Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

LÊ THỊ LANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2002


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

1
Error! Bookmark not defined.

Mục lục

2

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

5

Danh mục các bảng

6


Danh mục các hình vẽ, đồ thò

6

MỞ ĐẦU

7

CHƯƠNG 1

10

KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1

10

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ............................. 10
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thò

trường……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….10
1.1.2 Khái niệm, phân loại doanh nghiệp nhà nước ...................................................... 13
1.2

NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ SỰ CẦN THIẾT VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH

NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ................................................................................. 19
1.2.1 Những quan điểm về sự cần thiết của doanh nghiệp nhà nước ............................ 19
1.2.2 Khái quát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên thế giới………..21

1.3

VAI TRÒ CHIẾN LƯC CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG CƠ CHẾ THỊ

TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM ................................. 26
1.3.1 Những nguyên tắc và nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam................................................................................................................... 26
1.3.2 Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế vận hành trong cơ chế thò
trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam .......................................................... 28
1.3.3 Hệ tiêu chuẩn cơ bản đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước . 30
1.4

KINH NGHIỆM CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC ..... 31
1.4.1 Các kinh nghiệm mang tính phổ biến về cải cách doanh nghiệp nhà nước trên thế

giới…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….31


3
1.4.2 Kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước của một số nước .......................... 34
1.5

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................... 42
CHƯƠNG 2
43
THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA 43

2.1 ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ ..................................... 43
2.1.1 Thực trạng hoạt động và công cuộc đổi mới doanh nghiệp nhà nước Việt Nam 43

2.1.2 Kết quả của quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua ......... 55
2.2CHÍNH SÁCH VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC …..63
2.2.1 Thực trạng về cơ chế và chính sách quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước ... 63
2.2.2 Đánh giá về chính sách và cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước ...... 76
2.3

QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔNG CÔNG TY NHÀ

NƯỚC……………….. ......................................................................................................................... 82
2.4

NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHÍNH DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG YẾU

KÉM CỦA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ................................................................................................ 84
2.5

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................... 88
CHƯƠNG 3
90
NHỮNG GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA

doanh nghiệp nhà nước Ở VIỆT NAM
3.1

90

XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ VỚI VIỆC ĐỔI MỚI –NHẬN THỨC VAI


TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC .............................................................................. 90
3.1.1 Những thời cơ và thách thức của các doanh nghiệp nhà nước .............................. 90
3.1.2 Những đònh hướng mới phát triển doanh nghiệp nhà nước ................................... 91
3.2

NHỮNG GIẢI PHÁP CHUNG CHO DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ......................... 96
3.2.1 Nhận thức mới về doanh nghiệp nhà nước ........................................................... 96
3.2.2 Tách biệt quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. 98
3.2.3 Phân đònh quyền sở hữu và quyền quản lý doanh nghiệp nhà nước ......................98
3.2.4 Tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng.................................................................. 99
3.2.5 Hoàn thiện hệ thống pháp lý ................................................................................ 99


4
3.2.6 Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ...100
3.3

NHỮNG GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC .............................................................................101
3.3.1 Tăng cường tiềm lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước ..........................101
3.3.2 Đẩy mạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và thực hiện các hình thức
chuyển đổi sở hữu ................................................................................................................102
3.3.3 Nghiên cứu triển khai thành lập các công ty đầu tư tài chính của nhà nước ........114
3.3.4Thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu ...............................114
3.3.5 Xác đònh rõ đại diện chủ sở hữu về vốn nhà nước tại doanh nghiệp ...................116
3.3.6 Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước
118
3.3.7 Hoàn thiện cơ chế tài chính trong mô hình tổng công ty .....................................122
3.3.8. Các giải pháp khác .............................................................................................125

3.4. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................................125
KẾT LUẬN............................................................................................
127
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.......................................

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................

130

PHỤ LỤC...............................................................................................Error! Bookmark not defined.


5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA

Asean Free Trade Area (Khu vực mậu dòch tự do Asean).

APEC

Asia Pacific Economic Cooperation Group
(Nhóm hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương).

ASEAN

Association of South – East Asean Nations
(Hiệp hội các nước Đông Nam Á).


CPH

Cổ phần hoá.

DN

Doanh nghiệp.

DNNN Doanh nghiệp nhà nước.
DNTƯ Doanh nghiệp trung ương.
GDP

Gross Domestic Products (Tổng sản phẩm quốc nội).

HĐQT Hội đồng quản trò.
NN

Nhà nước.

SXKD Sản xuất kinh doanh.
TCT

Tổng công ty.

TCT NN

Tổng công ty Nhà nước.

TNHH Trách nhiệm hữu hạn.

TS

Tài sản.

TSNN

Tài sản Nhà nước.

WTO

World Trade Organization (Tổ chức thương mại Thế giới).

XHCN

Xã hội chủ nghóa.


6

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
BẢNG 2.1: Hiệu quả hoạt động của DNNN qua các năm

75

BẢNG 2.2: Giá trò sản xuất công nghiệp phân theo ngành kinh tế

76

BẢNG 2.3: Phân loại DNNN theo hiệu quả hoạt động


80

BẢNG 2.4: Tình hình công nợ của các DNNN tại Hà Nội

85

BẢNG 2.5: Số lượng DNNN và số vốn đăng ký

87

BẢNG 3.1: Lộ trình sắp xếp DNNN từ 2001-2005

150

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang
ĐỒ THỊ 2.1: Kết quả CPH 1992-2000

70

ĐỒ THỊ 2.2: Số lượng DNNN giao, bán, khoán, cho thuê
của 26 bộ,

tỉnh, thành phố, TCT 91

73

ĐỒ THỊ 2.3: Tình hình vốn NN tại DN so với lãi phát sinh
hàng năm


79

ĐỒ THỊ 2.4: Cơ cấu đầu tư trong nước theo nguồn vốn bình
quân giai đoạn 1991-2000

89


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay và về lâu dài, Đảng và NN ta tiếp tục phát triển nền
kinh tế theo đònh hướng XHCN, trong đó, vai trò của DNNN vẫn được khẳng đònh: DNNN được
xem là công cụ đắc lực trong việc giúp NN điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thò trường theo
đònh hướng XHCN, mở đường và lôi kéo và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Công cuộc cải cách nền kinh tế đã thu được những thành quả đáng kể trong đó, phải
kể đến công sức đóng góp to lớn của các DNNN. Nhòp độ tăng trưởng GDP bình quân của cả
nước trong giai đoạn 1991-1997 là 8,9%/năm trong đó tỉ trọng đóng góp vào GDP của các
DNNN hơn 40%… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thu được, hoạt động của các DNNN vẫn
còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Những tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách
quan, chủ quan khác nhau như: những thách thức của nền kinh tế trong nước, nền kinh tế khu
vực và thế giới, các vướng mắc thuộc về cơ chế tài chính, các yếu kém từ nhận thức và cơ chế
điều hành trong DNNN…Chính hiện tượng không ít DNNN lao đao, thua lỗ, hiệu quả hoạt động
thấp kém đã tạo ra một hình ảnh méo mó về vai trò chủ đạo của DNNN, ảnh hưởng xấu đến
đến quá trình đổi mới và phát triển DNNN.
Để các DNNN thực sự đóng vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển kinh tế đòi hỏi
các DNNN phải đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy vấn đề sắp xếp,
đổi mới, nâng cao hiệu qaủ hoạt động của các DNNN là một vấn đề cần phải được chú trọng

đặc biệt. Đây không phải là vấn đề riêng có ở Việt Nam, hiện nay trên thế giới từ các nước
phát triển đến các nước đang phát triển đều thực hiện các cuộc cải cách kinh tế nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế NN của mình. Chính vì vậy, những kinh nghiệm về cải
cách DNNN của các quốc gia này sẽ là những bài học rất quý báu cho Việt Nam, nhất là trong
hoàn cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay.
Xuất phát từ thực trạng như vậy, vấn đề tìm ra các giải pháp tài chính nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN trong cơ chế thò trường là một vấn đề mang tính khoa học và
thực tiễn rất cao.
2. Mục đích nghiên cứu của luận án


8
Trong điều kiện tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay, cần phải nhận thức
rõ vai trò của DNNN để tạo ra một sự cộng hưởng phát triển giữa các thành phần kinh tế. Mục
đích của đề tài là đưa ra các giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN,
góp phần làm cho các DNNN thể hiện được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Các
giải pháp này không gì khác hơn là giúp cho các DNNN khắc phục được tình trạng yếu kém, trì
trệ như hiện nay từ đó nâng cao tính cạnh tranh để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, trở thành lực lượng mở đường đưa nước ta vững bước vào một nước có nền kinh tế hiện
đại. DNNN phải trở thành hình mẫu về cách quản lý, tiếp thu công nghệ hiện đại và giải quyết
những vấn đề thiết thân cho người lao động.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển của các DNNN trong phạm vi
giới hạn sau đây:


Về thời gian, nghiên cứu chủ yếu từ năm 1975 trở về sau. Trong đó phần đánh giá
thực trạng về hiệu quả hoạt động của DNNN được phân tích kỹ trong các giai đọan
từ năm 1989 cho tới nay. Ngoài ra còn có những tính toán dự báo đối với mục tiêu
phát triển nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế NN nói riêng trong các giai

đoạn chiến lược sắp tới.



Về không gian, nghiên cứu hoạt động của DNNN trên phạm vi cả nước và đặc biệt
tại các vùng kinh tế trọng điểm như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…



Lónh vực nghiên cứu chủ yếu mà đề tài thực hiện là các giải pháp tài chính nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động trong DNNN, vấn đề chủ yếu đề tài giải quyết là
xem xét các nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của DNNN trong cơ
chế thò trường có sự quản lý của NN, có sự thực hiện và phát triển đan xen của các
thành phần kinh tế.

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng một số phương pháp
kết hợp như: khảo sát, thống kê, tìm hiểu tình hình thực tế ở một số DNNN điển hình, nghiên
cứu kinh nghiệm điển hình của các DNNN trong nước và kinh nghiệm quản lý DNNN của một
số nước trên thế giới, các phương pháp phân tích và tổng hợp, diễn dòch và quy nạp…
5. Những đóng góp chính của luận án


9
Luận án hình thành từ sự nỗ lực của bản thân tác giả kết hợp với những kinh nghiệm,
những kiến thức được tổng hợp từ nhiều tài liệu khác nhau và sự giúp đỡ tận tình của các giáo
sư hướng dẫn, luận án đưa ra một số đóng góp mới như sau:


Làm sáng tỏ về mặt lý luận sự hình thành, phát triển và vai trò của DNNN trong

nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường.



Thực trạng hoạt động của DNNN qua các thời kỳ từ 1975 cho tới nay. Luận án sử
dụng phương pháp tổng hợp và phân tích hiệu quả hoạt động của DNNN để thấy
được những thành tựu cũng như hạn chế của khu vực kinh tế này.



Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN để
các DNNN trở thành những hình mẫu với vai trò mở đường, kích thích các thành
phần kinh tế khác phát triển tạo thành một hợp lực phát triển nền kinh tế đất nước.

6. Kết cấu của luận án
Phù hợp với mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu, luận án gồm …. trang, ngoài phần
mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài được bố cục thành 3 chương:
- Chương1 (39 trang):

Khái quát về DNNN và vai trò của nó đối với sự phát triển
kinh tế trong cơ chế thò trường.

- Chương 2 (78 trang):

Thực trạng đổi mới DNNN trong thời gian qua.

- Chương 3 (48 trang): Những giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của các DNNN ở Việt Nam.



10

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1.1

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1.1

Sự hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thò
trường

Kinh tế thò trường đã có một lòch sử phát triển rất lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, trong đó có thể chia thành ba giai đoạn chủ yếu, đó là: kinh tế thò trường
sơ khai, kinh tế thò trường tự do và kinh tế thò trường hiện đại. Tương ứng với mỗi giai đoạn này
nền kinh tế thò trường được tổ chức theo nội dung và cấu trúc khác nhau. Tất nhiên có nhiều
nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến sự thay đổi nội dung hay cấu trúc của các giai đoạn này
nhưng NN có vai trò hết sức quan trọng. Nói chung, trong tất cả các giai đoạn phát triển của xã
hội có NN, NN luôn tham gia vào công việc kinh doanh. Việc NN tiến hành các hoạt động kinh
doanh xuất phát từ nhiều lý do khác nhau: kinh tế hay phi kinh tế. Để thực hiện chiến lược phát
triển, các NN đã sử dụng những giải pháp thúc đẩy sự phát triển - DNNN được coi như một
công cụ, một yếu tố của sự phát triển.
Ở giai đoạn đầu tiên: nền kinh tế thò trường chưa trở thành phương thức thống trò, mang đậm
nét nền kinh tế chậm phát triển đó là nền kinh tế thò trường sơ khai. Trong giai đoạn này, NN đã trở
thành một chủ thể kinh tế, hay nói cách khác kinh tế NN cũng đã tồn tại và bắt đầu xuất hiện những
cơ sở SXKD của NN. Trong giai đoạn này, NN chủ yếu tham gia vào việc cung cấp các dòch vụ
công cộng; bên cạnh đó, dần dần NN cũng đã tham gia vào việc điều tiết các hoạt động của nền
kinh tế thông qua các công cụ và chính sách kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế chưa phải là chức năng

chính của NN. Những DNNN được hình thành trong giai đoạn này có những đặc điểm như: DNNN
mang tính nô dòch, NN sử dụng nhân lực của mình phục vụ cho những nhu cầu trực tiếp của NN.
Như vậy, việc kinh doanh của NN đã xuất hiện ngay trong nền kinh tế chậm phát triển;
nhưng nói chung, các DNNN chưa có vò trí đáng kể trong nền kinh tế, chưa có tác dụng nhiều
đến sự phát triển của nền kinh tế.


11
Trong giai đoạn tiếp theo – giai đoạn của nền kinh tế thò trường tự do, NN ở giai đoạn
này là NN pháp quyền duy trì trật tự cho một xã hội. NN pháp quyền có hai chức năng chủ yếu:
(i) NN pháp quyền đưa ra luật và duy trì luật cho nền kinh tế thò trường; (ii) NN quản lý nền
kinh tế bằng các chính sách kinh tế và cung cấp những dòch vụ công cộng cho xã hội. Trong
nền kinh tế này, NN ban hành luật pháp và cai trò xã hội bằng bộ máy thực thi pháp luật thay
thế cho bộ máy cai trò trực tiếp. Mặt khác NN dần dần tác động đến nền kinh tế bằng các chính
sách kinh tế và cung cấp các dòch vụ công cộng cho xã hội, nền kinh tế dần dần được phát
triển. Các DNNN hoạt động trong giai đoạn này chủ yếu là nhằm cung cấp các dòch vụ công
cộng, do đó chưa thể hiện được là bộ phận chủ yếu của NN trong nền kinh tế thò trøng tự do,
trong khi đó kinh tế tư nhân phát triển hơn kinh tế NN. Như vậy, có thể nói DNNN trong giai
đoạn này chưa thể hiện được vai trò của mình.
Chuyển sang nền kinh tế hiện đại, nền kinh tế có một sự chuyển biến sâu sắc. Đặc trưng
quyết đònh của nền kinh tế thò trường hiện đại là sự hình thành một cơ cấu kinh tế hỗn hợp gồm kinh
tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp. Nền kinh tế thò trường hiện đại đòi hỏi tất yếu có sự điều tiết của NN.
Điều này đã đem lại cho NN một chức năng kinh tế hoàn toàn mới: hiệu quả, công bằng và ổn đònh.
NN có thể điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế bằng hai cách: trực tiếp và gián tiếp: (i) phương pháp
trực tiếp: NN với tư cách là một nhà DN trực tiếp đầu tư thực hiện quá trình kinh doanh để tạo ra
hàng hoá, dòch vụ nhằm thúc đẩy các ngành, các khâu của quá trình tái sản xuất, hay thỏa mãn
những nhu cầu cụ thể nào đó của xã hội; (ii) phương pháp gián tiếp: NN dùng các công cụ kinh tế vó
mô và chính sách để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế. Như vậy, phương pháp gián tiếp mang tầm vó
mô, chỉ có NN mới đảm đương được, còn phương pháp trực tiếp có thể được phần nào thay thế bởi tư
nhân. NN luôn luôn kết hợp cả hai phương pháp để thúc đẩy và điều tiết nền kinh tế. Trong một số

trường hợp, NN phải trực tiếp làm vì có một số lónh vực SXKD mà tư nhân không thích đầu tư hoặc
không có khả năng đầu tư nhưng nếu không hình thành và duy trì hoạt động thì sẽ ảnh hưởng đến sự
phát triển của xã hội.
Trong nền kinh tế thò trường hỗn hợp, kinh tế NN vẫn tồn tại và phát triển. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, kinh tế NN hoàn toàn không nhằm loại trừ kinh tế tư nhân mà ngược lại, chính
sự tồn tại của kinh tế tư nhân lại là cơ sở cho sự lớn lên của khu vực kinh tế NN; điều khẳng
đònh xuất phát từ thực tế là khu vực kinh tế tư nhân đã cung cấp những nguồn thu khổng lồ cho
khu vực kinh tế NN và sử dụng một lực lượng lao động đáng kể. Mặt khác, kinh tế NN kết hợp


12
với kinh tế tư nhân thành kinh tế hỗn hợp, và chính sự hỗn hợp này làm cho cả kinh tế NN và
kinh tế tư nhân cùng phát triển. Ngoài ra, kinh tế NN là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh
tế thò trường do đó sự hoạt động của nó phải được đặt trong nền kinh tế thò trường. Những tác
động của NN và kinh tế NN cũng như cách thức tác động của nó đối với nền kinh tế là khá rõ.
Tuy nhiên, trong số các công cụ được NN sử dụng để can thiệp vào nền kinh tế trong đó có
việc hình thành và phát triển DNNN đang có nhiều tranh cãi. Vấn đề không phải là có cần sự
tồn tại của DNNN hay không mà là xem xét phạm vi của loại hình kinh tế này và vai trò tương
xứng của nó trong các giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau của một nền kinh tế nhất đònh nào
đó.
Dù muốn hay không chúng ta đều phải thừa nhận về sự tồn tại của các DNNN trong nền kinh
tế của các nước khác nhau trên toàn cầu trong suốt lòch sử phát triển của nền kinh tế thế giới; trong đó
vò trí và tác dụng của DNNN trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau, ở mỗi hình thái kinh tế – xã hội
khác nhau là khác nhau. Tuy nhiên, DNNN luôn giữ vai trò nhất đònh và quan trọng. Nói chung, tầm
quan trọng của DNNN được nhấn mạnh ở khả năng giải quyết các mục tiêu xã hội và yêu cầu điều tiết
kinh tế vó mô trong các nền kinh tế thò trường, việc xoá bỏ DNNN cho đến bây giờ hầu như là chưa thể,
đó là chưa kể một số nước xem DNNN là khu vực trung tâm trong việc phát triển kinh tế – xã hội.
Trên thực tế, kể từ những năm của thập kỷ 50 cho tới nay, DNNN đã phát triển mạnh ở
nhiều nước khác nhau và luôn luôn là chủ đề cho các cuộc tranh luận. Một lập luận khá thuyết
phục cho việc hình thành các DNNN đó là khi còn ở một mức độ nào đó, trong thời kỳ mà NN

còn chưa thích ứng được với cơ chế của kinh tế thò trường hiện đại trong việc điều hành một
nền kinh tế vó mô phức tạp, thì DNNN là một trong số các công cụ có ý nghóa hết sức quan
trọng giúp NN quản lý một cách trực tiếp nền kinh tế. Khi ở trong giai đoạn đầu của nền kinh
tế thò trường hiện đại thường phát sinh các vấn đề xã hội gay gắt, đặc biệt là khi nền kinh tế
suy thoái kéo theo việc sử dụng lao động ít đi và làm dôi ra hàng loạt những người lao động dư
thừa, NN của các nước công nghiệp phát triển đã phải tiến hành quốc hữu hóa nhiều DN tư
nhân và tăng cường mở rộng các DNNN với mong muốn có thể làm tăng phúc lợi công cộng,
giảm ở một chừng mực nào đó độ chênh lệch của sự phân bố thu nhập trong xã hội và tăng
công ăn việc làm, kéo nền kinh tế từ từ thoát khỏi suy thoái. Cho đến cuối những năm của thập
kỷ 70 do bản chất của hoạt động kinh tế của nền kinh tế thò trường hiện đại thì DNNN lại có xu
hướng co lại và nẩy sinh những vấn đề mới cần giải quyết.


13
Đối với các nước công nghiệp phát triển, cơ cấu kinh tế đã trải qua nhiều bước thăng
trầm của DNNN và đi vào thế tương đối ổn đònh hơn, chính vì thế DNNN không trở thành chủ
đề chính trong những cuộc tranh cãi kòch liệt. Có điều, vấn đề sẽ khác đi đối với các nước đang
phát triển, đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền
kinh tế thò trường có sự điều tiết của NN theo đònh hướng XHCN như Việt Nam chẳng hạn: do
phải xử lý các chính sách và chiến lược phát triển theo đònh hướng XHCN cũng như đã hiện
hữu một bộ phận DNNN khá lớn trong suốt thời kỳ qua. Hiệu quả hoạt động của các DNNN có
ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế NN nói riêng và trong toàn nền kinh
tế nói chung, nên DNNN là một chủ đề xuyên suốt.
1.1.2

Khái niệm, phân loại doanh nghiệp nhà nước

1.1.2.1

Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước


Nói chung, có rất nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác đònh các tiêu thức cấu thành
một DNNN. Trong hàng loại các đònh nghóa khác nhau về DNNN, xin điểm qua một số quan điểm
mang tính chất tổng quát hơn hết như sau:
Theo Malcolm Gillis, có ba tiêu chuẩn để xác đònh một DNNN: [10 ]
1.

Chính phủ là cổ đông chính trong DN, hoặc có thể kiểm soát những chính sách
chung mà DNNN theo đuổi và bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản trò DN đó.

2.

Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất hàng hóa hoặc dòch vụ bán cho công chúng,
hoặc cho các DN tư nhân hay cũng có thể là cho các DNNN khác.

3.

Doanh nghiệp phải chòu trách nhiệm về thu chi trong hoạt động SXKD.

Nếu DN thiếu tiêu chuẩn thứ 1 thì DN đó là DN tư nhân, nếu DN thiếu tiêu chuẩn thứ 2
hoặc tiêu chuẩn thứ 3 thì một tổ chức Chính phủ không được xem là một DNNN, mà được coi là
cơ quan quản lý hành chính sự nghiệp hoặc cơ quan công cộng.
Còn theo V.V Ramandham, DNNN là một tổ chức trong đó kết hợp những yếu tố “công
ích” và những yếu tố “DN”.
1. Những yếu tố “công ích” gồm có:
ƒ

Những quyết đònh về kinh doanh và hoạt động chính do các tổ chức NN đảm nhận.
Tiêu chuẩn quan trọng trong các quyết đònh không chỉ là “kết quả tài chính”.


ƒ

Lợi nhuận là của công chứ không thuộc một nhóm tư nhân nào.


14
ƒ

Doanh nghiệp chòu trách nhiệm trước xã hội. Điều đó không có nghóa đơn giản chỉ
là các nhà quản lý DN phải chòu trách nhiệm trước những quyết đònh của họ, mà cả
DN nói chung phải chòu trách nhiệm trước xã hội.

2. Những yếu tố “DN” bao gồm:
ƒ

Doanh nghiệp có thể tồn tại về mặt tài chính một cách dài hạn và hoạt động theo
nguyên tắc của thò trường.

ƒ

Giá cả phải được thiết lập trên cơ sở chi phí. Yêu cầu này xuất phát từ đòi hỏi giá
cả phải bù đắp được toàn bộ chi phí.

Theo Ủy ban Cộng đồng Châu u, một DNNN là một DN mà Chính phủ trung ương và
Chính phủ đòa phương có thể dựa vào quyền sở hữu, quyền khống chế cổ phần hoặc các điều lệ
quản lý đối với các DN để gây ảnh hưởng có tính chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các
DN đó.
Ở Pháp, một DN hội đủ ba điều kiện như sau thì được xem là một DNNN:
1.


Tính công hữu của quyền sở hữu DN

2.

Có đòa vò pháp nhân độc lập

3.

Thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách độc lập, nghóa là đây là tổ
chức kinh tế có hạch toán lãi, lỗ chứ không phải là đơn vò hành chính sự nghiệp.

Các đònh nghóa trên cho thấy, DNNN được xác đònh dựa trên những tiêu chí chung như
quyền sở hữu, quyền kiểm soát của NN, khả năng tồn tại trên thò trường, mục tiêu, mức độ tự
chủ tài chính, quan hệ giá cả – chi phí. Tuy nhiên, ranh giới nào xác đònh một DN là DNNN thì
lại không thống nhất, ví dụ: tiêu chuẩn về quyền sở hữu của NN trong DNNN rất khác nhau
giữa các quốc gia; chẳng hạn như đối với Úc,Tây Ban Nha, Th Điển, Phần Lan, Braxin,
Mêhico,… thì DNNN là DN mà NN phải có sở hữu trên 50% tổng TS của DN, ở Ý là 25%,
Malaixia là 20%, Nam Triều Tiên là 10%. Tóm lại, có nhiều đònh nghóa về DNNN được trình
bày dưới các khía cạnh hay mức độ chi tiết khác nhau. Tuy nhiên, tất cả các đònh nghóa này đều
thống nhất về nội dung cốt lõi của DNNN, coi các DNNN là những thực thể của nền kinh tế
thuộc sở hữu NN và chòu sự quản lý vó mô của NN đối với quá trình hình thành, hoạt động và
tồn tại của DN.
Ở Việt Nam, trong cơ chế quản lý kinh tế trước đây, chúng ta gọi DN thuộc sở hữu của
NN là các xí nghiệp quốc doanh; tổng thể các xí nghiệp quốc doanh đó tạo thành bộ phận quan


15
trọng và chủ yếu của khu vực kinh tế NN. Trong các văn kiện của Đại hội Đảng như: Đại hội
Đảng III, IV, V sử dụng khái niệm “kinh tế quốc doanh”, Đại hội Đảng VI sử dụng khái niệm
“khu vực quốc doanh”, Đại hội Đảng lần thứ VII sử dụng khái niệm “kinh tế quốc doanh”, Đại

hội Đảng lần thứ VIII, thứ IX sử dụng khái niệm “kinh tế NN”.
Trong thời kỳ trước cải cách (1986), kinh tế quốc doanh được đồng nhất với sở hữu toàn
dân và được coi là hình thức sở hữu đặc trưng riêng có của chủ nghóa xã hội, là chuẩn mực để
đánh giá tính chất xã hội chủ nghóa của nền sản xuất. Do quan niệm đó, kinh tế quốc doanh
ngày càng được mở rộng và bao trùm trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong khi
nhấn mạnh chế độ sở hữu toàn dân của nền kinh tế quốc doanh, chúng ta có phần xem nhẹ các
yếu tố khác của quan hệ sản xuất là quan hệ phân phối và chế độ quản lý, và không tính đến
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, những điều này chính là không xem
trọng đúng mức hiệu quả kinh tế. Song song đó, một cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp nặng
nề đã hạn chế rất lớn đến sự phát huy tính chủ động, sáng tạo của các xí nghiệp quốc doanh.
Từ cách hiểu đơn giản rằng xí nghiệp thuộc sở hữu NN thì mọi vốn liếng, TS trong xí
nghiệp, thậm chí đến các hoạt động cụ thể của xí nghiệp đều phải chòu sự quản lý trực tiếp của
NN, cho nên hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh thường bò đóng khung trong cơ chế quản
lý tập trung, quan liêu, bao cấp. Do đó, khái niệm xí nghiệp quốc doanh trước đây gắn liền với
cơ chế quản lý này, tạo nên cách nhìn nhận sai lệch về xí nghiệp quốc doanh. Nói chung, các xí
nghiệp quốc doanh tồn tại trong giai đoạn này có các đặc trưng cơ bản như sau:
Toàn bộ vốn của xí nghiệp, kể cả vốn lưu động và vốn cố đònh đều do NN cấp phát
theo kế hoạch và đònh mức. Xí nghiệp phải nộp đại bộ phận lợi nhuận và toàn bộ tiền trích
khấu hao cơ bản vào ngân sách NN và được ngân sách bù lỗ nếu làm ăn thua lỗ.
Một phần nhỏ lợi nhuận hoặc bù lỗ (với xí nghiệp bò lỗ theo kế hoạch được duyệt) được
dùng để trích lập quỹ tài chính của xí nghiệp theo tỷ lệ (%) do NN quy đònh.
Xí nghiệp quốc doanh chòu sự quản lý cụ thể của NN (mà trực tiếp là bộ chủ quản hoặc
Ủy ban nhân dân đòa phương đối với xí nghiệp quốc doanh đòa phương) về mọi mặt hoạt động
theo một kế hoạch chi tiết tập trung từ trên giao xuống.
Xí nghiệp có nghóa vụ thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, kể cả những chính sách
xã hội mà NN giao thông qua kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cụ thể đến từng đòa chỉ.


16
Chuyển sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản lý của NN theo

đònh hướng xã hội chủ nghóa, nội dung hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh có sự thay đổi
về cơ bản. Các xí nghiệp quốc doanh nay được gọi là DNNN. Đây không chỉ là sự thay đổi về
thuật ngữ, mà còn hàm ý nhấn mạnh đến tính chất sở hữu NN, không phải sở hữu công cộng
hiểu theo nghóa chung chung như trước đây.
Luật DNNN được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 20/4/1995 đã đưa ra một đònh
nghóa đầy đủ về DNNN như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do NN đầu tư vốn thành lập và tổ
chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội do NN giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghóa vụ dân sự, tự chòu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý”.
Đònh nghóa này đã đưa ra một cách nhìn khái quát về DNNN và tách biệt nó với cơ chế
quản lý của NN đối với loại hình DN này.
Tóm lại, tuy có sự tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về DNNN, nhưng tựu trung
lại, một DN được xem là một DNNN đều được xác đònh dựa trên những tiêu chí chung như sau:
-

Quyền sở hữu, quyền kiểm soát DN thuộc về NN: DNNN là những cơ sở kinh
doanh do NN sở hữu toàn phần hay một phần, đây là những đặc điểm phân biệt
DNNN với DN trong khu vực tư nhân;

-

Doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh cụ thể, có mức độ tự chủ tài
chính, đây là đặc điểm phân biệt một DNNN với các tổ chức và cơ quan khác của
NN.

1.1.2.2

Phân loại DNNN

Để quản lý DNNN, cần phân loại DNNN căn cứ vào đặc điểm của chúng. Việc phân

loại nhằm giúp chúng ta hệ thống hóa được các loại DN, nắm bắt được những đặc trưng cụ thể
của từng loại hình DN, từ đó xác đònh được các chính sách và biện pháp quản lý phù hợp.
Dựa trên quan niệm về DNNN, DNNN được phân loại theo các góc độ khác nhau theo
mức độ sở hữu, mục tiêu kinh tế – xã hội:


Xét theo mức độ sở hữu, DNNN có hai loại:
ƒ

Loại DNNN chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là NN

ƒ

Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó NN nắm giữ một phần sở hữu
nhất đònh (tuỳ theo quy đònh của mỗi nước).


17


Xét theo mục tiêu kinh tế – xã hội, DNNN có hai loại:
ƒ

Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích)

ƒ

Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận

Theo cách phân loại của Liên hợp quốc, DNNN có ba loại:

1. Doanh nghiệp hành chính sự nghiệp (Departmental enterprises) được thành lập
trong các ngành cung cấp nước, điện, giao thông, thông tin liên lạc. Các DNNN loại
này cung cấp hàng hoá dòch vụ công cộng. Lợi nhuận không phải là mục tiêu quan
trọng mặc dù các DN này cũng phải có ý thức về chi phí và cố gắng hoạt động có
hiệu quả.
2. Doanh nghiệp công cộng (Public enterprises). NN là người chủ sở hữu duy nhất của
DN. Hoạt động của DN chủ yếu nhằm mục tiêu xã hội, chứ không vì mục tiêu lợi
nhuận.
3. Doanh nghiệp sở hữu NN (State- owned enterprises). NN sở hữu toàn bộ hoặc một
phần TS của DN. Nói chung, hoạt động kinh doanh của DN sở hữu NN là vì mục
tiêu lợi nhuận. Việc sản xuất hàng hoá và dòch vụ dựa trên phân tích chi phí – lợi
nhuận và phải chòu sự cạnh tranh với khu vực tư nhân trên thò trường.
Ở Việt Nam, có nhiều tiêu chí để phân loại DNNN, trong đó một số cách thức phân loại
chủ yếu nhất là:
1. Phân loại theo hình thức và cơ cấu tổ chức của DN:
Theo hình thức tổ chức DN: có loại DNNN độc lập và TCT:
-

DNNN độc lập là DNNN không ở trong cơ cấu tổ chức của DN khác

-

TCT NN được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vò thành
viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu
thụ, dòch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thò, hoạt động trong một hoặc một
số chuyên ngành kinh tế- kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh
của các đơn vò thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội trong từng thời kỳ quản lý. TCT NN có thể có các đơn vò thành viên:
hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc đơn vò sự nghiệp.


Theo cơ cấu tổ chức DN: gồm DNNN có HĐQT và DNNN không có HĐQT


18
-

DNNN có HĐQT thường là các DNNN độc lập quy mô lớn và TCT, có cơ cấu tổ
chức quản lý bao gồm HĐQT, tổng giám đốc hoặc giám đốc và bộ máy giúp việc.
HĐQT thực hiện chức năng quản lý hoạt động của DN, chòu trách nhiệm trước
Chính phủ hoặc cơ quan NN được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của DN
theo mục tiêu NN giao. Tổng giám đốc hoặc giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm theo đề nghò của HĐQT, chòu trách nhiệm trước HĐQT, và đại diện pháp
nhân của DN.

-

DNNN không có HĐQT thường là DN có quy mô nhỏ, được tổ chức theo mô hình
gồm giám đốc và bộ máy giúp việc. Giám đốc là người điều hành cao nhất trong
DN, thực hiện các nghóa vụ và quyền hạn được NN giao và chòu sự kiểm tra, giám
sát của NN đối với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của DN.

2. Phân loại theo mục tiêu và phương thức hoạt động, có thể chia các DNNN thành hai
dạng: DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích
-

DNNN hoạt động kinh doanh là những DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Các DNNN hoạt động kinh doanh có quyền và nghóa vụ quản lý và sử
dụng có hiệu quả đối với vốn cũng như các nguồn lực khác nhau do NN giao để
thực hiện các mục tiêu kinh doanh, nhằm thu lợi nhuận tối đa hoặc thực hiện những
nhiệm vụ đặc biệt do NN giao.


-

DNNN hoạt động công ích là những DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dòch vụ
công cộng theo các chính sách của NN hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ an ninh
quốc phòng. Hoạt động của các DN này không chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận.
DNNN hoạt động công ích có quyền và nghóa vụ quản lý và sử dụng có hiệu quả
vốn, kinh phí và các nguồn lực khác do NN giao để cung cấp các sản phẩm hoặc
dòch vụ công ích do NN giao kế hoạch hoặc đặt hàng theo giá, khung giá hoặc phí
do NN quy đònh.

3. Phân loại theo cơ cấu sở hữu
-

Loại DNNN chỉ có một sở hữu duy nhất là NN

-

Loại có nhiều chủ sở hữu, trong đó NN nắm giữ từ 50% trở lên

-

Loại DNNN có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó phần sở hữu của NN ít nhất cũng
gấp hai lần số cổ phần của một cổ đông lớn khác trong DN


19
-

Loại DNNN mà trong đó NN không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền quyết

đònh một số vấn đề quan trọng của DN theo thỏa thuận trong Điều lệ DN.

4. Phân loại theo quy mô DN:
-

Doanh nghiệp quy mô lớn;

-

Doanh nghiệp quy mô vừa;

-

Doanh nghiệp quy mô nhỏ.

5. Phân loại theo ngành nghề và tính chất sản phẩm:

1.2

-

Doanh nghiệp công nghiệp

-

Doanh nghiệp nông nghiệp;

-

Doanh nghiệp xây dựng cơ bản, …


NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ SỰ CẦN THIẾT VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.2.1

Những quan điểm về sự cần thiết của doanh nghiệp nhà nước

Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, Chính phủ thuộc các nước khác nhau đều
thành lập các DNNN của mình, nhưng sự phát triển của các DNNN lại không như nhau, xét về
mức độ và quy mô đặt trong một không gian và thời gian khác nhau, có lúc khu vực này được
mở rộng nhưng cũng có lúc lại bò thu hẹp. Nếu nhìn theo một tiến trình lòch sử phát triển lâu dài
của các nền kinh tế thò trường trên thế giới, DNNN được mở rộng và có vai trò lớn ở thời kỳ
đầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đối với các nước đi sau, thời kỳ có khủng hoảng kinh tế
lớn, hoặc trong thời kỳ chiến tranh.
Đối với các nước phát triển việc hình thành DNNN được xem như là cách thức để
Chính phủ thực hiện những mục tiêu mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn hay không thể
đảm trách, hoặc như một cách để ngăn ngừa sự độc quyền của khu vực tư nhân đối với những
lãnh vực dễ ảnh hưởng đến lợi ích chung của xã hội. DNNN ở các nước này được hình thành
cũng nhằm vào các mục tiêu xã hội như tạo công ăn việc làm ở những khu vực kém phát triển
của đất nước; các DNNN ở những nước phát triển cũng được tạo ra để kiểm soát những khu vực
có tầm quan trọng chiến lược như các ngành công nghiệp quốc phòng, khai thác mỏ hoặc một
số ngành công nghiệp mũi nhọn.
Còn ở các nước đang phát triển, Chính phủ của các nước này cũng thành lập các
DNNN, và nói chung các DNNN này cũng có các vai trò và trách nhiệm như đối với các nước


20
phát triển. Tuy nhiên, dựa vào lợi thế của các nước đi sau, đồng thời muốn rút ngắn khoảng
cách với các nước phát triển nên các nước đang phát triển thường dựa nhiều vào DNNN, xem
chúng là các công cụ để tăng trưởng kinh tế.

Riêng đối với các nước đi theo con đường xã hội chủ nghóa, các DNNN được xem như
là trụ cột trong nền kinh tế quốc dân, sự trưởng thành và phát triển của DNNN cũng như sự lớn
mạnh của khu vực này thường được xem như là có ảnh hưởng một cách lớn lao đến bộ mặt của
toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đơn cử như trường hợp của Trung Quốc, đất nước này thực sự
không thể phủ nhận vai trò và công lao đóng góp trong suốt quá trình hình thành và phát triển
của DNNN. Có thể kể ra một số đóng góp quan trọng của các DNNN đối với nền kinh tế Trung
Quốc như sau: DNNN đã góp phần làm thay đổi kết cấu công nghiệp, biến Trung Quốc từ một
nước nông nghiệp điển hình trở thành một nước xã hội chủ nghóa từng bước thực hiện công
nghiệp hoá. Năm 1949, công nghiệp Trung Quốc chỉ chiếm 15% tổng giá trò sản lượng nông
công nghiệp, phần lớn còn lại (khoảng 85%) là thuộc về nông nghiệp. Cho tới năm 1991, giá trò
sản lượng công nghiệp đã tăng lên 77,6%, nông nghiệp tụt xuống còn 22,4%. Trong kết cấu lao
động thành thò, nông thôn, năm 1952 lao động trong ngành công nghiệp và dòch vụ chiếm
16,5% tổng lao động xã hội, năm 1991 tăng lên 40,2%. Điều này đã chỉ ra rằng nền công
nghiệp đã trở thành lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đã tiếp nhận hàng loạt lao
động dư dôi từ nông nghiệp, cải thiện chất lượng tổng thể của nền kinh tế quốc dân [2,25]. Sự
ra đời của các DNNN ở Trung Quốc cũng đã góp phần hình thành nên một đội quân sản xuất
đông đảo với kỹ thuật sản xuất nhất đònh. Bên cạnh đó, do cấu thành của kỹ thuật lao động và
cấu thành hữu cơ của vốn tại các DNNN tăng lên, thêm vào đó là do nhập khẩu kỹ thuật, phát
triển kỹ thuật, nghiên cứu khoa học kỹ thuật được tăng cường, cho nên trình độ trang bò kỹ
thuật của các ngành trong nền kinh tế quốc dân được cải thiện nhiều, trong một số lónh vực
khoảng cách về trình độ kỹ thuật của Trung Quốc với trình độ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới đã
được rút ngắn. DNNN Trung Quốc cũng đã góp phần lớn lao vào việc cung cấp dư dật hàng
hóa thiết yếu cho nhân dân, làm cho mức tiêu dùng của dân chúng được nâng lên một cách rõ
rệt. Cho đến nay, các DNNN ở Trung Quốc vẫn được xem như là chỗ dựa quan trọng trong việc
giải quyết việc làm cho người lao động và trong việc nâng cao mức sống của nhân dân, là
những cơ sở quan trọng nhất trong việc thực hiện hiện đại hoá Trung Quốc; các DNNN là điểm
tựa và công cụ quan trọng của NN trong việc điều tiết vó mô; có vai trò quan trọng trong công


21

cuộc cải cách nền kinh tế xã hội và giữ vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng nền kinh
tế xã hội chủ nghóa của Trung Quốc.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng qua các giai đoạn phát triển của xã hội NN
luôn luôn tham gia vào công việc kinh doanh: DNNN đã được hình thành, phát triển và hoàn
thiện không ngừng cả về mặt lượng và chất để đảm đương những trọng trách mà NN giao phó.
NN thông qua các DNNN để tiến hành kinh doanh là nhằm nắm các huyết mạch kinh tế, thực
hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc dân theo các mục tiêu đã đònh. Trong nền kinh tế thò
trường hiện đại, kinh tế NN ngày càng phát triển, kinh tế NN kết hợp với kinh tế tư nhân thành
kinh tế hỗn hợp để cùng phát triển. Sự kết hợp này là tất yếu vì nguồn thu của NN có sự đóng
góp rất lớn của kinh tế tư nhân và kinh tế NN chỉ phát triển trên cơ sở đóng góp tích cực của
kinh tế tư nhân. Đối với Việt nam, trong quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển kinh
tế nhiều thành phần trong đó kinh tế NN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhưng
không hề coi nhẹ các thành phần kinh tế khác. Hơn nữa, kinh tế NN là một bộ phận trong cơ
cấu kinh tế thò trường, do đó sự hoạt động của nó phải đặt trong cơ chế thò trường và chòu sự chi
phối của cơ chế thò trường. Vấn đề đặt ra ở đây là DNNN nên hoạt động ở lónh vực nào, với quy
mô như thế nào cho phù hợp và phải tiếp tục sắp xếp, phát triển, đổi mới và nâng cao hiệu quả
DNNN như thế nào.
Tóm lại, có nhiều lập luận khác nhau ủng hộ cho sự tồn tại của các DNNN, sự tồn tại
của DNNN là điều tối cần thiết nhằm giúp Chính phủ các nước điều chỉnh những kiểu thất bại
của các thò trường khác nhau, DNNN là công cụ để một nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh (giải quyết những mục tiêu kinh tế) và thực hiện những mục tiêu phi thương mại, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững và công bằng (giải quyết những mục tiêu xã hội).
1.2.2

Khái quát về tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên thế giới

Dù có những vai trò quan trọng trong nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia song hầu như sự
hoạt động của DNNN ở các quốc gia khác nhau lại có một đặc điểm chung đó là kém hiệu quả, hiệu
quả lợi ích kinh tế thấp hơn rất nhiều so với các công ty tư nhân. Chính vì thế, phần lớn các DNNN
không đạt được các mục tiêu kinh tế đề ra (thể hiện ở tính kém hiệu quả) và khu vực này luôn bành

trướng về quy mô. Sự bành trướng này đã gây ra những lãng phí to lớn – chính là một trong những
nguyên nhân gây ra thâm hụt NSNN một cách nghiêm trọng - có thời kỳ đã làm giảm thiểu chức
năng điều tiết kinh tế vó mô của NN.


22
Theo một bảng điều tra của ngân hàng thế giới, năm 1984, trong 500 xí nghiệp công
nghiệp lớn nhất của thế giới, tỷ lệ lợi nhuận của các DNNN là 1,7%. Ba tập đoàn kinh tế NN
lớn nhất của Italia (là IRI, ENI, EFIM) từ năm 1974 đến năm 1984 về cơ bản đã thua lỗ hết
năm này đến năm khác; năm 1981 trong 244 DNNN của Tây Ban Nha đã có gần 200 DN bò
thua lỗ (chiếm tỉ trọng 82%); năm 1984 hầu như mọi DNNN của Bồ Đào Nha đều thu không đủ
chi, trong đó có nhiều DN gần kề với phá sản.
Cũng theo tổng kết của Ngân hàng thế giới (1995) phần lớn các DNNN ở các nước
đang phát triển và đang chuyển đổi, do thiếu nhân tài kinh doanh và kinh nghiệm quản lý –
tình hình kinh doanh của các DNNN còn thấp kém hơn rất nhiều. Các DN này là gánh nặng vô
cùng to lớn đối với ngân sách Chính phủ và nguồn lực khan hiếm của xã hội. Hơn nữa, những
DN này làm chậm tốc độ tăng trưởng, ngăn cản việc tự do hóa thò trường và như vậy đã trực
tiếp hay gián tiếp hạn chế những nỗ lực của Chính phủ trong công tác xóa đói giảm nghèo. Ví
dụ như ở New Zealand, trong vòng 20 năm tính từ năm 1965 đến năm 1985, NN đã đầu tư 5000
triệu USD (theo thời giá năm 1986) vào hoạt động kinh doanh của hãng hàng không, công ty
đòa ốc, dòch vụ bưu chính, công ty khai thác than NN và phân ngành điện lực của Bộ năng
lượng. Trong 2 năm 1985 và 1986, các tổ chức này quản lý số TS trò giá hơn 20 tỷ USD nhưng
không đem lại lợi tức sau thuế cho các cổ đông. Một ví dụ khác là trường hợp của Trung Quốc,
theo đánh giá của một số chuyên gia kinh tế nước này thì “vẫn tồn tại một bộ phận lớn các
DNNN có cơ chế thiếu linh hoạt, hiệu quả kinh tế thấp, thua lỗ nghiêm trọng, thiếu vốn lưu
động… Chính vì thế, cải cách DNNN được xem là khâu trung tâm của cải cách kinh tế trong quá
trình chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang thể chế kinh tế thò trường
XHCN”.
Tuy nhiên, cũng có một số lập luận khá thuyết phục biện minh cho sự kém hiệu quả
của các DNNN là những cơ sở kinh doanh do NN sở hữu hoàn toàn hoặc một phần. Quyền sở

hữu thuộc về NN là đặc trưng cơ bản nhất, phân biệt DNNN với các DN trong khu vực tư nhân.
Đặc trưng này quy đònh sự kiểm soát trong một chừng mực nào đó của Chính phủ bao gồm cả
Chính phủ chỉ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh. Do vậy, những người quản lý
DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thò trường bằng
những đồng nghiệp của họ trong các DN thuộc khu vực tư nhân. Cụ thể là các DNNN thường bò
Chính phủ yêu cầu phải mua hàng hoá sản xuất trong nước, do đó làm tăng thêm chi phí đầu


23
vào của họ. Các tổ chức lao động trong các DNNN mạnh hơn trong khu vực tư nhân, do vậy
người làm công trong DNNN thường được đảm bảo về việc làm nhiều hơn. Nhưng chính điều
này lại khiến cho các DNNN ít có khả năng thay đổi đầu vào về nguồn lao động của mình cho
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh từ bên ngoài. Trong những thời kỳ kinh tế suy thoái, họ
không thể tự cắt giảm số lao động dư thừa. Cũng vậy, việc quyết đònh các mặt hàng sản xuất
của các DNNN nhiều khi thuộc quyền của Chính phủ, DN không thể đa dạng hoá một cách dễ
dàng đầu ra của mình cho phù hợp với những đòi hỏi của thò trường.
Một trong số các hệ quả khác của quyền sở hữu thuộc về NN là tính chất không rõ ràng
của nhiệm vụ được giao cho các DNNN. Trong khi các công ty thuộc khu vực tư nhân lấy lợi
nhuận tối đa làm mục đích bao trùm thì các DNNN nhiều khi phải hướng tới rất nhiều mục tiêu
trừu tượng đôi khi mâu thuẫn vì cái gọi là “lợi ích quốc gia”, “đảm bảo xã hội”. Những vấn đề
nẩy sinh từ những mục tiêu phức tạp như vậy của DNNN đôi khi được phóng đại lên hơn nữa
khi có nhiều ngành trong Chính phủ kình đòch nhau, có quyền lợi được thua nằm trong DNNN,
tranh giành nhau để đưa những lợi ích cục bộ của mình vào nhiệm vụ của DN.
Có thể thấy những ràng buộc đối với các DNNN đều nẩy sinh từ tính chất phi thương
mại của chúng do sở hữu thuộc về NN. Có thể là các DNNN buộc phải thỏa mãn những yêu
cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi, phải đáp ứng các tiêu chuẩn dòch vụ nào đó ở bất kỳ
đâu do Chính phủ yêu cầu. Các DNNN cũng có thể được yêu cầu chỉ vay vốn từ một số tổ chức
cho vay, hoặc từ những nguồn cung cấp nào đó trong nước. Các DNNN cũng có thể phải đầu tư
phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội
v.v…

Một hệ quả đáng lưu ý khác nữa của quyền sở hữu thuộc NN là sự kiểm soát lỏng lẻo
các hoạt động DNNN so với các DN tư nhân. Do sở hữu NN là mang tính chung chung, không
rõ ràng và có vẻ như “tràn lan” nên ở mức độ nào đó cũng có nghóa là “vô chủ”, vì mỗi lao
động không có mối liên hệ lợi ích bao nhiêu đối với sự thành công hay thất bại của DN. Cũng
khác với DN tư nhân là sự thua lỗ hay được lãi của DNNN thường không ảnh hưởng nhiều đến
người lao động, chính vì thế sự giám sát theo dõi việc điều hành và quản lý DNNN thường bò
xem nhẹ.
Mặc dù có những hạn chế trên, nhưng sở hữu thuộc về NN cũng mang lại cho các
DNNN một thế mạnh vượt trội hơn các DN tư nhân. Đó là vì Chính phủ các nước đều có xu


24
hướng sở hữu các ngành công nghiệp có vốn cố đònh lớn như viễn thông, dòch vụ công cộng,
vận tải. Nó bắt nguồn từ khả năng của Chính phủ có thể huy động được lượng vốn lớn mà các
tư bản cá biệt không thể làm được, đi đôi với ý muốn của các Chính phủ kiểm soát các ngành
công nghiệp then chốt. Một DNNN được đài thọ vốn bằng ngân sách chắc chắn sẽ sẵn sàng bỏ
nhiều vốn vào nghiên cứu và triển khai (R & D: Research and development) hơn một số DN tư
nhân. Điều này trùng hợp với mong muốn của các Chính phủ trong việc phát triển các ngành
công nghiệp có trình độ công nghệ cao để giảm sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia.
Nhưng dù sao, các DNNN vẫn gần như thiếu các điều kiện cần thiết cho sự kinh doanh
có hiệu quả như các DN tư nhân trong một nền kinh tế thò trường. Vì thế có đònh kiến cho rằng
DNNN thì tất yếu dẫn tới kém hiệu quả. Thực tế cho thấy, DNNN vẫn luôn tồn tại vì vai trò
không thể thay thế của nó. Ngoài các lý do tạo cho Chính phủ “một quả đấm mạnh” để giải
quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong những giai đoạn đặc biệt của nền kinh tế chẳng hạn như
sau chiến tranh hay sau các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn hay trong giai đoạn khởi đầu của quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đối với các nước đi sau, sự tồn tại và phát triển của DNNN
chủ yếu còn do những mục tiêu phi thương mại của Chính phủ nhằm điều tiết đời sống kinh tế
– xã hội. Đồng thời Chính phủ các nước cũng muốn thông qua các DNNN để thực hiện các mục
tiêu phân phối lại thu nhập quốc dân bằng cách thành lập DNNN trong những vùng bò thiệt thòi
về phương diện kinh tế, chẳng hạn như những vùng sâu, vùng xa. Chính phủ phải có trách

nhiệm phát triển những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền
kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Chính vì phải đảm nhận việc cung cấp những loại
hàng hoá này, nên thu nhập tài chính của các DNNN thường được đánh giá thấp hơn thu nhập
thực tế, vì không tính đến những lợi ích bên ngoài DN.
Ngoài ra những mục tiêu chính trò gắn với lợi ích quốc gia đôi khi cũng là lý do để
Chính phủ tạo lập và điều hành một DNNN nhất đònh. Đó là việc Chính phủ muốn kiểm soát
sản xuất từ những tài nguyên quý hiếm của quốc gia, … còn có nhiều lý do thuộc về chính trò để
thành lập DNNN, và tất nhiên không thể chỉ tính đến cái giá phải trả về mặt hiệu quả kinh tế.
Như đã trình bày trong các phần trên, tình trạng kém hiệu quả trong các DNNN của các
nước trên toàn thế giới diễn ra như một căn bệnh khó chữa. Sự thua lỗ của các DNNN đều phải
lấy ngân sách để bù lỗ. Chính điều này đã dẫn đến nguyên nhân làm thâm thủng lớn ngân sách
NN của các nước, làm rối loạn khả năng điều hành kinh tế vó mô. Chính vì lẽ này mà bắt đầu


25
từ thập kỷ 80, ở hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển
đều đã từng dấy lên phong trào phi quốc hữu hóa. Nhiều nước cũng đã từng đem bán một phần
không nhỏ DNNN cho tư nhân. Cao trào này đã bắt đầu từ Anh sau đó lan rộng ra hầu hết các
nước công nghiệp phát triển, cũng như các nước đang phát triển. Tháng 10 năm 1979 Chính phủ
Thátchơ quyết đònh bán 5% quyền cổ phần của công ty dầu mỏ Anh cho xí nghiệp tư nhân, mở
đầu cho thời kỳ tư nhân hoá. Đến năm 1988 Anh đã bán ra 22,25 tỷ USD cổ phần NN ở các
công ty hàng không Anh, công ty gang thép Anh, công ty khí than Anh, xưởng đóng tàu hải
quân, xưởng sản xuất hàng quân sự Hoàng Gia v.v… Tỷ trọng DNNN trong tổng giá trò sản xuất
quốc dân đã từ 11,1% năm 1979 giảm xuống còn 6,5%. Không chỉ riêng Anh, sự hoạt động
kém hiệu quả của DNNN ở Pháp cũng đã khiến cho Chính phủ nước này có ý tưởng tư hữu hóa
và cho đến năm 1986, khi Chính phủ phái hữu lên nắm quyền đã tích cực thực hiện kế hoạch tư
nhân hoá. Trong vòng 5 năm từ năm 1986 đến năm 1991 đã bán 66 DN và ngân hàng cho tư
nhân, với tổng TS trò giá 275tỷ FRF. Cũng trong khoảng thời gian đó, Chính phủ của Mỹ cũng
đã quyết đònh bán khoảng 52 tỷ USD TS NN và một số bất động sản, cơ sở dòch vụ thuộc Chính
phủ liên bang. Nói chung, là cao trào tư nhân hoá đã diễn ra một cách mạnh mẽ nhưng không

có nghóa là tiến hành tư nhân hóa một cách triệt để, mà mục tiêu chỉ là làm giảm tỷ trọng của
DNNN xuống ở một mức độ nhất đònh nào đó mà thôi. Chẳng hạn đến năm 1990, DNNN vẫn
chiếm 18% GDP, 27,2% tổng kim ngạch đầu tư quốc gia, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu trong
nền kinh tế Pháp. Tất cả các dẫn chứng trên đã làm rõ một điều - đó là sự phản ảnh quá trình
tư nhân hoá và quá trình quốc hữu hoá luôn luôn đan xen lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau theo
yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tóm lại, tất cả các lập luận trên đây của DNNN phản ánh tính cần thiết của DNNN đối
với bất kỳ một nền kinh tế nào, mặt khác cũng phản ánh tính kém hiệu quả gần như khó tránh
khỏi của DNNN. Vấn đề luôn luôn đặt ra cho mỗi nước là phải tiến hành cải cách để nâng cao
hiệu quả của DNNN đối với nền kinh tế quốc dân nói chung, nâng cao tính năng động và tính
hiệu quả của từng DNNN nói riêng.


×