BÀI TẬP LỚN
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Trong thơ Xuân Diệu,vấn đề về không gian nghệ thuật là một đề tài hấp
dẫn và thú vị có sức mời gọi nhiều người nghiên cứu. Từ trước đến nay,
nói đến thơ Xuân Diệu người ta thường nghĩ ngay đến cảm hứng thời
gian, nỗi ám ảnh thời gian, những âu lo, hãi hùng, phiền muộn của nhà
thơ trước những bước đi không gì chống lại được của thời gian kéo theo
bao nhiêu là tàn phai, úa héo, phôi pha… Có thể nói sự than vãn về sức tàn
phá của thời gian là một trong những cảm hứng chủ đạo của thơ Xuân
Diệu trước cách mạng tháng Tám.
Qua tập thơ “Gửi hương cho gió” sẽ giúp ta hiểu được những đặc điểm
nổi bật của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu,đây là một đề tài
hay cũng nhằm để trau dồi kiến thức cho bản thân nên tôi quyết định
chọn đề tài này để nghiên cứu.
2.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là không gian nghệ thuật rộn ràng thanh sắc,say
đắm tình đời trong tập thơ “ Gửi hương cho gió “ của Xuân Diệu. Không
gian trong thơ được cảm nhận qua con mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm,
sâu sắc của người nghệ sĩ. Qua đó ta thấy tần số xuất hiện của từ trăng,
hoa, gió… trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” là dày đặc, điều đó chứng tỏ
một điều là không gian nghệ thuật trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” chủ
yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con
đường, những dòng sông…
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập thơ:” Gửi hương cho gió”. Đây là tập
thơ ông sáng tác trước Cách Mạng Tháng Tám.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ cơ bản là làm sáng tỏ không gian trong tập thơ “ Gửi hương cho
gió” của ông tất yếu phải là một không gian trần thế tươi đẹp, đầy sức
sống với sự quyến rũ ngọt ngào tâm hồn và tinh thần sống của thi nhân.
3.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
1
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Phương pháp nghiên cứu
4.
Phương pháp chủ yếu là phương pháp khảo sát,phương pháp so sánh –
đối chiếu,phương pháp thống kê,phương pháp phân tích.
NỘI DUNG
•
CHƯƠNG I: Xuân Diệu Với Phong Trào Thơ Mới
1.
Con người và sự nghiệp Xuân Diệu
Xuân Diệu (1916-1985) , tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu,bút danh là Trảo
Nha. Cha là một nhà Nho, ở Trảo Nha, huyện Can Lộc, Nghệ Tĩnh, cha là
ông Ngô Xuân Thọ và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp. Sau khi tốt nghiệp tú
tài, ông đi dạy học tư và làm viên chức ở Mĩ Tho (nay là Tiền Giang), sau
đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực Văn
Đoàn (1938–1940). Ông tốt nghiệp cử nhân Luật 1943 và làm tham tá
thương chánh ở Mỹ Tho một thời gian trước khi chuyển về ở Hà Nội.
Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn và cũng đã là một trong
những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông
ở giai đoạn này: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), truyện ngắn
Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945). Xuân Diệu tham gia Mặt
Trận Việt Minh từ trước Cách mạng tháng tám 1945. Từ đó ông gắn bó
với cách mạng và văn học. Năm 1983 được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện
Hàn Lâm nghệ thuật công hoà dân chủ Đức.Năm 1996 được giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Ở Xuân Diệu, học tập, rèn luyện, lao động sáng tạo vừa là một quyết
tâm khắc khổ, vừa là một lẽ sống, một niềm say mê lớn. Vì ông là con
vợ lẽ, xa mẹ từ nhỏ và thường bị hắt hủi khiến ông luôn khao khát tình
thương và sự cảm thông của người đời.
Xuân Diệu là một trí thức Tây học, ảnh hưởng văn hoá Pháp một cách có
hệ thống. Đồng thời sinh trưởng trong gia đình nhà Nho, nên cũng tiếp
thu ảnh hưởng văn hoá truyền thống, vì thế có sự kết hợp hai yếu tố cổ
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
2
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
điển và hiện đại Đông , Tây trong tư tưởng và tình cảm thẩm mỹ ở
ông,nhưng ảnh hưởng văn hoá, văn học phương Tây sâu đậm hơn.
A. Trước Cách Mạng Tháng Tám
Về thơ:
Tư tưởng chi phối toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu là
niềm khát khao giao cảm với đời. Xuân Diệu muốn “Cái Tôi”
phải được khẳng định chói lọi.
Với một hồn thơ yêu đời, yêu sống, Xuân Diệu đã thổi vào Thơ
Mới một luồng gió nồng nàn, sôi sục, ít có trong thơ truyền
thống. Thoát khỏi con mắt ước lệ cũ, nhà thơ nhìn cuộc đời
bằng con mắt cuả chính mình, nhìn thấy bao vẻ đáng yêu, đáng
say đắm cuả thiên nhiên và con người nơi trần thế ( Vội Vàng ).
Với Xuân Diệu, tất cả đều là tình yêu thứ nhất, là mùa xuân
đầu, ông sống mãnh liệt, sống hết mình với cuộc đời.
Xuân Diệu là nhà thơ cuả tình yêu. Một tình yêu vô biên, tuyệt
đích, vĩnh cửu. Tình yêu ấy không có trong thực tế, vì thế thơ
tình Xuân Diệu hầu hết là nỗi đau cuả một trái tim đắm say
nồng nhiệt mà không được đáp đền xứng đáng, là cảm giác cô
đơn giá lạnh trước thái độ nhạt nhẽo cuả người đời.
Thơ Xuân Diệu “Tây quá” Xuân Diệu chịu ảnh hưởng chủ yếu
thơ Tượng Trưng Pháp thế kỷ 19. Xuân Diệu khám phá được
nhiều biến thái tinh vi cuả thiên nhiên và tâm hồn con người,
và thể hiện được những vần thơ tài hoa.
Đặc điểm cơ bản của thơ Xuân Diệu là : Đó là một thế giới nghệ
thuật đầy tình tứ, màu sắc mà chuẩn mực cuả cái đẹp là con
người, con người tuổi trẻ và tình yêu.Quan điểm mỹ học này
giúp Xuân Diệu sáng tạo được nhiều hình ảnh mới mẻ, độc
đáo, đẹp một cách khoẻ khoắn và đầy sức sống.
Về Văn xuôi:
Tác phẩm : Phấn Thông Vàng (1939) là một tập bút ký, truyện
ngắn, Trường Ca (1945) là một tập tùy bút.
Văn xuôi Xuân Diệu giàu chất trữ tình, cảm hứng lãng mạn là
chủ đạo. Văn ông có nhiều ý tứ trong thơ mộng, nhưng được
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
3
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
B.
2.
lý giải tỉ mỉ hơn. Trường ca được coi là áng thơ văn xuôi diễm
lệ, đầy sức hấp dẫn (Lệnh, Hoa Học Trò, Giã Từ Tuổi Thơ...)
Sau Cách Mạng Tháng Tám
Thơ Xuân Diệu hoà nhập với cuộc sống rộng lớn, sôi động của
nhân dân,ông say sưa ca ngợi tổ quốc, nhân dân, về Đảng, bác
Hồ, về kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, về xây dựng đất
nước. Tình cảm công dân là nét nổi bật nhất trong thơ ông.
Thơ tình Xuân Diệu sau Cách Mạng Tháng Tám có kỹ thuật
hơn, song không còn cái đắm say tuổi trẻ. Trước kia ông hay
nói về cô đơn, xa cách, nay ông nói đến ấm áp sum vầy, thuỷ
chung.
Tài năng Xuân Diệu phát triển mạnh về nghiên cứu phê bình
văn học, ông đặc biệt nghiên cứu các nhà thơ cổ điển như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…Ông rất chú ý phát
hiện những giá trị nhân văn, nhân bản ở các nhà thơ này.
Xuân Diệu và phong trào Thơ Mới
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ “ Tình già “ của Phan Khôi ra mắt bạn
đọc trên báo “ Phụ nữ tân văn “ số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên
“ Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ “ đã có tiếng vang mạnh mẽ,
được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ Mới. Ngay sau đó, cuộc
tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt,mãi đến năm
1941 cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới,khép
lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kì vàng son mới của
văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.
Khuynh hướng chung của thời kì Thơ mới những năm 1932-1945 là khuynh
hướng lãng mạn . Từ khuynh hướng này đã nở rộ ra một loạt tên tuổi,một
loạt các nhà gương mặt nhà thơ lãng mạn. Chưa bao giờ người ta thấy xuất
hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ ,mơ màng như Lưu
Trọng Lư, hùng tráng như Lưu Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp,
ảo não như Huy Cận, chân quê như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và
thiết tha rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
4
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Xuân Diệu là nhà thơ được xếp là tiêu biểu nhất cho phong trào Thơ mới,
cho chủ nghĩa lãng mạn tồn tại trong văn học Việt Nam thời kì lúc bấy giờ.
Điều này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm ông giai đoạn trước Cách
Mạng Tháng Tám.
Trước Cách Mạng Tháng Tám, sự nghiệp sáng tác của Xuân Diệu được đánh
dấu bởi các tập thơ: “ Thơ thơ ” (1938),” Gửi Hương Cho Gió ” (1945),
“Trường Ca ” (1945) …Trong đó, “ Thơ Thơ ” và “ Gửi Hương Cho Gió ” là
tác phẩm khiến Xuân Diệu góp phần đưa Thơ mới đến đỉnh cao huy hoàng
và rực rỡ nhất.
3.
Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu, thể hiện một cách rất riêng, rất
xuất sắc đặc trưng cho cách hiểu thời gian từ góc độ cá nhân ấy. Với nhà
thơ, thời gian được nhìn như một đối tượng “thù địch” với sinh mạng cá
nhân. Với ông, bi kịch lớn nhất của con người lãng mạn chính là thời gian.
Một vài quan niệm về thời gian trước Xuân Diệu, Mãn Giác Thiền sư trong
“Cáo tật thị chúng” đã viết:
“ Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
Mãn Giác Thiền sư đã đưa ra một quan niệm về thời gian: thời gian tuần
hoàn, bất biến, xuân qua rồi xuân lại tới, thời gian trôi đi rồi thời gian lại
trở về, cứ theo một vòng tuần hoàn: xuân - hạ - thu đông như thế.
Nói về thời gian tuần hoàn, Nguyễn Du cũng viết trong “Truyện Kiều”
“Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân”
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
5
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Còn Tản Đà thì :
“Đời người thử ngẫm mà hay
Trăm năm là ngắn, một ngày dài hơn”.
Các nhà thơ trước cũng đã có những lúc ý thức, thở than về cái hữu hạn
của đời người. Song, ý thức một cách sâu sắc, cuồng nhiệt thì chỉ đến thơ
Xuân Diệu mới có được.
Khác với những quan niệm trước đó về thời gian, đến Xuân Diệu thời gian
là một đi không trở lại, vũ trụ là khách thể độc lập với con người. Và với
Xuân Diệu, thời gian không còn tính theo chiều vĩ mô: một đời, nghìn
năm, vạn năm, thiên thu… như trong thơ cổ mà với sự thức tỉnh ý thức cá
nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận rõ hơn ai hết sự thật đáng buồn “tuổi trẻ
chẳng hai lần thắm lại”, cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn,
vũ trụ có thể vĩnh hằng. Thời gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung
mà mỗi khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn, những bài thơ viết về thời
gian của Xuân Diệu có thể kể đến rất nhiều như: Đi thuyền, Thời gian, Giờ
tàn, Chiếc lá, Vì sao, Giã từ thân thể, Vội vàng, Giục giã, Hết ngày hết
tháng… đều thể hiện những quan điểm cá nhân của nhà thơ về thời gian,
dòng thời gian hay cũng là dòng đời luôn luôn chuyển động, thay đổi
không ngừng. Bài “Thời gian” cho ta sự cảm nhận về thời gian của nhà thơ:
“Dưới thuyền nước trôi
Trên nước thuyền chuồi
Và nước, và thuyền
Xuôi dòng đi xuôi”
Thông qua hình tượng “nước” và “thuyền” nhà thơ nói lên sự nhận thức rõ
ràng nhịp điệu trôi chảy của thời gian. Thời gian trong thế giới vũ trụ thì
vĩnh cửu, còn thời gian đời người là hữu hạn. Con người bất lực hoàn toàn
trước sức mạnh của thời gian vũ trụ và luôn có nguy cơ bị cuốn trôi hoặc bị
nhấn chìm:
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
6
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
“Nước cũng mất luôn
Nhưng nước còn nguồn
Thuyền chìm trong lúc
Đêm ngày nước tuôn”
Với “vội vàng” càng làm ta thấm thía về dòng chảy thời gian không bao giờ
biết ngừng nghỉ
“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Có lẽ, trước đó, chẳng có bất kì ai lại “sợ” thời gian hơn là Xuân Diệu.
Thông thường, người ta nắm trong tay cái gì rồi mới sợ mất, còn Xuân
Diệu, dù “xuân” mới chỉ đương tới, đương đến, nhà thơ đã nghĩ ngay đến
khoảnh khắc phai tàn, khoảnh khắc biến mất. Cặp từ đối lập: “tới - qua”,
“non - già” càng nhận mạnh sự chảy trôi nhanh chóng, đáng sợ của của
thời gian qua mắt nhìn Xuân Diệu.
Và với những vần thơ trong bài “Thanh niên” ta mới thấy hết được sự nuối
tiếc thời gian của nhà thơ:
“Ôi thanh niên! Người mang hết xuân thì
Hình ngực nở nụ cười tươi màu tóc láng
Già sẽ đến giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm đi làm sợ cả hương hoa”
Bước đi của thời gian cũng khiến cho sự vật, cho không gian dường như
run rẩy, run lên vì sợ hãi:
“Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
Như thế, thời gian trong thơ Xuân Diệu là thứ thời gian tuyến tính, thời
gian “một đi không trở lại”. Thứ thời gian ấy có thể làm cho người ta hoảng
hốt, run sợ bởi cuộc đời sao mà quá ngắn ngủi, một kiếp người sao mà trôi
đi quá nhanh. Thời gian dường như là một kẻ “thù địch” với những số phận
cá nhân, mà Xuân Diệu là một điển hình tiêu biểu.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
7
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Phong cách khá điển hình cho tình yêu vô biên của xuân Diệu đối với cõi
đời được thể hiện đầy đủ qua các câu thơ thật mạnh mẽ và nồng nàn:
“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quit cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vờn trần
Chân hóa dễ để hút mùn dưới đất”
(Thanh Niên)
Những đam mê đến cuồng nhiệt, những khát khao đến bỏng cháy của nhà
thơ hiện hình qua từng động tác “trữ tình” mạnh mẽ, những “ôm”, “riết”,
“say”, “thâu”, “cắn”, “hút”, “quấn quít”…
“ Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
(Vội Vàng)
Trong tốc độ và cường độ, từ quan niệm đến tư thế và động tác, tâm hồn
Xuân Diệu luôn luôn trẻ trung, sôi nổi, rạo rực. Tấm lòng yêu đời mãnh
liệt ấy, tâm hồn trẻ trung và cường tráng ấy không thể không in đậm dấu
ấn trong những hình ảnh không gian của thơ Xuân Diệu. Không gian nghệ
thuật trong thơ Xuân Diệu là sự phản chiếu tuyệt vời tình yêu cuộc sống
của nhà thơ.
Không gian nghệ thuật là diện mạo của thế giới, người ta cảm thụ về
không gian chính nhờ bởi những vật thể lấp đầy nó. Mong muốn và chờ
đợi gì ở cuộc đời, nhà thơ sẽ nhìn thấy một không gian tương xứng .
•
CHƯƠNG II: Không Gian Nghệ Thuật Trong Tập Thơ
1.
Khái niệm không gian nghệ thuật
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
8
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Không gian nghệ thuật có thể là không gian thiên nhiên hay không gian
sinh hoạt; không gian thật hay không gian ảo do nhà văn tưởng tượng
ra; có thể là không gian khép hay không gian mở; không gian hẹp có
tính chất cố định hay không gian rộng có tính chất bất định; không gian
huyền thoại mang tư tưởng của một dân tộc, một thời đại hay không
gian nỗi niềm, không gian cõi lòng, phụ thuộc vào sự vận động của tư
tưởng, tình cảm; có thể là không gian linh hoạt, vận động đa hướng hay
không gian tĩnh bất động, đứng yên.
2.
Không gian nghệ thuật trong tập thơ “Gừi Hương Cho Gió”
2.1 Một không gian trần thế xinh đẹp đầy sức sống
Xuân Diệu là nhà thơ của lòng yêu đời và niềm say mê ân ái. Nếu
thời gian trong thơ ông nghiêng về trục hiện tại với ý thức của nhân
vật trữ tình là được tồn tại, được sống, được yêu và nếm trải thì
không gian trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của ông tất yếu phải
là một không gian trần thế tươi đẹp, đầy sức sống với sự quyến rũ
ngọt ngào tâm hồn và tinh thần sống của thi nhân.
Không gian trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu có thể
là không gian tự nhiên, gần gũi với cuộc sống của con người. Trong
không gian ấy, những hiện tượng và sự vật chủ yếu là trăng, hoa,
cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường, những
dòng sông, những dãy núi và thấp thoáng một ít gương mặt tuổi trẻ
xung quanh những câu chuyện tình tự lứa đôi. Cụ thể chỉ khảo sát 6
bài thơ như “ Nguyệt cầm ”, ” Buồn trăng ”, ” Lời kỹ nữ ”, “ Gửi
hương cho gió ”,” Mời yêu ”, “ Phơi trải ” của tập thơ “ Gửi hương
cho gió ” Xuân Diệu đã dùng đến 15 từ “ Trăng ” và 4 từ “Nguyệt”,
12 từ “ Gió “, 10 từ “ Hoa”, 2 từ “ Mây”, 2 từ “ Sương”… trong đó bài
“Nguyệt cầm” chỉ 2 câu thơ đầu tiên tác giả đã 5 lần dùng từ Trăng.
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần…”
(Nguyệt cầm)
“Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
9
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Mất một đời thơm trong kẻ núi
Không người du tử đến nhằm hang…”
(Gửi hương cho gió)
Không gian trần thế trong tập thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân
Diệu là sự đối lập hoàn toàn với thế giới hư ảo thiên đường và địa
ngục. Xuân Diệu đã tự tay xây dựng lấy phần không gian của mình
sao cho thật vui tươi chan hoà. Nó là thế giới kỳ diệu của thiên
nhiên với những " Gửi hương cho gió",” những đêm trăng huyền
diệu ",” những sương mờ ", có thể nói đây mới thực sự là thiên
đường của Xuân Diệu :
“Ngày trong lắm, lá êm, hoa đẹp quá
Nhan sắc ơi, cây cỏ chói đầy sao
Tháng giêng cười, không e lệ chút nào
Bằng trăm cánh của bướm chim rối rắm
Ai có biết mùa xuân lên nặng lắm
Trên cành hồng và trong những trái tim?
Nghe điệu lòng hưởng ứng với ca chim
Tôi tư thấy lạc loài trong nắng mới
Mở miệng vàng…và hãy nói yêu tôi…
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi…
(Mời yêu)
Bất cứ bài thơ tình nào của Xuân Diệu cũng mang theo âm hưởng
của cuộc đời. Thơ tình của Xuân Diệu vừa bộc lộ những khát khao
lành mạnh của nhịp sống trần thế vừa hết sức thanh tao mơ mộng.
Từ khung cảnh không gian thấm đẫm hương tình, nơi gặp gỡ của
những tình cảm yêu đời, yêu người tha thiết, nơi con người với
những cung bậc yêu thương,Xuân Diệu luôn khao khát mãnh liệt
được giao hòa, giao cảm.
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ, thời gian không đứng đợi.
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới;
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
10
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ,
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết!
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt;
Những vườn xưa, nay đoạn tuyệt dấu hài.
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn ”
(Giục giã)
Không gian nghệ thuật trong tập thơ “Gửi hương cho gió” của Xuân
Diệu tràn ngập âm sắc quyến rũ của trần gian, phản chiếu một cách
sinh động nỗi đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống
mãnh liệt của thi sĩ. Một trong những không gian tiêu biểu của tập
thơ “ Gửi hương cho gió” của Xuân Diệu là không gian vườn, trăng .
Vườn là điểm hội tụ của gió, nắng, chim, hoa, ong, bướm, ánh sáng
long lanh và âm thanh náo nức. Tất cả đều tươi rói, sáng rực, phơi
phới, rạng ngời trong vẻ hân hoan ban mai và điều này mới là quan
trọng, là đặc trưng cho thiên nhiên, cho các vật thể không gian của
thơ Xuân Diệu. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu thường
được cảm nhận trong buổi bình minh,trong ánh ban mai,ở đó, tất cả
tạo vật đều mang một vẻ đẹp tinh khôi,thanh tân, trinh bạch,của
“buổi ban đầu” của “thủa ban sơ” của “mối tình thứ nhất”…không
gian ấy luôn tràn ngập ánh sáng.
“ Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớn,mắt long lanh”
(Rạo Rực)
Thơ Xuân Diệu đầy hoa. Trong không gian vườn đời phong phú nhan
sắc thắm tươi của các loài hoa.
“Gió thu hoa cúc vàng lưng đậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên”
(Thu)
“Ngẩng đầu ngắm mãi chưa xong nhớ,
Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya”
(Buồn Trăng)
“Bụi mưa mờ cũ gương trăng,
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
11
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Hoa lau trắng đã kết bằng tiêu tao”
(Bụi Mưa Mờ Cũ)
Trong số các loài cây mà Xuân Diệu đưa vào không gian thơ ông thì
hình như lá liễu được chú ý nhiều hơn cả. Liễu được nhìn nhận như
là một biểu tượng của mùa, xanh thắm tốt tươi hay bơ phờ, ủ rũ
cùng đất trời và lòng người. Liễu được chú ý đặc tả có lẽ một phần
vì dáng nét của liễu tha thước, yêu kiều, phù hợp với quan niệm về
vẻ đẹp mong manh. Nhưng một phần khác là vì liễu rất gần với
những gì thuộc về thế giới tình yêu, của phụ nữ, trong thơ Xuân
Diệu liễu gắn bó với người phụ nữ cả xưa lẫn nay.
“Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu”
(Mơ Xưa)
“Bước đẹp em vừa gửi tới đây,
Chim hoa ríu rít liễu vui vầy”
(Dâng)
“Cho liễu người khô ngọc mắt phai”
(Kẻ Đi Cày)
Trong không gian thơ Xuân Diệu luôn vằng vặc một vầng trăng.” Thơ
Xuân Diệu là cả một thế giới với đủ mọi hình hài, dáng vẽ và mọi
trạng thái cảm xúc “ Trăng ngà”, “ trăng rộng”, “ trăng ngần “, “ trăng
vàng” ,”trăng sáng”, “ trăng xa”,
” trăng ngẩn ngơ”,” trăng đẹp”,
“trăng lạnh lùng”,” trăng thâu”, “trăng tàn”,
” trăng thương”,”
trăng nhớ”… Có thể nói rằng hàng số những câu thơ viết về thiên
nhiên của Thơ mới, Xuân Diệu đã góp vào đó nhiều câu thơ cùng
sáng giá về trăng. Vầng trăng trong thơ Xuân Diệu không xa
thẳm,cách vời mà sinh động,phập phồng sự sống. Trăng gợi nhắc
đến những biểu tượng sự sống,khát vọng tận hưởng những vẻ đẹp
trời ban, cái tuyệt mỹ và diệu hiền của tạo hóa.
“Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa
Vội vàng chi, trăng sáng quá khách ơi”
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
12
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
“Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt”
( Lời Kỹ Nữ)
“Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần”
(Nguyệt Cầm)
“Trăng thu thường thấy trắng phau,
Ấy màu của tuyết, ấy màu của bang
Lạnh thay! Là cảnh cô Hằng
Lạnh trong cung lạnh,trong trăng lạnh lùng”
(Bụi Mưa Mờ Cũ)
2.2
Không gian nghệ thuật trong thơ bị ám ảnh bởi sự tàn phá của thời
gian.
Văn học lãng mạn có cách nhìn về thời gian khác hẳn so với nhiều
nền văn học khác, Tố Hữu thường tâm niệm:
“Rồi mai đây tất cả sẽ là chung
Tất cả sẽ là vui và ánh sáng”
Cái ngày mai ấy thật tốt đẹp, thật hứa hẹn và hơn hẳn cái hiện
tại “ đêm nay”. Ngược lại, văn học lãng mạng quan niệm sự vận
động của thời gian đồng nghĩa với những gì thuộc về mất mát , suy
tàn , phôi pha, hủy diệt. Quá khứ là vàng son. Hiện tại so với quá
khứ suy đồi, sa đọa. Còn tương lai hiện ra thật mù mịt, thật bất
định và không hề hứa hẹn một chút gì tốt đẹp.
Huy Cận hay hồi tưởng lại “ thời muôn năm trước “
“Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gửi tiếng thời gian, trống dồn”
(Chiều xưa)
Nhưng trong thơ ông , cũng như trong thơ nhiều nhà thơ lãng
mạng khác thời kỳ thơ mới, những gì đẹp đẽ, vàng son đều bay
vèo, ngược chiều thời gian vào cỏi xưa, vào hư vô nên nhà thơ cảm
than:
“Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ”
(Trò chuyện)
Trong thơ Xuân Diệu, không một cái gì trên cõi đời này chống trả
lại được sức mạnh tàn phá của thời gian, dù đó là trời ,đất, mây,
nước,núi sông hay một cọng lá, một nhành hoa , một sắc xuân son
sẽ, một nét thu mơ màng và cả lòng người, tình yêu, tuổi trẻ. Trong
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
13
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
thơ ông, thế giới biến đổi khôn lường và không ngừng như một
dòng sông. Có lẽ, điều đáng quý nhất ở thơ Xuân Diệu, ở con người
ông chính là lối sống “chiếm lĩnh thời gian” mà bản thân ông luôn
tâm niệm và gửi gắm tất cả vào trong thơ ca của mình.Người ta dễ
dàng nhận ra xu hướng chung của vận động là sự xấu đi, sự phai
tàn, sự mất mát. Đời người là thế:
“Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi, mặt xấu rồi”
(Hư Vô)
Tình yêu là thế:
“Tình thổi gió màu yêu lên phấp phới
Nhưng đôi ngày tình mới đã thành xưa
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”
(Giục Giã)
Lòng người là thế:
“Ai nói trước lòng anh không phản trắc
Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ”
(Giục Giã)
Và tạo vật cũng là thế:
“Sắc tàn, hương nhạt, mùa xuân rụng
Những mặt hồng chia rã hết cười
Đỡ lấy đài xiêu nưng lấy nhị
Hồn ơi, phong cảnh cũng là ngươi”
(Xuân Rụng)
Xuân Diệu không can tâm cúi đầu trước sự tàn phá của thời gian,
không chỉ ngậm ngùi, ông chống trả quyết liệt trước sự trôi chảy
của thời gian bằng nhiệt huyết cháy bỏng, bằng cách bám chắc vào
vườn trần, níu kéo lấy hiện tại, sống đến tận cùng mọi lúc mọi
khoảnh khắc.Trong cảm nhận thời gian Xuân Diệu có lẽ không ai
thấm thía, xót xa trước những bước đi không gì cưỡng lại nổi của
thời gian bằng ông. Vì lẽ càng níu kéo, càng chống trả thì lại càng
bất lực, càng buông xuôi, càng day dứt và nuối tiếc.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
14
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
2.3
Không gian nghệ thuật trong thơ tràn ngập màu sắc, âm thanh, thể
hiện niềm đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống mãnh
liệt của thi sĩ.
Đây là không gian của sức sống, của niềm vui, của những giá trị tích
cực, của thế giới được nhìn từ phương diện đáng yêu nhất, sung
mãn nhất. Không gian nghệ thuật ấy được xây dựng bởi những chất
liệu thật của thực tại, là không gian của những cái “ở đây” và “bây
giờ”.
“ Chỉ là gió, nhưng lòng tôi thả bướm
Thêm phất phơ cho hơi thở vừa hiền
Chỉ là trăng nhưng tôi thấy thần tiên
Như tuyệt diệu bởi hồn tôi xanh quá”
(Chỉ ở Lòng Ta)
“Xuân hỡi! Trời ơi, xuân sắc ơi!
Say mê ta vẫn níu chân người
Sao mà vội vã đi nhanh quá!”
(Trò Chuyện Với Thơ Thơ)
Thái độ sống nôn nao, mọi sự đợi chờ thi sĩ đều sợ bỏ phí mất
từng khắc của tuổi thanh xuân, trong bài thơ”Thanh niên” Xuân
Diệu viết:
“Người đang ở! Ta vội vàng dữ quá!
Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn!
Sống toàn tâm và thức cả giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ;
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ.”
So với Xuân Diệu thơ Huy Cận ở đó con người chỉ là những chấm
nhỏ đơn côi.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời lộng, bến cô liêu…”
(Tràng Giang)
Không gian nghệ thuật thơ Xuân Diệu bao giờ cũng được cảm nhận
từ thời điểm hiện tại, được tạo dựng bởi những vật liệu thực có thể
cãm nhận và kiễm chứng các giác quan. Đó một là thế giới sinh
động và hiện hữu. Trái lại, trong thơ của một thi sĩ nổi tiếng hoài cổ
là Chế Lan Viên, không gian nghệ thuật lại được lấp đầy bởi những
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
15
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
đầu lâu và xương cốt ,oan hồn và ma quỷ, những đổ vỡ và hoang
phế.
“Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng chàm lở lói rỉ rên than
Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi…”
(Trên đường về)
Đó là một không gian của khổ đau và hờn oán, một không gian
được nhìn từ phương diện tan rữa, lụi tàn với những sắc màu tàn
khốc nhất.
“Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn
Hơi người chết tỏa đầy trong gió lướt
Tiếng gió kêu dung chuyển cỏ xanh non
Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não con người
Tủy đã cạn, nhưng vẫn đầm hơi ướt
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi”
(Xương khô)
Đó là một không gian “ rờn rợn khí yêu ma” được xây dựng lên
bởi những chất liệu chắt ra từ hồi ức, từ hoài niệm và chủ yếu là từ
tưởng tượng. Đó là một không gian hoang đường và kỳ ảo, khác rất
xa với cái cõi đời tươi tắn, nõn nà và ấm nồng, nồng nàn của Xuân
Diệu.
•
CHƯƠNG III: Nghệ Thuật Thể Hiện Không Gian Nghệ Thuật
Thi sĩ được giới trẻ tấn phong là “ ông hoàng của thơ tình yêu” bởi đã
đem vào thơ tình một quan niệm đầy đủ, toàn diện, một cách thể hiện
mới mẻ, phong phú đặc biệt là sự diễn đạt chân thực và táo bạo về
tình yêu.
Xuân Diệu còn là một cây bút có nhiều tìm tòi, cách tân trong nghệ
thuật ngôn từ : lối diễn đạt chính xác, những thông tin cụ thể, tỉ mỉ,
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
16
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
thơ giàu nhạc tính và sự sáng tạo trong việc sự dụng những cách nói
mới nhờ phát huy triệt để năng lực cảm nhận của các giác quan.
Xuân Diệu hấp dẫn bởi một phong cách nghệ thuật độc đáo với ba đặc
điểm chính:
- Một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm trước sự vận động của thời gian
- Một trái tim luôn hướng đến mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu nơi trần thế
bằng niềm yêu đời, yêu sống cuồng nhiệt, sôi nổi.
- Một nghệ sĩ học tập nhiều ở cấu trúc câu thơ Tây phương hoàn thiện
thơ trữ tình, điệu nói để hiện đại hoá thơ Việt.
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em, em ơi, tình non đã già rồi;
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.”
(Giục Giã)
Với tư tưởng tiến bộ, Xuân Diệu đại diện cho thế hệ trẻ cấp tiến, yêu và
sống hết mình, dám bày tỏ quan điểm suy nghĩ tình cảm của “cái tôi”
cá nhân. Muốn giải phóng từ bỏ cái quan niệm cổ hữu của thơ xưa, với
một ý thức cá nhân sâu sắc, đến với thơ Xuân Diệu ở giai đoạn này, ta
bắt gặp một anh chàng thi sĩ bồng bột biết bao trước cuộc sống, yêu
cuộc sống thiết tha đến sống vội vàng cuống quýt để tận hưởng cho
hết hương hoa cuộc đời, một chàng trai trẻ yêu vội vàng mà cũng rất
cuồng si, yêu vội mà mãnh liệt, biết quí trọng từng thời khắc của tuổi
trẻ.
Thế giới thiên nhiên của Xuân Diệu đủ màu hương sắc và ríu rít âm
thanh, tất cả đều hội tụ đủ mọi yếu tố, mọi vẻ đẹp ở độ đỉnh điểm gợi
cảm nhất.Trong “Xuân đầu” Xuân Diệu thiết tha cùng mùa xuân của
tình yêu với trời xanh, vườn non, đường cỏ mộng …
“Trời xanh thế! hàng cây thơ biết mấy!
Vườn non sao! đường cỏ mộng bao nhiêu,
Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy,
Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều.
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
17
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Hỡi năm tháng vội đi làm quá khứ!
Trở về đây! và đem trở về đây
Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử,
Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây.
Và nhạc phất dưới chân mừng sánh bước;
Và tơ giăng trong lòng nhỏ khơi ngòi;
Tà áo mới cũng say mùi gió nước;
Rặng mi dài xao động ánh dương vui.”
Trong bài thơ Xuân Diệu thường sử dụng lối ngắt nhịp:2/2/3- 3/2/33/3… và liên tục thay đổi cách ngắt nhịp đầy linh hoạt uyển chuyển
dường như là theo rất sát mạch cảm xúc khi dồn dập gấp gáp hối thúc,
khi chậm dãi ngẩn ngơ, nuối tiếc. Xuân Diệu còn khiến người đọc còn
rung động mạnh bởi nhạc điệu trong thơ. “Thơ là một dạng lời nói có
hệ thống ngữ điệu đặc biệt”(Timofeep). Và Xuân Diệu đã phổ vào thơ
lãng mạn Việt nam những giai điệu tân kì đến mê ly,họ gọi thơ ông là
một thứ âm điệu cực kì du dương,một sự tuyệt tác của nhạc cảm,một
nhạc điệu điếng hồn. Ông sử dụng linh hoạt các cách ngắt nhịp. Ta thử
khảo sát một đoạn thơ trong bài “Giục Giã”
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, (3/2/3)
Em, em ơi, tình non đã già rồi; (1/2/2/3)
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi, (3/3/2)
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi. (3/2/3)
Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới (3/2/3)
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa, (3/2/3)
Nắng mọc chưa tin, hoa mọc không ngờ, (4/4)
Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết!(3/3/2)
Và một yếu tố tạo nên tính nhạc trong thơ ông không thể không nói
đến đó là nghệ thuật điệp.
“Sương lan mờ, bờ sông tưởng gần nhau,
Sương lan mờ, và hồn tôi nghe đau.
Sương bạc lấp cả một trời trắng sữa,
Sương mông lung như giữa khoảng giang hà.”
(Sương)
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
18
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
Ngoài ra, ông còn vận dụng vào thơ mình nghệ thuật chuyển loại từ,
đảo ngữ, nhân hóa,so sánh, ẩn dụ…cũng góp một phần đáng kể vào
việc tạo nên sự thành công chung của tập thơ.
KẾT LUẬN
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
19
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU
BÀI TẬP LỚN
GVHD: NGUYỄN THỊ HỒNG
20
SV: NGUYỄN THỊ LỆ THU