Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tính đúng đắn quá độ lên xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.9 KB, 21 trang )

I/ Tư tuởng HCM về kinh tế trong thời kỳ quá độ lên XHCN
Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng: Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể
khác với Liên Xô. Hồ Chí Minh cho rằng: "Có nước thì đi lên chủ nghĩa
xã hội (cộng sản) như Liên Xô, có nước phải kinh qua chế độ dân chủ
mới rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội" như các nước Đông Âu, Trung Quốc,
Việt Nam.
Có thể hiểu: "chế độ dân chủ mới" theo Hồ Chí Minh là thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó Người lý giải: nước ta phải trải qua
6 một giai đoạn dân chủ mới vì "đặc điểm to lớn của thời kỳ quá độ là
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Đây là điểm xuất phát
của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chính điểm xuất phát này
là cơ sở khách quan quy định tính chất phức tạp của kết cấu kinh tế - xã
hội và sự tồn tại các thành phần kinh tế khác nhau. Từ đó người xác định
cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta thể hiện ở
ba khía cạnh sau:
Một là, Người xác định thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do
1953) gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh
tế của chế độ xã hội phong kiến. Trong đó, giai cấp địa chủ chiếm ruộng
đất và nông cụ nhưng không cày cấy, "không nhắc chân đụng tay mà lại
cửa cao nhà rộng, phú quý phong lưu" còn nông dân phải mướn ruộng
của địa chủ phải nộp tô, phải hầu hạ "nông dân không khác gì nô lệ".
Trong chế độ mới, thành phần kinh tế đó đã lỗi thời, chỉ còn là tàn dư.
Nhưng để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phục vụ chiến lược
giải phóng dân tộc, nhằm thu hút số địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng,
ủng hộ kháng chiến, Hồ Chí Minh không chủ trương xóa bỏ thành phần
kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức, tạo điều kiện cho thành
phần kinh tế này đóng góp cho kháng chiến.
- Kinh tế quốc doanh: gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh của nhà


nước, là của chung nhân dân, phục vụ lợi ích của xã hội... Đây là thành
phần kinh tế ra đời trong chế độ dân chủ mới, có vai trò đáp ứng yêu cầu
to lớn và quan trọng của toàn xã hội, của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Theo Hồ Chí Minh, kinh tế quốc doanh 7 là "nền
tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó" .


- Kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế của giai cấp tư sản
dân tộc. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời, còn non yếu do bị tư bản
nước ngoài chèn ép. Tuy nhiên "về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến
thì chế độ tư bản là một tiến bộ to". Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử
dụng vốn, khoa học kỹ thuật "cho nên, Chính phủ cần giúp họ phát triển.
Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp
với lợi ích của đại đa số nhân dân" .
- Kinh tế tư bản quốc gia: Đây là thành phần kinh tế do Nhà nước
và nhà tư bản cùng góp vốn với nhau để kinh doanh do Nhà nước lãnh
đạo. Tư bản của tư nhân là tư bản chủ nghĩa. Tư bản của Nhà nước là xã
hội chủ nghĩa. Theo Lênin, thành phần kinh tế này là nấc thang, bước
trung gian để một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Và thành
phần kinh tế "nửa chủ nghĩa xã hội" này sẽ tồn tại lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội
. - Ngoài ra còn có kinh tế hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung
cấp có tính chất nửa xã hội chủ nghĩa; kinh tế cá thể của nông dân và của
thủ công nghệ.
Hai là: Ngay từ năm 1953, Hồ Chí Minh đã cho rằng: Dưới chế độ
dân chủ mới có 5 loại thành phần kinh tế khác nhau là:
- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung
nhân dân). - Kinh tế hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội và sẽ tiến lên
chủ nghĩa xã hội). - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công (có thể

tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
- Kinh tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế tư bản của nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản
tư nhân để kinh doanh).
Và, trong nền kinh tế nhiều thành phần ấy, để khỏi chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng phải làm cho kinh tế quốc
doanh phát triển nhanh hơn và giữ vai trò chủ đạo.
Ba là: Hồ Chí Minh đề ra chính sách kinh tế của Đảng và Chính
phủ là:
- Công tư đều lợi.
- Chủ thợ đều lợi.
- Công nông giúp nhau.
- Lưu thông trong ngoài.
"Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta".
Chỉ bằng những câu ngắn gọn Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy những
nguyên tắc, mục tiêu cần hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần là:


các thành phần kinh tế phải tồn tại trong mối quan hệ bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Tư
tưởng trên của Người đã được đưa vào cuộc sống và đã đưa lại những
thành tựu to lớn. Công cuộc khôi phục kinh tế 1955-1957 nhanh chóng
hoàn thành, công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế 1958- 1960 giành
được những thắng lợi to lớn, mở ra một thời kỳ "hoàng kim" của kinh tế
xã hội chủ nghĩa miền Bắc phát triển
II/ Tiểu sử Nguyễn Văn Linh
Trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Nguyễn Văn Linh là
người kế thừa, thực hành xuất sắc chủ trương của Hồ Chí Minh về các
thành fần kinh tế trong từng giai đoạn thực tiễn của đất nước, góp phần
tạo nên những thắng lợi mang ý nghĩa bước ngoặt cho cách mạng VN

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười
Cúc), sinh ngày 1/7/1915 trong một gia đình công chức tại xã Giai Phạm,
huyện Yên Mỹ (Hưng Yên). 4 tuổi ông mất cha, 7 tuổi mồ côi mẹ, 15 tuổi
ông tham gia hoạt động cách mạng, đi rải truyền đơn rồi bị bắt, tù đày.
Ông từng hai lần bị đày ra nhà tù Côn Đảo.
Sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, nhưng suốt cuộc đời ông chủ yếu hoạt
động và gắn bó với miền Nam, giữ các trọng trách: Bí thư Thành ủy Sài
Gòn - Chợ Lớn; Ủy viên Thường vụ xứ ủy Nam Bộ trong kháng chiến; Bí
thư Thành ủy TP HCM sau ngày thống nhất đất nước rồi được giao trọng
trách làm Tổng bí thư Đảng năm 1986, năm Việt Nam bắt đầu công cuộc
đổi mới.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1915-1998)
III/ Quá trình NVL thực hiện quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên XHCN


Những năm đầu sau ngày đất nước thống nhất, bên cạnh những công
việc quan trọng khác, Trung ương Đảng rất quan tâm đến việc tiến hành
cải tạo công thương nghiệp tư bản ở miền Nam.
Từ tháng 4/1977, với tư cách là Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa
Trung ương, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã khẳng định rõ quan điểm:
“Vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh là cần thiết vì muốn
đưa nền kinh tế phát triển thì nhất thiết phải tổ chức sắp xếp lại bộ máy,
thay đổi cơ cấu. Nhưng không phải ai cũng cải tạo. Đảng chủ trương chỉ
quốc hữu hóa những cơ sở trước đây phục vụ cho chiến tranh và chỉ cải
tạo những tư sản mại bản đã làm giàu bất minh do quyền lợi họ gắn liền
với guồng máy chiến tranh xâm lược của Mỹ. Còn những thành phần
khác: tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ thì Đảng luôn luôn khuyến
khích hỗ trợ cho họ phát triển sản xuất, xây dựng đất nước”.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, trên cương vị Bí thư
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã kiên trì
xuống cơ sở, gặp gỡ cán bộ và nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng,
thắc mắc của nhân dân. Đồng chí Nguyễn Văn Linh nhận thấy rằng một
số chính sách kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế của ta khi đó đã lỗi thời,
chậm sửa chữa, làm giảm sút nhiệt tình lao động của quần chúng, tạo khe
hở để phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, làm cho tình hình sản xuất bị
sa sút, đình trệ; có lúc, có nơi xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược”, gây ra nhiều thiệt hại.
Khi được Trung ương phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy thành
phố Hồ Chí Minh lần thứ hai, tháng 12/1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh
và tập thể lãnh đạo thành phố đã chú trọng đẩy mạnh tổng kết thực tiễn,
rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá, kiên quyết sửa đổi và điều
chỉnh kịp thời. Đồng chí nói: “Trả về cho sản xuất sự vận hành đúng quy
luật của nó”. Và muốn sản xuất “bung ra” thì các doanh nghiệp phải được
giao quyền tự chủ, phải phá bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp.
Sau khi nắm bắt tình hình, đồng chí quyết định xây dựng mô hình thí
điểm, nơi được chọn là Xí nghiệp Dệt Thành Công, rồi đến Công ty
Lương thực thành phố... Sản phẩm của các đơn vị này làm ra không chỉ
Nhà nước bao tiêu mà còn được bán tự do trên thị trường theo giá bảo
đảm kinh doanh.
Qua nghiên cứu khảo sát thực tế, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã chỉ
rõ: “Thực tế đã chứng minh rằng trong cuộc đấu tranh giằng co giữa cái
mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và lạc hậu, những cái phù hợp quy luật, có


sức sống thường xuất hiện ở cơ sở, ở những nơi khó khăn, phức tạp
nhất”.
Đồng chí đã đề nghị Thành ủy cho phép nhân rộng điển hình, đồng thời
mở rộng cơ chế tự chủ ra nhiều xí nghiệp, nhiều loại hình sở hữu khác

nhau, cũng như phát triển ra ngoài phạm vi thành phố bằng việc liên hợp,
liên kết với các xí nghiệp của tỉnh bạn và các xí nghiệp của Trung ương,
bước đầu tính đến việc mở rộng quan hệ kinh tế, làm ăn với nước ngoài...
Đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng đồng ý về việc thành lập Câu lạc bộ
giám đốc - một hình thức sinh hoạt diễn đàn nhằm trao đổi kinh nghiệm
tổ chức, quản lý, sản xuất kinh doanh. Tháng 7/1983, đồng chí Nguyễn
Văn Linh đã tổ chức cho một số giám đốc các xí nghiệp năng động, sản
xuất kinh doanh có hiệu quả được gặp gỡ, báo cáo trực tiếp với các đồng
chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước về tình hình sản xuất kinh
doanh và đề đạt nguyện vọng của cơ sở mình.
Qua nghe báo cáo và trực tiếp đi thực tế cơ sở, các đồng chí lãnh đạo
chủ chốt của Trung ương đã thêm quyết tâm xóa bỏ cơ chế cũ, dứt khoát
thực hiện đổi mới cơ chế. Đây chính là bước tổng kết thực tiễn rất quan
trọng có thêm cơ sở vững chắc để Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới trên lĩnh vực
kinh tế. Một bước ngoặt mới đã mở ra cho cách mạng Việt Nam, trong đó
có phần đóng góp tích cực, hiệu quả của đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh cùng một số tỉnh, thành, quan điểm
về xây dựng một nền kinh tế hàng hóa với cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, xóa bỏ phương thức quản lý hành chính bao cấp của đồng chí
Nguyễn Văn Linh đã hình thành rõ dần.
Sau đó, chương trình Tổng Bí thư thăm các cơ sở kinh tế, có cả cơ sở
tư nhân dệt lụa ở quận Đống Đa, các hộ gia đình và tập thể sản xuất gốm
sứ Bát Tràng, huyện Gia Lâm... Đồng chí cho rằng: “làm kinh tế thị
trường mà không có thị trường là bế tắc”.
Do đó, các cơ sở quốc doanh, trước hết là các giám đốc phải năng
động, làm quen với thị trường, làm ra hàng hóa hợp thị hiếu người tiêu
dùng, lấy chất lượng cao và giá thành hạ làm mục tiêu phấn đấu để tồn tại
và phát triển. Đồng chí gợi ý việc mở rộng xí nghiệp cổ phần để huy động
vốn và tạo điều kiện cho mọi công nhân có cơ hội tham gia quản lý, làm

chủ nhà máy.
Nhờ phương hướng đổi mới do Đại hội VI đề ra, tình hình kinh tế xã hội đã mở ra một bước mới, kinh tế có phát triển, không khí xã hội cởi
mở hơn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Năm 1986 lạm phát lên mức ba


con số, nhiều xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp
đình đốn, thua lỗ, có nơi phải đóng cửa, đời sống công nhân, người lao
động gặp rất nhiều khó khăn.
Tình trạng một bộ phận cơ sở sản xuất vẫn còn “lời giả, lỗ thật” diễn
ra khá phổ biến. Công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu còn lỏng
lẻo, tạo kẽ hở cho những tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp, tiêu cực nảy
sinh... gây mất lòng tin của nhân dân.
Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng với Bộ
Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương quyết tâm thực hiện đổi mới
kinh tế theo đường lối Đại hội VI đề ra. Tập trung sức đẩy mạnh ba
chương trình kinh tế lớn, lấy sản xuất làm gốc; chấn chỉnh bộ máy tổ
chức cho gọn nhẹ, bỏ bớt tầng nấc trung gian; chấn chỉnh khâu lưu thông
- phân phối, cung ứng, dịch vụ; tích cực đấu tranh chống tiêu cực.
Với việc coi trọng tổng kết thực tiễn, nắm vững và vận dụng tư tuởng
HCM, đổi mới từng bước, từ sau Đại hội VI của Đảng, kinh tế nước ta
từng bước thoát khỏi khó khăn, vươn lên, đời sống mọi mặt của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Cùng với nhiều cống hiến khác, Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh đã để lại nhiều đóng góp quan trọng trên lĩnh vực lãnh
đạo, chỉ đạo đối với những bước phát triển của nền kinh tế nước nhà, tạo
nên thành quả nổi bật, để lại ấn tượng sâu đậm trong đồng bào, đồng chí
cả nước.
IV/ VN trước đổi mới năm 1986
Từ sau năm 1945, đặc biệt là trong thời kỳ khôi phục kinh tế ở
miền Bắc, những tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng ta
vận dụng vào thực tiễn một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo. Có thể nói,

trong suốt giai đoạn từ năm 1955 đến 1960, miền Bắc thực sự bước vào
“thời kỳ vàng son“ của quá trình khôi phục và phát triển kinh tế. Những
thành tựu kinh tế thu được trong thời kỳ đó là toàn diện và vững chắc;
chất lượng, tốc độ và năng suất lao động đều vượt xa so với trước chiến
tranh (năm 1939) và mấy thập kỷ sau đó. Đó chính là thắng lợi của đường
lối phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Nó trở thành nguồn động lực to lớn thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển của sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân, tạo cơ sở vật chất làm nền tảng cho quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.


Ở đây, Hồ Chí Minh đã thấy rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại
khách quan và vẫn có tác dụng quan trọng đối với sản xuất. Song, cũng
do hoàn cảnh khách quan quy định, việc cải tạo các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa cần phải được tiến hành từng bước. Theo quan
điểm của Người, việc thực hiện nhiệm vụ quan trọng đó không thể tiến
hành một cách nóng vội, mà phải tuân thủ các nguyên tắc: từng bước,
vững chắc và hoàn toàn tự nguyện; phải quán triệt phương châm cải tạo
để sử dụng và sử dụng để cải tạo.
Vậy nhưng, đáng tiếc là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
có những lúc việc cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế nói chung và
sử dụng các thành phần kinh tế nói riêng vẫn còn được tiến hành một
cách máy móc, rập khuôn theo kinh nghiệm của nước ngoài. Vì thế,
những tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
kinh tế trong thời kỳ quá độ chưa được nhận thức đầy đủ và vận dụng
sáng tạo vào thực tiễn.
IV.1/ Tình hình kinh tế Việt Nam 1976 – 1986:

1. Chủ trương, đường lối của Đảng:

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, nước Việt Nam
thống nhất. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động
Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình, gồm cả tình
hình kinh tế. Ông thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và
của thị trường tự do ở miền Nam. Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần
thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III,
ông đã phát biểu:
“Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hóa ngay lập tức. Nhưng miền
Nam bây giờ không thể làm như vậy... Phải có tư sản, phải cho nó phát
triển phần nào đã... Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để
mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu
này... Xưa nay ở miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi
sai quy luật. Nếu chúng ta đi sai quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng
sai lắm.


Tuy nhiên, đa số Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc ấy muốn áp
dụng mô hình kinh tế của miền Bắc cho miền Nam.
Từ đó, Hội nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản,
cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng
hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và
thương nghiệp nhỏ.
Tiếp theo, Đại hội Đại biểu Toàn quốc của Đảng Lao động Việt
Nam được tổ chức vào tháng 12 năm 1976. Tại đây, Đại hội quyết nghị
đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đổi tên Đảng
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên cả nước. Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội là:
-


Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Sản xuất lớn có
nghĩa là nền kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô
lớn, huyện trở thành pháo đài kinh tế-xã hội, các tỉnh được sáp
nhập lại còn 29 tỉnh. Còn sản xuất xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh
tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh
(trong công và thương nghiệp) và tập thể (trong nông nghiệp với hợp tác xã cấp cao là nòng cốt). Để thực hiện được sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: quan
hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, và văn hóa tư tưởng. Cách mạng
quan hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải tạo các thành phần kinh
tế tư nhân, cá thể, biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể - gọi chung là cải tạo xã hội chủ nghĩa.

-

Thứ hai, làm chủ tập thể. Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo
mà rất ít người hiểu, kể cả các nhà triết học.

-

Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đây là mô hình
chung ở các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam nó được thực hiện
theo một công thức do Lê Duẩn sáng tạo, đó là: Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Tại Đại hội IV,
đường lối này được thể hiện bằng chủ trương tiến hành kế hoạch


phát triển kinh tế 5 năm 1976-1980. Theo kế hoạch do Đại hội IV
định hướng, sản xuất xã hội sẽ tăng bình quân hàng năm 14-15%,
thu nhập quốc dân tăng 13-14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
tăng 8-10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5–8%, lương thực

quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt
1 triệu tấn.
-

Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính
của tăng trưởng và phát triển kinh tế.

-

Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại.

Như vậy, những tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ chưa được nhận thức đầy
đủ và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn. Đặc biệt, từ sau năm 1975, khi
miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất và cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội, những tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai
đoạn, muốn nhanh chóng hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
nhằm mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất… biểu hiện rất
rõ qua cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Ở
miền Nam, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư sản công thương
nghiệp, nông nghiệp được triển khai ồ ạt và hoàn thành trong một thời
gian ngắn; ở miền Bắc, hình thức hợp tác xã nông nghiệp bậc cao được
mở rộng về quy mô và số lượng, công nghiệp nặng được ưu tiên tập trung
đầu tư… Tuy nhiên, trên thực tế, những “nỗ lực” đó đã không mang lại
kết quả như mong muốn. Thể hiện như sau:


2. Cơ chế quản lí kinh tế:
Kế hoạch hoá tập trung với những đặc điểm sau:
-


Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh
hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ
trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh


được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền
vốn; định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương... đều
do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế
hoạch cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao
nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước
thu.
-

Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu
trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết định của
mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định của cơ quan hành
chính gây ra thì ngân sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh
nghiệp không có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, cũng không bị
ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất, kinh doanh.

-

Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan
hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ
"cấp phát - giao nộp". Vì vậy, rất nhiều hàng hóa quan trọng như
sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng
không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.


-

Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém
năng động, vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, phong cách
cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn
người lao động.

3. Thực tiễn tình hình kinh tế:
Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà
nước Việt Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ
yếu. Nhà nước xem thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản dẫn đến
không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn
nhanh chóng xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế
rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng vì Việt Nam sao chép mô hình kinh
tế kế hoạch của Liên Xô mà không thật sự hiểu rõ ưu điểm và nhược


điểm của mô hình này, không đủ năng lực quản lý kinh tế để phát huy ưu
điểm và hạn chế nhược điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hiểu đơn giản
xây dựng chủ nghĩa xã hội là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sau đó phát
triển kinh tế theo kế hoạch. Chính tư duy đơn giản đó dẫn họ đến thất bại.
Hơn nữa nội lực của Việt Nam quá yếu nên mô hình kinh tế kế hoạch hóa
cũng không thể nào phát huy được tác dụng tập trung nội lực để đầu tư
phát triển.
Trong thời kỳ từ 1976 – 1980, thu nhập quốc dân của cả nước chỉ
tăng 0,4%, mức tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,2%/năm; chế độ tập trung
quan liêu bao cấp đã làm xơ cứng nền kinh tế, thành phần kinh tế quốc

doanh và tập thể gần như không còn động lực thúc đẩy, kinh tế tư bản và
cá thể sớm bị xóa bỏ hoặc suy thoái. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng gay gắt và do vậy, các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội cũng trở nên hết sức khó khăn.
a. Bao cấp:
Bao cấp qua giá và số lượng hàng hóa, tem phiếu
Công nhân lao động nặng được cấp 20 kg gạo mỗi tháng, trong khi
cán bộ công chức chỉ được có 13 kg. Do gạo ít nên thường ăn độn
thêm ngô, khoai, sắn, bo bo, phần gạo do trung ương cấp còn phần độn do
địa phương phụ trách tăng gia thêm vào, như 13 kg gạo thì có 10 kg là
độn khoai, sắn...Cho dù có tiền, hàng hóa rất khan hiếm, mà dù có tem
phiếu người mua có thể sắp hàng vào mua nhưng đến lượt mình thì không
còn hàng, đành về tay không. Hàng hóa thì ngoài phẩm chất kém, lượng
hàng rất hạn chế, chỉ đủ dùng một thời gian ngắn, đến cuối tháng thì đã
cạn kiệt, phải mua ở chợ đen.
Ngoài hàng tiêu dùng, dưới thời bao cấp nhà nước còn nắm cả việc
phân phối nhà cửa. Tiêu chuẩn là mỗi người được 4 mét vuông. Những
khu nhà tập thể giống như ở Liên Xô được xây lên trong thành phố và cấp
cho cán bộ trung cấp và công nhân nhưng quản lý kém khiến khu đất
công cộng bị lấn chiếm khiến khó nhận ra đâu là của chung, đâu là của
riêng. Nhà cửa hư hỏng thì có Sở nhà đất lo sửa. Đời sống trong những
khu tập thể này càng tồi tệ với việc chăn nuôi gia súc trong những căn hộ
chật hẹp, mất vệ sinh. Đây cũng là một khía cạnh của thời bao cấp trong


thành phố. Giá nhà ở các thành phố tương đối rẻ, nhưng công nhân viên
chức vẫn không mua nổi vì thu nhập quá thấp.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Không có chế tài ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị
được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách, vừa

làm cho việc sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế "xin - cho".
(1) kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nếu
tính chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình
quân hàng năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình
quân hàng năm chỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ dân số tăng trung bình hàng
năm 2,3%;
(2) không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu
nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng;
(3) siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số
giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và
giao động ở mức 19-92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ
tăng giá 774,7%;
(4) đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn.
b. Nông nghiệp:
Giai đoạn 1976-1980
Tuy có nhiều cố gắng nhưng giai đoạn này đã không đạt được các
chỉ tiêu đã đề ra.
Sản lượng lúa năm 1976 đạt 11,827 triệu tấn, giảm dần đến năm
1978 chỉ còn 9,79 triệu tấn. Năm 1976, sản lượng lúa bình quân trên một
người dân là 211 kg thì đến năm 1980 chỉ còn 157 kg. Kế hoạch năm năm
1976-1980 nâng tổng sản lượng lúa lên gần gấp đôi vào khoảng 21 triệu
tấn, nhưng đến năm 1980 chỉ đạt 14,4 triệu tấn, tức đạt 68,5% kế hoạch.


Chăn nuôi heo đạt 58,5% kế hoạch, thủy sản đạt gần 40%, khai
thác gỗ tròn đạt 45%, trồng rừng đạt 48%.
Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu lương thực, phải nhập khẩu và
nhận viện trợ lương thực từ các nước cộng sản đồng minh, từ Liên hiệp
quốc cũng như từ phương Tây. Việt Nam đứng bên bờ vực của nạn đói và
sẽ chết đói nếu mất mùa trên diện rộng.

Giai đoạn 1981-1985
Phong trào hợp tác xã cưỡng ép, thực hiện một cách vội vã dẫn đến
70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc loại trung bình và yếu kém, nhiều
hợp tác xã tan rã, nông dân bỏ ruộng, không thiết tha với sản xuất nông
nghiệp. Ở một số địa phương, có hợp tác xã đã khoán đến hộ gia đình với
các hình thức khác nhau.
Cuối thập niên 1970, nông nghiệp Việt Nam sa sút nghiêm trọng:
năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm, sản xuất không đủ tiêu
dùng. Thu nhập và đời sống nông dân giảm sút.
Trước tình hình nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu lương
thực của quốc gia, từ những thí điểm hình thức khoán trong nông nghiệp
ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh năm 1981 Đảng Cộng sản Việt Nam
ban hành Chỉ thị 100-CT/TW - mở rộng hình thức khoán trong nông
nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp, tạo đà cho phát triển và đem lại
hiệu quả rõ rệt, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1985 đạt 18,2
triệu tấn lương thực.
c. Công nghiệp:
Tính cả thời kỳ, tốc độ tăng bình quân chỉ có 0,6%/năm do đó tất
cả các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không
đạt. Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu công nghiệp của kế hoạch 5 lần II
(1976-1980): giá trị sản lượng cơ khí đạt 80%; sản lượng điện là 3.680
triệu kWh, đạt 73,6%; than đạt 52%; khai thác gỗ tròn là 1,577 triệu m 3,
đạt 45%; vải mặc là 182 triệu mét, đạt 40,4%; đánh bắt cá biển là 399
ngàn tấn, đạt 39,9%; giấy, bìa là 48,3 ngàn tấn, đạt 37%; xi măng đạt 641
ngàn tấn, đạt 32%; phân bón hoá học 367 ngàn tấn, đạt 28%; sản lượng


thép là 62,5 ngàn tấn, đạt 25%.
d. Thương nghiệp:
Chủ trương tiêu diệt tư sản mại bản

Chiến tranh ở biên giới Tây – Nam và phía Bắc
Nguồn viện trợ bị cắt dần
Thiên tai, bão lũ
Quản lý thương mại vẫn mang nặng tính chất quan liêu bao cấp, tỏ
ra kém hiệu quả
 Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 2 (1976- 1980) đạt mức thấp,

quỹ hàng hoá của nhà nước không đáp ứng nhu cầu, nhiều mặt
hàng thiết yếu chỉ bảo đảm cung cấp được khoảng 50% tiêu
chuẩn định lượng được phân phối bằng tem phiếu. Đối với hàng
tiêu dùng bán lẻ cung cấp, thương nghiệp quốc doanh đã trở
thành kho hàng phân phối theo định lượng, ngân sách phải bù lỗ
nặng nề.
 Hoạt động xuất nhập khẩu trì trệ, cán cân thương mại bị thâm

hụt nặng nề kéo dài. Cơ chế thu bù chênh lệch ngoại thương đã
làm cho ngân sách nhà nước bù lỗ xuất khẩu ngày một tăng lên.
Mức giá trong nước đối với hàng nhập khẩu thấp hơn giá vốn vì
vậy nhà nước phải hạn chế các nhu cầu nhập khẩu thiết bị, vật
tư nguyên liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu cho phát triển kinh tế
xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, mà ở thời kỳ này, hầu hết
các mặt hàng cung ứng cho thị trường trong nước phải thông
qua nhập khẩu.
Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, có địa phương đã thực hiện thí
điểm mô hình theo cơ chế: “mua cao, bán cao” thay cho “mua cung, bán
cấp”; bù giá vào lương. Tuy nhiên, vẫn có khuynh hướng muốn quay lại
với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12/1983)
vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những



nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã hội, và chủ trương
phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.

➔ Như vậy, thực chất của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các

thành phần kinh tế ở miền Nam cũng như trong cả nước là nhằm xóa bỏ
chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu. Đành rằng, những người
cộng sản muốn xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa thì lẽ đương nhiên
là phải xoá bỏ chế độ tư hữu. Mác đã từng khẳng định: "những người
cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành công thức duy nhất này:
xoá bỏ chế độ tư hữu". Tuy nhiên, việc xoá bỏ chế độ tư hữu nhằm
chuyển mọi tư liệu sản xuất vào trong toàn xã hội là mục tiêu rất lâu dài
và phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phải nhằm
phục vụ việc phát triển sản xuất.
Việc tiến hành cải tạo một cách ào ạt các thành phần kinh tế phi
xã hội chủ nghĩa, cũng như việc quá coi trọng thay đổi quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất mà không coi trọng việc giải quyết các khâu tổ chức,
quản lý sản xuất và phân phối đã dẫn tới việc thất bại:
- Tính chủ động, sáng tạo của người lao động bị giảm đi vì mọi tư
liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội phải được sử dụng theo phương
hướng và nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước.
-

Tư liệu lao động từ chỗ là tài sản riêng của người lao động bỗng
chốc trở thành những tư liệu được tập thể hoá nên đã làm suy yếu
đi một lực lượng sản xuất to lớn, lợi ích cá nhân không được coi
trọng đúng mức, hay nói như lời của một số nhà nghiên cứu: "ở
nước ta trước đây (thời kỳ trước đổi mới), lợi ích kinh tế, đặc biệt
là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt
động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động

của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động".

V/ Đổi mới sau năm 1986 - thời kỳ quá độ lên XHCN ở Việt Nam

Đổi mới

Trước 1986

Sau 1986


1

Chế độ sở hữu: Từ Quốc doanh hóa tất cả
thuần nhất công tư liệu sản xuất
hữu – Nhiều thành
phần sở hữu
Duy trì các công ty
nhà nước – coi đó là sự
chủ đạo của nền kinh
tế quốc dân

Đa dạng trong chế độ
sở hữu gồm :
Sở hữu toàn dân + tập
thể: nền tảng
Sở hữu tư nhân

Thủ tiêu sở hữu tư Tạo nhiều điều kiện
nhân và các thành cho các thành phần

phần kinh tế tương ứng kinh tế: nhà nước, tập
thể, cá thể, tiểu chủ, tư
Tư duy làm chủ tập bản nhà nước, có vốn
thể, bao cấp bao trùm đầu tư nước ngoài
hầu hết, Cá nhân,
HGĐ không có quyền Khôi phục, mở rộng
sở hữu về đất đai và quyền sở hữu của công
chỉ có quyền sử dụng dân, nhất là TLSX.
khai thác đất, chuyển Được quyền tự do kinh
nhượng tài sản trên đất doanh
Có cơ sở pháp lý thu
hút công dân tham gia
HĐ kinh tế, khuyến
khích làm giàu
Tài sản hợp pháp
thuộc hình thức sở hữu
tư nhân không bị hạn
chế về mặt giá trị, số
lượng, được bảo vệ

2

Mô hình kinh tế : Chức năng quản lý NN Chức năng quản lý của
Kế hoạch hóa tập bằng mệnh lệnh hành NN
trung – Nền kinh chính, can thiệp quá


tế thị trường định sâu vào sản xuất kinh
hướng XHCN
doanh

Yếu tố sản xuất do NN
độc quyền quyết định,
theo 1 kế hoạch thống
nhất từ TW
Công cụ quản lý
Cơ sở sản xuất chấp
hành thụ động, giá cả
cố định thời gian dài
Biến người lao động
trở thành người làm
thuê

Tách chức năng quản
lý kinh tế – chủ sở hữu
DN – kinh doanh của
DN
Cụ thể  Tổng thể
Trực tiếp Gián tiếp
Có khung pháp lý cho
tự do kinh doanh phát
triển kinh tế nhiều
thành phần
Công cụ quản lý:

“Chia đều sự nghèo
khổ cho tất cả mọi
người”
Nông nghiệp: là chủ
yếu, lạc hậu, ít được
đầu tư, ưu tiên Công

nghiệp nhất là công
nghiệp nặng
Loại bỏ thương nghiệp
tư nhân, hạn chế, thủ
tiêu mua bán, vận
chuyển tự do hàng hóa
trên TT
Phân phối hàng hóa
theo tem phiếu, lương
thực theo đầu người
“Sổ gạo”

Hiện vật  giá trị
Chi tiết  định hứơng
Công cụ tài chính có
hệ thống thuế mới
Tiền tệ:
NHTM

NHNN

+

Giá cả: cơ chế hình
thành giá mới, trả chức
năng định giá cho thị
trường
Có khung pháp lý cho
TT LĐ, cho TT BĐS
Ngoài ra: thúc đẩy

giao lưu kinh tế trong


và ngoài nước, xoá bỏ
ộc
quyền
ngoại
thương;
thúc
đẩy
chuyển giao công nghệ

Hàng hóa và dịch vụ
3 Nền kinh tế nặng được trao đổi trực tiếp
tính hiện vật – nền để lấy hàng hóa và
kinh tế hàng hoá
dịch vụ khác
Mục đích sản xuất:
phục vụ cho nhu cầu
của chính người sx

Hình thái phổ biến là
sản xuất hàng hóa để
bán, để trao đổi trên
TT
Mục đích sản xuất:
Nền kinh tế hàng hóa:
người sx sx hàng hóa
để đem trao đổi trên
TT, là giá trị, là lợi

nhuận, không phải giá
Đổi mới phương thức trị sử dụng
trao đổi: H-H
Đổi mới trong phương
Biến hình thức tiền thức trao đổi: T-H-T
lương thành lương (tiền – hàng – tiền)
hiện vật

4

Nền kinh tế đóng - Bị bao vây, cô lập về Thực hiện chính sách
mở
đối ngoại => Không mở cửa, đa dạng hóa,


với XNK
Mất viện trợ từ nước
ngoài, đặc biệt từ Liên
Bang Xô Viết
Nền kinh tế mang đậm
bản sắc nông dân –
nông nghiệp
Nhiệt tình lao động,
năng lực sáng tạo, tài
nguyên, các nguồn lực
chưa được khai thác,
chưa phát huy đầy đủ,
bị xói mòn
Nền kinh tế mất cân
đối trầm trọng

Lâm vào khủng hoảng
gay gắt

đa phương hóa các
HĐKT
Cải cách ngoại thương
Xóa bỏ nguyên tắc nhà
nước độc quyền ngoại
thương
Cho phép mọi thành
phần kinh tế được
phép kinh doanh XNK
Cải các chính sách tỷ
giá
Tạo điều kiện thuận lợi
để tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài
đặc biệt là FDI
Ban hành và sửa đổi
bổ sung luật đầu tư
nước ngoài
Tạo môi trường kinh
doanh, đầu tư thuận lợi
Chủ động tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế

V.1/ Thành tựu
Trong 5 năm đầu sau chế độ bao cấp bị xóa bỏ, nền kinh tế rơi vào
tình trạng bất ổn, bình quân 3,9%/năm riêng năm 1986 là 0,3%/năm, lạm
phát cao kéo dài. Đến đầu thập kỉ 90, nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn

định kéo dài, hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991 – 1995.
Thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
năm 1986 – 1988 lạm phát tăng tới 3 con số, năm 1989 đã dần được
chặn lại. Năm 1990 là 67,4%; 1995 là 12,7%, đến năm 1999 chỉ còn
0,1%. Trong khi tốc độ tăng trưởng vẫn khá cao.
Trong nông nghiệp, phát triển toàn diện cả về trồng trọt, chăn nuôi,
nghề rừng, thủy sản; giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia,


sản lượng lương thực tăng nhanh, bình quân 5%/năm. Từ một nước thiếu
lương thực trước năm 1989 trở thành nước xuất khẩu lương thực đứng
thứ 2 thế giới. Ngoài ra còn hình thành những vùng trọng điểm sản xuất
lương thực – thực phẩm, tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm 40%
tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Đồng thời, hình thành 1 nền nông nghiệp
hàng hóa gắn liền với thị trường quốc tế.
Trong công nghiệp, tăng trưởng liên tục với tốc độ 2 con số, đáp ứng
nhu cầu sản xuất, đời sống nhân dân và xuất khẩu. Hoàn thành công
trình lớn: thủy điện Hòa Bình, Trị An, Yaly,..điện lưới quốc gia phủ tới
60% số hộ nông thôn. Hệ thống giao thông, bưu điện được xây mới và
nâng cấp tới cả nước. Hoạt động thương mại và dịch vụ khởi sắc: hàng
hóa ngày càng nhiều, chất lượng cao, giả ổn định, mua bán thuận tiện.
Trong kinh tế đối ngoại, về quan hệ hợp tác song phương, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới,
mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường
của các nước và vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định
chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song
phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó
có 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước trong

nhóm G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối
tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược
với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Anh, Tây Ban Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước
ngoài cũng tăng lên (91 cơ quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự
quán, 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng
kinh tế văn hóa.
Về hợp tác đa phương và khu vực, Việt Nam đã có mối quan hệ
tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển
Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng
việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết
các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham


gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được
coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập
Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết
nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có
một bước đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau
11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này.
Đầu thập kỉ 90, trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân,
được cải thiện rõ rệt. Giải quyết việc làm và thu nhập cho người dân,
GDP đầu người 400USD/năm. Số người đi học, biết chữ tăng nhanh, HDI
– Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tăng nhanh.
V.2/ Kết luận

Từ đó có thể thấy vai trò quan trọng của Nguyễn Văn Linh từ việc
tổng kết thực tiễn, nắm vững và ứng dụng tư tưởng HCM về chủ trương
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nuớc ta trong thời kỳ quá độ lên
XHCN. Đó là mang khởi xướng mang một tư tưởng nghĩa ra phải được
ứng dụng từ lâu ở nước ta là tư tuởng HCM trở lại ứng dụng mang lại
thành tựu lớn ở thời điểm đó và là hướng đi lớn trong tương lai Việt Nam
ki quá độ lên XHCN. Nếu không có điều này có lẽ nước ta sẽ mãi loay
hoay trong nền kinh tế trì chệ, xã hội kém phát triển,.. và không thể độc
lập đi trên con đuờng của riêng Việt Nam mà mãi phụ thuộc vào nước
ngoài. Đồng thời có thể khẳng định về tính đúng đắn của tư tưởng HCM
về phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
XHCN.



×