngân hàng thương mại đã thực sự bắt đầu và ngày càng khốc liệt khi
mà thị phần đang dần bị chia nhỏ. Đứng trước những thách thức đó, Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) nói chung và Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long (VCB
Thăng long) với mục tiêu xây dựng trở thành tập đoàn tài chính lớn trong khu vực
và trên thế giới, đang nỗ lực tạo ra lợi thế cạnh tranh cho riêng mình trong tất cả các
hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, đặc biệt đối với hoạt động huy động
vốn trong giai đoạn hiện nay.
Với ý nghĩa quan trọng của nguồn vốn đối với phát triển kinh tế và mở rộng
hoạt động của Ngân hàng Ngoại Thương, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long”.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh tế và
nghiệp vụ thưc tế tại ngân hàng, kết hợp với việc tìm hiểu và tham khảo một số tài
liệu liên quan.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về lý luận và thực tiễn hoạt động huy động vốn của ngân hàng

thương mại, thực trạng hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị
nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả cho công tác huy động vốn của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
nói chung và thực tế hoạt động huy động vốn của VCB Thăng Long nói riêng trong
3 năm 2008-2009-2010 với phạm vi nghiên cứu chủ yếu tại VCB Thăng Long.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp thống kê phân tích, phương pháp so sánh và tổng hợp, diễn dịch và
qui nạp. Cụ thể:
Trên cơ sở các kiến thức về tài chính, ngân hàng, dựa vào các chính sách
kinh tế vĩ mô và các chủ trương, quy định của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà Nước
đề ra nhằm ổn định và phát triển kinh tế trong từng thời kì của đất nước , luận văn
nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như thực tiễn của hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại. Từ thực tiễn hoạt động huy động vốn của Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long trong 3 năm 2008, 2009, 2010
bằng phương pháp thống kê cho ta các số liệu, xây dựng thành các biểu đồ. Từ việc
phân tích, so sánh, đánh giá một cách khoa học các số liệu đó chúng ta rút ra các kết
luận và đề xuất các biện pháp tốt nhất cho hoạt động huy động vốn của VCB Thăng
Long nói riêng và các ngân hàng thương mại nói chung.
1.5. Một số hạn chề của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả nhận thấy luận văn vẫn
còn một số hạn chế cần khắc phục. Cụ thể:
Với đề tài hiệu quả huy động vốn là một đề tài khá rộng, nhưng do thời gian
2
có hạn cùng với trình độ kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên luận
văn vẫn chưa nghiên cứu sâu các vấn đề trên, ví dụ: đề tài mới chỉ nghiên cứu về
huy động với tư cách là tài sản nợ, hay chỉ chủ yếu tập trung giải quyết vấn đề đối

với nguồn vốn huy động từ tiền gửi của khách hàng…
Một phần do kinh phí có hạn, luận văn chưa tổ chức thu thập thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau như từ khách hàng, các ngân hàng khác… mà chủ yếu từ
các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của ngân hàng. Do vậy, kết quả nghiên
cứu chưa thật sự khách quan.
Phương thức nghiên cứu còn hạn chế về mặt không gian. Đề tài nghiên cứu
mới chỉ bó hẹp ở cấp chi nhánh của một ngân hàng do đó vấn đề chưa được xem
xét và giải quyết một cách toàn diện.
1.6. Bố cục luận văn
Tên luận văn “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long”.
Nội dung luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 3: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Thăng Long
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Thăng Long
1.7. Tóm tắt đề tài:
Nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3 phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Thương mại
Tác giả đã khái quát những khái niệm cơ bản về Ngân hàng thương mại
với những chức năng và hoạt động chủ yếu của ngân hàng . Đồng thời, tập trung
tìm hiểu nghiên cứu cơ sở lý luận về hiệu quả huy dộng vốn tại ngân hàng
thương mại với các nội dung chính : khái niệm về hiệu quả huy động vốn của các
3
ngân hàng thương mại, các thước đo đánh giá hiệu quả huy động vốn và các
nhân tố ảnh hưởng.
Phần 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP Ngoại

thương Việt Nam Chi Nhánh Thăng Long.
Hiệu quả huy động vốn tại VCB Thăng Long được đánh giá qua các chỉ tiêu:
Quy mô vốn tăng trưởng nhanh và ổn định qua các năm. Hoạt động tín
dụng nhờ đó mà có đà tăng trưởng cao. Hiện nay, nguồn vốn huy động đã đáp
ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn , ngoài ra còn có nguồn vốn nhàn rỗi gửi tại VCB
Trung ương mang lại một khoản thu đáng kể.
Cơ cấu nguồn vốn huy động dần ổn định theo hướng tăng tỷ trọng tiền gửi từ
các doanh nghiệp và dân cư. VCB Thăng Long đã rất chú trọng đến hình thức huy
động vốn trong thanh toán. Sự tăng lên của qui mô tiền gửi không kỳ hạn cũng
tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện chiến lược hướng sang lĩnh vực dịch
vụ. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao trong khi đó
tỷ trong vốn huy động dài hạn có tăng lên nhưng không lớn, tỷ lệ sử dụng nguồn
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn còn khá cao. Đây là một cơ cấu vốn chưa hợp
lý. Điều này sẽ làm giảm tính chủ động trong việc kiểm soát nguồn vốn từ đó ảnh
hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn.
Về yếu tố chi phí vốn bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi lãi. Chi phí này
tăng lên theo tổng vốn huy động và tình hình biến động lãi suất. .Ngân hàng đã đưa
ra một chính sách lãi suất huy động hợp lý, thống nhất và có tính cạnh tranh cao,
dựa trên nguyên tắc lãi suất dương nhằm đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền
Hiện nay, tổng vốn huy động của VCB Thăng Long đã đáp ứng được nhu
cầu và đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận.
Phần 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Ngoại thương Việt Nam Chi nhánh Thăng Long.
Chính sách khách hàng đúng đắn
Mặc dù VCB Thăng Long đã ý thức được chính sách khách hàng rất quan
trọng, giữ chân được những khách hàng có số dư lớn nhưng mảng khách hàng lâu
4
năm có giao dịch gửi tiền nhiều lần vẫn chưa được quan tâm chính đáng, mảng khách
tiềm năng chưa được khai thác hết do chưa thực sự có biện pháp và kế hoạch triển
khai tốt.VCB Thăng Long cần phải nghiên cứu kỹ thị trường hướng tới, tiến hành

phân đoạn khách hàng. Nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng và chất lượng phục
vụ khách hàng cũng là một nội dung cần thực hiện trong chính sách khách hàng.
Phát triển các sản phẩm dịch vụ, tăng cường hoạt động
bán chéo sản phẩm
Giải pháp phát triển các sản phẩm các dịch vụ được thực hiện theo hai
hướng, không ngừng hoàn thiện, phát triển và nâng cao chất lượng các sản phẩm,
dịch vụ truyền thống như: dịch vụ huy động vốn, dịch vụ kinh doanh ngoại hối và
các dịch vụ khác có liên quan. Đồng thời, phát triển thêm các hoạt động dịch vụ
mới mang đặc điểm của “ngân hàng điện tử”.
Đối với các sản phẩm dịch vụ truyền thống, đặc biệt là dịch vụ huy động
vốn, điều quan trọng là cần phải đa dạng hóa các loại sản phẩm dịch vụ có sự khác
biệt so với các sản phẩm của các ngân hàng khác, đa dạng hóa các kỳ hạn và lãi
suất tương ứng cho mỗi kỳ hạn cũng là một cách huy động vốn hiệu quả mà không
tốn quá nhiều chi phí.
Ngoài các sản phẩm dịch vụ huy động truyền thống, VCB Thăng Long cần
chú trọng đến việc phát triển các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng.
Chính sách lãi suất linh hoạt
Trong xu thế cạnh tranh hiện nay, VCB Thăng Long cần phải tính toán kỹ
chi phí lãi suất và chi phí phi lãi suất để đảm bảo lợi nhuận cũng như có đủ lực hấp
dẫn đối với khách hàng.
VCB Thăng Long cần phải điều hành chính sách lãi suất một cách mềm dẻo,
linh hoạt phù hợp với từng đối tượng khách hàng.VCB Thăng Long có thể thỏa
thuận lãi suất với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, khách hàng mới tiềm
năng, khách hàng truyền thống lâu năm.
Mở rộng đầu tư hệ thống các phòng giao dịch
5
Công tác phát triển các phòng giao dịch phải được chú trọng với mục tiêu
hướng tới là phải có một bộ phận chuyên trách tìm hiểu thị trường và tìm kiếm vị trí
mở phòng giao dịch để tạo ra một cơ cấu các phòng giao dịch hợp lý, không bị
chồng chéo với các chi nhánh Vietcombank khác.

Thực hiện tốt công tác quản trị nguồn vốn
Nhiệm vụ của VCB Thăng Long là làm sao phân tích một cách hợp lý , kỹ
lưỡng mục phí tổn thanh khoản tương ứng với các mục lợi nhuận có được từ khác
khoản vay hay đầu tư có thể nâng cao mức sinh lời của ngân hàng trong khi vẫn
giữ mức thanh khoản nhất định. Đồng thời, công tác nhân sự cũng phải được quan
tâm đúng mức về số lượng lẫn chất lượng để đáp ứng yêu cầu của công việc.
Tăng cường hoạt động quảng cáo, khuyếch trương
- Thông qua các phương tiện như: truyền hình, đài, báo… hay gần gũi hơn là
các bản tin phát thanh phường, quận, VCB Thăng Long có thể gửi đi những thông
tin về ngân hàng, về các sản phẩm dịch vụ mới…Đây là một phương thức quảng
cáo nhanh chóng, hữu hiệu.
- Tổ chức các lễ bốc thăm trúng thưởng hay trao giải với sự tham gia trực tiếp
của nhiều khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng thường xuyên…
- Tham gia tài trợ, hay ủng hộ các hoạt động xã hội cũng là một phương thức
quảng cáo hình ảnh của VCB Thăng Long.
6
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
2.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức kinh tế quan trọng nhất của
nền kinh tế vì nó đóng vai trò như hệ thống tuần hoàn cho nền kinh tế.
Có nhiều cách tiếp cận để có được khái niệm đầy đủ về ngân hàng thương
mại như: thông qua chức năng, hoạt động, các dÞch vụ hoặc thông qua vai trò của
ngân hàng thương mại.
Nếu xem xét từ các loại hình dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp,
các nhà kinh tế đã cho rằng “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tài
chính cung cấp các danh mục tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ

chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh
tế, cũng là kênh huy động vốn hữu hiệu nhất. Đồng thời, Ngân hàng thương mại
cũng là một tổ chức cho vay chủ yếu đối với các tổ chức, cá nhân. Đây là một trung
gian tài chính quan trọng để trung chuyển vốn cho nền kinh tế sao cho nguồn vốn
đó được phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả, hợp lý.
Hiện nay, các tổ chức bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công
ty môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm… đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng như: các dịch vụ thanh toán hay cho vay…Nhưng điểm khác biệt là
Ngân hàng thương mại là “Một loại hình tổ chức tài chính cung cấp các danh mục
và thưc hiện các chức năng tài chính đa dạng nhất” so với bất cứ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế.
7
2.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
2.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng thương mại có một chức năng rất quan trọng đối với nền kinh tế,
đó là trung gian tài chính.
Trong nền kinh tế, có hai nhóm cá nhân và tổ chức: (1) Các cá nhân, tổ chức
thặng dư trong chi tiêu, thu nhập hiện tại lớn hơn chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ, tức
họ có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; (2) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt
chi tiêu, cần bổ sung vốn cho tiêu dùng, hay cho đầu tư. Tiền sẽ được di chuyển từ
nhóm (1) sang nhóm thứ (2) nếu cả hai cùng có lợi. Khi dòng tiền di chuyển với
điều kiện phải quay lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất
định thì đó là quan hệ tín dụng. Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung
gian tài chính của nền kinh tế sẽ giúp quan hệ tín dụng này được thực hiện dễ dàng
hơn và hiệu quả hơn. Ngân hàng thương mại sẽ huy động các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi từ nhóm (1) và sử dụng nguồn vốn đó để cho nhóm (2) vay với một lãi suất
nhất định. Sự xuất hiện của trung gian tài chính này sẽ giảm được chi phí giao dịch,
bởi quan hệ tín dụng trực tiếp bị nhiều hạn chế về qui mô, không gian, thời gian…
Đồng thời, Ngân hàng thương mại sẽ gánh chịu các rủi ro có thể xảy ra và sử dụng

các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro.
2.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm: tiền giấy trong lưu
thông (Mo), số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân
hàng, tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng tại
ngân hàng tăng lên, khách hàng có thể sử dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Do
vậy, thông qua nghiệp vụ cho vay, ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Mặt khác, khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản vay ngân hàng
để chi trả cho đối tác tại một ngân hàng khác thì sẽ làm tăng số dư tiền gửi tại ngân
hàng của đối tác. Ngân hàng đó lại có các khoản vay mới. Như vậy, toàn bộ hệ
thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán.
8
2.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngày nay, với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các giao dịch thanh toán
trong nền kinh tế được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng, an toàn, tiết kiệm chi phí.
Ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán
bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, …, tạo ra các mạng lưới thanh toán điện tử.
Với chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và
độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán ) đã tiết
kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa.
2.1.3. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Ngày nay, các ngân hàng thương mại đang ngày càng phát triển, tham gia
vào rất nhiều lĩnh vực, nhưng xét về các hoạt động chủ yếu, tác giả có thể phân
chia thành 3 nhóm hoạt động sau:
2.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại. Hoạt
động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng thực hiện các hoạt động như cho vay,
cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng hoặc đầu tư.

Các ngân hàng thương mại huy động vốn theo nhiều phương thức khác nhau:
có thể phát hành thêm cổ phần ( gia tăng vốn chủ sở hữu) hay huy động vốn nợ.
Tuy nhiên trong khuôn khổ luận văn này, huy động vốn của ngân hàng thương mại
được giới hạn là hoạt động huy động vốn nợ với các hình thức huy động vốn là:
- Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới
hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi tiền, trái phiếu và các giấy tờ có giá để huy
động vốn của tổ chức cá nhân trong và ngoài nước khi được thống đốc ngân hàng
nhà nước chấp thuận.
- Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ
chức tín dụng nước ngoài.
9
- Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước theo quy định của luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.
Các ngân hàng hiện nay chủ yếu huy động vốn thông qua nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi được hiểu là “số tiền khách hàng
gửi lại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng
lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền”.
Ngân hàng thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, trở thành
người thủ quỹ cho vô số khách hàng, đồng thời thực hiện các lệnh thu chi theo yêu
cầu. Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế phát triển, hầu hết các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân đều mở tài khoản ở ngân hàng. Các giao dịch thanh toán, thu
chi được thực hiện qua hệ thống ngân hàng bằng cách trích chuyển tài khoản. Các
giao dịch này được thực hiện thông qua các lệnh của khách hàng bằng các hình
thức uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu. Các chủ tài khoản uỷ quyền cho ngân hàng thực
hiện các lệnh chuyển tiền trên tài khoản của mình.
Lượng tiền gửi thanh toán ngày càng tăng theo và đây là nguồn vốn huy

động rất có lợi vì ngân hàng chỉ phải trả một số tiền lãi rất nhỏ trong khi lãi suất cho
vay luôn cao hơn nhiều, đồng thời thu được các khoản phí chuyển tiền của khách
hàng. Tuy nhiên, các nguồn vốn này luôn biến động. Với mục tiêu tập trung và tích
tụ các nguồn vốn trong nền kinh tế để cấp tín dụng cho những khách hàng có nhu
cầu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thì bên cạnh tiền gửi thanh toán các ngân
hàng rất chú trọng đến việc huy động tiền gửi có kỳ hạn, đây sẽ là khoản nguồn vốn
quan trọng để các ngân hàng có thể đầu tư cho vay, tài trợ cho nền kinh tế.
Như vậy, bằng nghiệp vụ huy động nguồn vốn tiền gửi, có thể nói ngân hàng
thương mại đã nắm trong tay một bộ phận lớn của cải xã hội về mặt giá trị, tức là
vốn tiền tệ. Để huy động được số tiền tệ như vậy các ngân hàng thương mại phải bỏ
10
ra một khoản chi phí nhất định đó là tiền lãi phải trả cho người gửi tiền và các
khoản chi phí khác.
Một hình thức huy động vốn khá phổ biến đối với nhiều ngân hàng thương
mại hiện nay đó là vay vốn của các tổ chức tín dụng khác cụ thể đây là các ngân
hàng thương mại khác hoặc ngân hàng nhà nước thông qua thị trường tiền tệ liên
ngân hàng. Đây là thị trường cho nhau vay giữa các ngân hàng trong đó có sự tham
gia của Ngân hàng nhà nước với tư cách là người điều tiết, chi phối thị trường. Các
ngân hàng sử dụng hình thức huy động này nhằm bổ sung khoản vốn ngắn hạn thiếu
hụt tạm thời. Do nguồn vay ở thị trường này có hạn nên có hiện tượng đầu cơ, tích
trữ khiến cho lãi suất liên ngân hàng không ngừng tăng cao. Nhiều ngân hàng
thương mại nhỏ năng lực tài chính yếu kém khi Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc lên đã rơi vào tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, tính thanh khoản thấp
sãn sàng chấp nhận các khoản vay trên thị trường liền ngân hàng với mức lãi suất
cao kỷ lục 30-40%/năm nhằm cải thiện khả năng thanh toán của mình. Do vậy,
Ngân hàng nhà nước luôn kiểm soát sát sao diễn biến của lãi suất liên ngân hàng
với nhiều hình thức ví dụ như đưa ra các mức lãi suất trần
2.1.3.2.Hoạt động tài trợ
Hoạt động tài trợ là hoạt động chủ thể bỏ tiền ra để nhằm đạt mục đích
nào đó. Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Đối với

ngân hàng thương mại sau khi huy động được tiền gửi từ nền kinh tế thì ngân
hàng sẽ phải trả lãi, do đó để khỏi bị thiệt hại đồng thời có được lợi nhuận,
ngân hàng sẽ phải tìm cách sử dụng những nguồn vốn đó để sinh lời. Từ
khoản lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi cho số vốn đã huy động,
thanh toán các khoản chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận
ngân hàng. Nói cách khác, hoạt động tài trợ cho nền kinh tế là hoạt động sử
dụng vốn của ngân hàng với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động cho vay
Theo quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31.12.2001 của Thống đốc Ngân
11
hàng nhà nước Việt Nam về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng thì “cho vay” được định nghĩa như sau:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Trong điều kiện hiện nay, cho vay là hoạt động chính của ngân hàng để tạo ra
lợi nhuận, danh mục cho vay chiếm khoảng trên dưới 1/2 tổng danh mục tài sản của
ngân hàng thương mại và mang lại thu nhập từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân
hàng nên hoạt động này có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên hoạt động cho vay luôn ẩn chứa nhiều rủi ro, do vậy các
ngân hàng hiện nay có xu hướng phát triển các mảng dịch vụ ngân hàng khác.
Góp vốn liên doanh liên kết, mua cổ phần
Góp vốn liên doanh liên kết, mua cổ phần là hình thức ngân hàng góp vốn
cùng khách hàng để kinh doanh. Phổ biến nhất hiện nay là hình thức mua cổ phiếu
với mục đích thu cổ tức hàng năm và liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, ngân
hàng nước ngoài. Thực hiện việc đầu tư vốn thông qua liên doanh liên kết, mua cổ
phần sẽ giúp các ngân hàng thương mại thực hiện được nhiều mục đích: đa dạng
hoá các hình thức đầu tư để gia tăng lợi nhuận; hạn chế rủi ro cho ngân hàng và để
tận dụng các ưu thế của nhau.
2.1.3.3. Các hoạt động khác

Ngoài những hoạt động trọng yếu trên, ngân hàng thương mại cũng thực hiện
các hoạt động khác như: hoạt động cho thuê, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, hoạt
động môi giới đầu tư chứng khoán, hoạt động dịch vụ uỷ thác và tư vấn, quản lý
ngân quỹ, thu hộ, chi hộ…
Nhìn một cách tổng quan thì hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại là
nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế. Đối với mỗi
khoản vay họ đều ấn định lãi suất và thời hạn thanh toán, nghĩa là sau một thời gian
xác định, người vay phải trả cho ngân hàng vốn gốc và một số lãi nào đó. Phần
12
chênh lệch giữa lợi tức tiền vay và chi phí được dùng để trả lãi tiền gửi được gọi là
lãi ròng. Để mở rộng hoạt động kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận, các ngân hàng
thương mại thường tìm kiếm nhiều hơn các nguồn vốn với chi phí thấp và cho vay
nhiều hơn. Trong điều kiện hiện nay đây không phải là cách kiếm lợi duy nhất
nhưng là cách tạo ra lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng thương mại.
2.2. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
2.2.1. Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn trong ngân hàng thương mại là toàn bộ nguồn tiền tệ mà ngân hàng
tạo lập, huy động để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với một hoạt động rất quan
trọng là kinh doanh “quyền sử dụng vốn”, tức người cần vốn phải trả lãi cho người
có vốn trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn trong thời gian
xác định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng rãi, từ đó mới có thể thể
hiện đủ bản chất và vai trò của mình. Vốn của ngân hàng thương mại chính là
những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để đầu tư, cho
vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Bản chất của hoạt động ngân hàng là huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh
tế để cho vay nên nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
Vốn là cơ sở của cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt với nghiệp vụ đặc trưng

là kinh doanh tiền tệ. Do vậy, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính của
ngân hàng mà còn là đối tượng kinh doanh. Đây chính là cơ sở cho các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Vốn quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng
Hầu hết các hoạt động của ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào nguồn
vốn. Ngân hàng kinh doanh dựa trên việc sử dụng vốn huy động để cho vay và đầu
13
tư vào các lĩnh vực khác. Do vậy, quy mô hoạt động và quy mô tín dụng phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn vốn. Đặc biệt, hoạt động tín dụng là hoạt động chính và mang
lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Quy mô hoạt động tín dụng phụ thuộc rất nhiều
vào vốn huy động, thường bị áp đặt theo một tỷ lệ nhất định trên số vốn ngân hàng
huy động được.
Nguồn vốn càng lớn, ngân hàng càng có nhiều điều kiện để đầu tư mở rộng
hoạt động của mình về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngân hàng có thể mở rộng thị
phần của mình, đầu tư nhiều hơn vào các dich vụ tài chính, dịch vụ thanh toán để
tạo ra thế cạnh tranh cho riêng mình.
Nguồn vốn tạo uy tín cho ngân hàng
Ngân hàng là một ngành kinh doanh dịch vụ, do vậy ngân hàng hoạt động
dựa trên uy tín là chủ yếu. Khách hàng cũng dựa vào niềm tin của mình vào ngân
hàng để gửi tiền, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ. Uy tín là một tài sản vô hình cực
kỳ quan trọng đối với ngân hàng. Uy tín đó trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng
chi trả của ngân hàng đó. Nguồn vốn càng lớn, vốn khả dụng càng nhiều thì khả
năng thanh toán của ngân hàng càng cao.
Nguồn vốn nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Hiện nay với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại, rất nhiều các
ngân hàng với quy mô lớn nhỏ ra đời nên khách hàng càng nhiều sự lựa chọn. Nhưng
điều họ quan tâm nhất chính là tính an toàn và chất lượng các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp. Cả hai yếu tố này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và chất lượng nguồn vốn
của ngân hàng. Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh
tranh của ngân hàng thương mại là việc tăng cường khả năng huy động vốn.

2.2.2. Các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại, vốn chủ sở hữu chiếm
một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, trong đó vốn huy động từ nền kinh tế chiếm
tỷ trọng cao. Do vậy, trong luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu vốn huy
động với tư cách là tài sản nợ.
14
Ngân hàng huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
2.2.2.1 Huy động tiền gửi
• Tiền gửi không kỳ hạn:
Đây là tiền của doanh nghiệp, cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân
hàng giữ và thanh toán hộ. Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu nhận các
khoản thu về của cá nhân, tổ chức, đồng thời đáp ứng các nhu cầu thanh toán
theo yêu cầu. Ngân hàng trả lãi suất cho loại tiền gửi này rất thấp (hoặc bằng
không). Đối với mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán, số dư duy trì không ổn định.
Nhưng đối với ngân hàng, với một khối lượng khách hàng mở tài khoản tiền gửi
thanh toán khá lớn, thì số vốn huy động từ nguồn tiền gửi này khá ổn định bởi vì
các khách hàng không bao giờ rút hết tất cả tiền gửi thanh toán ở ngân hàng vào
cùng một thời điểm.
• Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng gửi tiền tại ngân hàng trong một thời gian
nhất định, chỉ được rút ra sau thời gian đó và được hưởng lãi suất cao hơn nhiều so
với tiền gửi thanh toán. Mục đích của khách hàng khi gửi kỳ hạn này là nhận lãi.
Lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn loại tiền gửi đó. Thông thường, kỳ hạn càng dài lãi
suất càng cao. Nhưng trong những giai đoạn đặc biệt, tình hình thị trường có nhiều
biến động khó lường về lãi suất nhu cầu về vốn tăng cao nhưng dự báo chỉ trong
ngắn hạn thì ngân hàng có thể áp dụng chính sách lãi suất theo chiều hướng ngược
lại. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn huy động khá ổn định, có thể sử dụng cho vay
trung và dài hạn.
• Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi tiền vào nhiều lần và rút ra bất

cứ lúc nào. Phần lớn khách hàng gửi tiền không kỳ hạn là do chưa xác định được
nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại muốn hưởng một mức lãi trong
thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
15
• Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút ra khi đến hạn thanh toán.
Trên thực tế để thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước
hạn với điều kiện hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn, thậm chí không được hưởng lãi).
2.2.2.2. Huy động bằng hình thức đi vay
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, tuy
nhiên tại nhiều nước, ngân hàng trung ương thường quy định nguồn tiền huy động
và vốn chủ. Do vậy, khi khả năng huy động bị hạn chế, ngân hàng có thể vay mượn
để đáp ứng nhu cầu chi trả.
• Vay ngân hàng nhà nước:
Khi thiếu hụt dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán, ngân hàng thương mại
vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng Nhà nước là tái
chiết khấu (tái cấp vốn). Cụ thể, những thương phiếu mà ngân hàng đã chiết khấu
có thể mang tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Những thương phiếu này phải là
những thương phiếu có chất lượng và việc tái chiết khấu này được ngân hàng nhà
nước quản lý rất chặt chẽ.
• Vay các tổ chức tín dụng khác:
Các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các tổ chức tín dụng
khác. Nguồn vay này để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả các khoản thanh toán
cấp bách. Quá trình vay mượn khá đơn giản, các ngân hàng trực tiếp liên hệ với
nhau hoặc qua ngân hàng đại lý, có thể thế đảm bảo bằng các chứng khoán kho bạc
hoặc không cần đảm bảo.
• Vay trên thị trường vốn:
Ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát hành giấy tờ có giá trên thị
trường vốn như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Đây là nguồn

huy động nhằm phục vụ cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng sử dụng uy tín của
16
mình để phát hành các giấy tờ có giá. Do vậy, các ngân hàng thương mại nhỏ
thường khó vay trực tiếp bằng cách này mà phải thông qua ngân hàng đại lý hoặc
được bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình
độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài
hạn của ngân hàng. Việc huy động vốn trên thị trường vốn khá phức tạp, đòi hỏi
các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, lãi suất, thời
hạn, mệnh giá
2.2.2.3. Huy động từ các nguồn khác:
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, các ngân hàng thương mại cũng
tạo được một khoản vốn: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền séc bảo
chi, séc định mức và các khoản tiền phong toả do ngân hàng nhận hối phiếu thương
mại, thông qua nghiệp vụ đại lý, các ngân hàng thương mại cũng thu hút được một
số vốn đáng kể trong quá trình thu chi hộ khách hàng, làm đại lý cho một tổ chức
tín dụng khác, nhận chuyển vốn cho các khách hàng hay một dự án đầu tư. Vốn thu
hút từ nước ngoài dưới hình thức như nhận tiền gửi ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, kinh
doanh ngoại hối, vốn uỷ thác đầu tư, tài trợ của nhà nước
Tất cả các khoản tiền tạm thời dư thừa kia cũng được ngân hàng sử dụng cho
mục đích kinh doanh tiền tệ của mình.
Tóm lại, vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại tuân thủ theo luật định về mở tài khoản tiền gửi
tại ngân hàng Nhà nước để duy trì ở đó một khối lượng dự trữ bắt buộc. Mức vốn
huy động thực chất cho các hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại bị
hạn chế bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Song nếu một ngân hàng kinh doanh tiền tệ có
hiệu quả thì không những nguồn lợi của ngân hàng được tăng lên mà còn làm cho
uy tín của nó trên thương trường cũng tăng theo. Chính vì thế mà nguồn vốn huy
động vào ngân hàng cũng ngày một tăng, quy mô hoạt động ngày càng mở rộng để
phục vụ phát triển cho nền kinh tế.

17
2.2.3. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
2.2.3.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn:
Khi thực hiện bất cứ công việc nào, cái đáng quan tâm đó là hiệu quả của
công việc đó vì vậy các nhà quản trị ngân hàng cũng rất quan tâm đến hiệu quả huy
động vốn của ngân hàng mình.
Trong “Đại từ điển tiếng Việt”, hiệu quả là “kết quả đích thực” , chính là kết
quả thực của việc làm mang lại. Kết quả thực thường được đánh giá thông qua việc
so sánh muc đích đề ra và kết quả đạt được, kết quả đạt được và chi phí bỏ ra…
Từ đó tác giả có thể đưa ra một khái niệm về hiệu quả huy động vốn như
sau: Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại là kết quả thực mang lại
của hoat động huy động vốn, được phản ánh qua các yếu tố như: sự so sánh giữa
mục tiêu đề ra và kết quả đạt được, kết quả đạt đươc và chi phí bỏ ra cho hoạt
động huy động vốn…
Một ngân hàng muốn đạt hiệu quả huy động vốn cao thì khi thực hiện huy
động vốn cần bám sát nhu cầu cho vay, đầu tư và các hoạt động quan trọng
khác…để số vốn huy động có thể phù hợp, tương ứng về cơ cấu kỳ hạn, loại tiền,
với chi phí huy động thấp nhất song vẫn đảm bảo có nguồn vốn ổn định đáp ứng
nhu cầu hoạt động kinh doanh, hạn chế rủi ro thanh khoản, rủi ro từ lãi suất từ đó
tăng lợi nhuận và độ an toàn cho hoạt động của các ngân hàng.
2.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Công tác đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại thường
rất được chú trọng. Thông thường, hiệu quả huy động vốn có thể được đánh giá qua
một số tiêu chí chủ yếu sau:
• Quy mô và tốc độ tăng trưởng:
Như phần trên đã phân tích, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt
động kinh doanh, vốn quyết định quy mô tín dụng cũng như toàn bộ các hoạt động
18
khác của ngân hàng, từ đó, vốn quyết định năng lực cạnh tranh, quy mô phát triển
của ngân hàng. Quy mô nguồn vốn huy động phải đủ lớn để tài trợ cho danh mục

tài sản đa dạng và không ngừng tăng trưởng với sự ổn định cao của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại thường sử dụng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy
động (TLHTKH) để đánh giá quy mô huy động vốn.
TLHTKH = Tổng vốn huy động/kế hoạch huy động ( %)
Nếu tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động lớn hơn 100%, lượng vốn huy động
thực tế lớn hơn kế hoạch, ngân hàng sẽ phải cố gắng sử dụng hợp lý số vốn thừa.
Bởi, nếu không chi phí sẽ tăng khi lượng vốn này không sinh lời mà vẫn phải trả lãi
và chi phí huy động khác. Ngược lại, nếu không đạt chỉ tiêu để ra (TLHTKH nhỏ
hơn 100%), ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác nêu cần để bổ sung vốn
hoạt động. Còn nếu hoàn thành kế hoạch (TLHTKH bằng 100%) không có nghĩa là
tốt nhất mà còn phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn hiện tại.
Tuy nhiên, quy mô huy động vốn càng lớn không có nghĩa là hoạt động huy
động vốn hiệu quả vì hiệu quả huy động vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tính
an toàn của đồng vốn huy động hay chi phí vốn cao hay thấp…Đây chỉ là một chỉ
tiêu cần xem xét khi đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Tăng trưởng nguồn vốn là một trong những mục tiêu quan trọng của
ngân hàng, đặc biệt là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Một ngân hàng
thương mại cần phải xem xét đến khả năng tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là
trên các khía cạnh chủ yếu như quy mô và tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn
vốn, nhóm nguồn, sự thay đổi kết cấu, kết quả thực hiện so với kế hoạch, với
kỳ trước và nhân tố ảnh hưởng, phân tích triển vọng nguồn, nhóm nguồn trong
thời gian tới.
Tăng trưởng nguồn vốn huy động được xem là một chỉ tiêu quan trọng phản
ánh chất lượng hoạt động của các ngân hàng, từ đó ngân hàng có thể mở rộng quy
mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
19
• Cơ cấu vốn huy động
Cơ cấu vốn huy động là một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Nhìn vào cơ cấu vốn huy động của một ngân hàng cho ta thấy được mức độ ổn định
của nguồn vốn huy động của ngân hàng đó. Một cơ cấu vốn hợp lý là một cơ cấu

vốn đa dạng, thể hiện việc duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn huy động ngắn hạn và
vốn dài hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ.
Khi xét cơ cấu vốn huy động, các ngân hàng thương mại thường sử dụng tỷ
lệ huy động từ các nguồn.

Tỷ lệ này thể hiện tỷ lệ vốn huy động từng nguồn trên tổng vốn huy động.
Kỳ hạn, lãi suất, sự ổn định từng nguồn sẽ ảnh hưởng đến kỳ hạn, lãi suất, sự ổn
định của nguồn vốn huy động.
Cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng vốn huy động (lãi suất, kỳ
hạn, quy mô cho vay hay đầu tư của ngân hàng). Cơ cấu vốn hợp lý khi cơ cấu đó
phù hợp với kế hoạch sử dụng vốn và chi phí huy động thấp.
• Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn
Mục đích huy động vốn của ngân hàng thương mại (NHTM) trước hết và
quan trọng nhất là để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của chính NHTM đó. Do
đó, huy động vốn phải luôn được đặt trong mối quan hệ với sử dụng vốn. Chỉ trong
mối quan hệ đó thì việc đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM mới mang tính
xác thực, gắn với yêu cầu thực tiễn hoạt động của bất kỳ NHTM nào. Để một
NHTM không ngừng tăng trưởng và phát triển thì một trong những điều kiện tiên
quyết là ngân hàng đó phải có được nguồn vốn với quy mô lớn tương ứng với các
hoạt động sử dụng vốn của mình. Nếu xảy ra sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy
động và nguồn vốn sử dụng thì NHTM sẽ phải thực hiện các biện pháp khác để bù
đắp cho sự thiếu hụt đó, có thể là vay ngân hành nhà nước (NHNN), vay trên thị
20
Lượng vốn huy động từ các nguồn
Tổng vốn huy động
Tỷ lệ huy động vốn từ các nguồn =
trường tiền tệ liên ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác. Việc vay nợ này chủ
yếu là ngắn hạn với lãi suất cao nên hiệu quả kinh doanh hạn chế vì thu nhập từ
chênh lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp. Thêm vào đó, mức độ đi
vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn thì rủi ro thanh khoản ở mức

độ càng cao. Khi có những biến động trên thị trường tiền tệ như NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc thì các NHTM khi đó sẽ phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt
buộc. Trong trường hợp đó, các ngân hàng thương mại đang cho vay sẽ tiến hành
thu hồi nợ và hạn chế hay ngừng cho vay ra, làm cho các ngân hàng thương mại
đang đi vay thiếu hụt tạm thời thanh khoản và có thể rơi vào tình trạng phải đi vay
các NHTM khác với bất cứ lãi suất nào hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị
trường. Đây cũng chính là nguyên nhân của đợt lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng tăng lên tới 30% thậm chí 40%/năm và lãi suất huy động vốn trên thị trường
tăng lên tới 19%/năm trong năm 2008 và năm 2011 với lãi suất huy động thực là
18-19%/năm dù lãi suất công bố là 14%. Hiện nay, có rất nhiều ngân hàng thương
mại, do thiếu hụt vốn hay do muốn kéo vốn từ các ngân hàng khác đã đưa lãi suất
huy động lên rất cao và thông thường chỉ huy động ngắn hạn. Do vậy, trong cơ cấu
vốn huy động, tỷ lệ vốn ngắn hạn là khá cao, và được sử dụng cho vay trung dài hạn
bởi tình trạng khó khăn về vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh
toán của các ngân hàng.
Như vậy, cơ cấu nguồn vốn cần phải có sự phù hợp, cân đối với cơ cấu sử
dụng vốn. Để phục vụ cho công tác quản lý nguồn vốn, NHTM cần phải phân tích
cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn. Các nguồn vốn của ngân NHTM tại một thời điểm
nào đó được phân chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào ngày đến hạn dự
kiến của chúng. Từ đó có thể dự báo một cách tương đối về quy mô nguồn vốn đến
hạn (có thể bị rút ra) trong khoảng thời gian tương ứng như: trả theo yêu cầu, 1- 30
ngày, 1- 3 tháng, 3 - 6 tháng, 6 -12 tháng, hơn 12 tháng. Báo cáo về cấu trúc kỳ hạn
là công cụ quan trọng được sủ dụng để phân tích, so sánh biến động cơ cấu kỳ hạn
tại các thời điểm khác nhau, phân tích sự tương thích giữa nguồn vốn và sử dụng
vốn, quản lý rủi ro lãi suất. Tính ổn định của nguồn vốn được phản ánh qua kỳ hạn
21
danh nghĩa của nguồn. Thông thường, các kỳ hạn danh nghĩa càng dài thì lãi suất
càng cao. Nhìn chung, khi đã lựa chọn gửi tiền theo mục đích tiết kiệm thì những
người gửi tiền đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa đó để hưởng lãi suất ở mức
cao nhất. Nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định (lạm phát cao, tỷ giá biến

động theo hướng không có lợi cho người gửi tiền nội tệ, thu nhập dân cư thấp, thị
trường tài chính kém phát triển…) thì việc thu hút những nguồn vốn có kỳ hạn dài
rất khó khăn.
Nhìn chung, dựa vào các báo cáo về cấu trúc, kỳ hạn của nguồn huy động để
nhà quản lý ngân hàng phân tích, so sánh biến động cơ cấu kỳ hạn tại các thời điểm
khác nhau, sự tương hợp giữa các nguồn vốn và sử dụng vốn để đánh giá hiệu suất
sử dụng vốn và giúp cho việc tạo ra khe hở lãi suất tích cực để quản lý rủi ro lãi
suất. Các nguồn vốn huy động được phân chia đưa vào tài sản của ngân hàng như
tiền mặt, tiền gửi ngân hàng khác, cho vay, mua chứng khoán… sao cho phù hợp
với cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn. Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một
phần nguồn vốn có kỳ hạn ngắn để đầu tư vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng
chỉ ở một tỷ lệ nhất định vì phải chịu sức ép về khả năng thanh toán. Nhưng nếu sử
dụng vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì lãi thu được không đủ bù đắp chi phí huy
động vốn. Do đó, qua mô hình cấu trúc kỳ hạn ngân hàng tiến hành điều chỉnh cơ
cấu nguồn vốn và danh mục tài sản để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn tăng doanh
lợi, duy trì khả năng thanh toán (nếu thiếu dự trữ), đầu tư thêm tài sản sinh lời (nếu
thừa vốn) hoặc chuẩn bị tái đầu tư cho một số tài sản sắp đến hạn
• Chi phí huy động vốn
Một NHTM sẽ không thể hoạt động được nếu không tạo được nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng không thể tạo lập nguồn vốn đó bằng mọi giá mà sẽ
phải trả lời được hai vấn đề chủ yếu sau đây:
- Chi phí để có thể được nguồn vốn là bao nhiêu?
- Mối quan hệ phụ thuộc và rủi ro của mỗi nguồn vốn.
Mỗi NHTM trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay cần phải biết
22

×