Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn quận 1, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.72 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN DŨNG

CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN DŨNG

CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số

: 83.801.04



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Phùng Thế Vắc. Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận
văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Dũng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy ................................................................................................................................7
1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ............7
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy ............................................................................................................................. 10
1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép

chất ma túy ................................................................................................................12
1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy .............. 12
1.2.2. Giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ................. 22
1.3. Các hoạt động chứng minh cụ thể trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy .24
1.3.1. Thu thập chứng cứ.......................................................................................... 25
1.3.2. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ ...................................................................... 30
1.4. Ý nghĩa của việc chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ....... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 ............................................... 38
2.1. Những kết quả đạt được .....................................................................................38
2.2. Hạn chế về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy của cơ quan
tiến hành tố tụng ........................................................................................................43
2.3. Nguyên nhân của hạn chế ................................................................................. 49
2.3.1. Nguyên nhân từ những quy định của pháp luật ............................................. 49
2.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh ............................ 52
2.3.3. Nguyên nhân khác .......................................................................................... 54


Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI
PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............58
3.1. Dự báo ................................................................................................................58
3.2. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng chứng
minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại Quận 1 ....................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

MBTPCMT

Mua bán trái phép chất ma túy

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

THTT


Tiến hành tố tụng

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKS

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy và bị can bị khởi tố - số liệu từ
năm 2013 đến năm 2017...........................................................................
Bảng 2.2. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy Viện kiểm sát truy tố và Tòa án
đưa ra xét xử từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.3. Số vụ án Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 trả hồ sơ cho CQĐT để điều
tra bổ sung từ năm 2013 đến năm 2017 ..............................................................
Bảng 2.4. Số vụ án TA trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS từ năm 2013 đến năm
2017



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chứng minh trong vụ án hình sự (VAHS) đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy (MBTPCMT) là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, tính thực tiễn
đồng thời có tính quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự đối với tội
MBTPCMT. Việc hiểu rõ và nhận thức đúng về quá trình chứng minh trong vụ án
MBTPCMT sẽ đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
(CQTHTT) được khách quan, chính xác, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Quá trình chứng minh trong VAHS gồm nhiều bước như thu thập, và đánh giá,
sử dụng chứng cứ. Thu thập chứng cứ làm cơ sở cho việc chứng minh các đối tượng
cần chứng minh trong vụ án hình sự, nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về
trách nhiệm của các CQTHTT. Quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan
hệ giữa một bên là Nhà nước một bên là người phạm tội, Nhà nước với tư cách là
chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quyết định hành vi nào là phạm tội
đồng thời buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi bằng bản án của TA (TA) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Để kết án một người là có tội và phải chịu chế tài hình sự tương ứng với
hành vi gây ra thì phải chứng minh hành vi của họ là phạm tội, theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam thì “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các CQTHTT”. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT là
một phần của nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật TTHS Việt
Nam. Trên thực tiễn, việc thực thi nguyên tắc trên của các chủ thể có trách nhiệm
chứng minh tội phạm trong VAHS còn nhiều vấn đề tồn tại, trong thời gian vừa qua
trách nhiệm của CQTHTT thực hiện chưa tốt, còn nhiều vụ án oan sai dẫn đến mất
lòng tin của nhân dân vào pháp chế Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ
thống về mặt lý luận, thực tiễn về trách nhiệm chứng minh tội phạm của từng
CQTHTT, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất
những phương hướng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các CQTHTT trong
1



quá trình chứng minh tội phạm, bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án là
vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi pháp luật để
bảo đảm quyền con người và tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu để áp dụng quy định của pháp luật vào quá trình
thực hiện chứng minh trong vụ ánMBTPCMT của các CQTHTT ít được quan tâm
nghiên cứu. Bên cạnh đó, thời gian qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định
về vấn đề này ở chừng mực nào đó còn chưa cụ thể và chặt chẽ. Mặt khác, trong
thực tiễn áp dụng pháp luậtcòn nhiều vấn đề chưa thống nhất về nhận thức, thậm chí
có những quan điểm trái nhau. Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội phạm ma túy ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhhiện nay vẫn còn phức tạp;
trong thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh
đã thực hiện tốt việc chứng minh đối với tội này, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đảm
bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình an
ninh, kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án mà các
CQTHTT chưa chứng minh triệt để, còn nhiều sai sót, dẫn đến việc điều tra, truy tố,
xét xử không đúng người, đúng tội và nhiều trường hợp để lọt tội phạm, bị TA trả
điều tra bổ sung nhiều lần từ đó cho thấy việc nhận thức và áp dụng pháp luật về
chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT còn nhiều bất cập. Từ đó cho thấy,
việc nhận thức và áp dụng pháp luật về quá trình chứng minh trong vụ án
MBTPCMT của một số chủ thể tố tụng hình sự chưa được triệt để, trong khi đó việc
nghiên cứu quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở nước ta là một nội
dung quan trọng có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và thực tiễn, làm cho hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm MBTPCMT đạt hiệu quả cao, giúp cho các
CQTHTT trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh làm rõ sự thật khách quan
của vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng được yêu cầu của chính quyền
địa phương. Chính vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Chứng minh trong
vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ

thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chứng minh trong vụ ánMBTPCMT đã được khá nhiều công trình nghiên
cứu trước đây đề cập, đáng chú ý là các công trình sau đây:
- Nguyễn Văn Du (2006), Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội
- Mạc Thị Duyên (2012), Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
- Nguyễn Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội
- Vũ Ngọc Hà (2013), Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
- Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
Những tác giả kể trên chủ yếu tiếp cận nghiên cứu ở góc độ khái quát nhất
hoặc dưới góc độ so sánh nó với các tội phạm khác trong chương các tội phạm về
ma túy, chưa cập nhật những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS năm 2015), bên cạnh đó chưa có một công trình nào đảm bảo được tính
logic, hệ thống, sâu sắc, toàn diện về chứng minh trong vụ án MBTPCMT theo
pháp luật TTHS Việt Nam.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án MBTPCMT trên địa bàn Quận
1, Thành phố Hồ Chí minh đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chứng minh trong VAHS đối với
tội MBTPCMT cụ thể tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói
chung. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện Bộ luật hình

sự (BLHS) vàBộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam, trên cở sở đó tạo nền
tảng cho các CQTHTT khắc phục thiếu sót nhằm áp dụng pháp luật chính xác, xử lý
công minh đảm bảo công bằng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết
3


49 của Bộ Chính trị, cũng như đáp ứng công tác phòng ngừa tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, luận văn nghiên cứu làm rõ một cách toàn diện và có hệ
thống dưới góc độ lý luận và thực tiễn của chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT; làm sáng tỏ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận, hạn chế sai
sót khi giải quyết các vụ án MBTPCMT; làm rõ cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý của
quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMTtheo tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ ra những nguyên nhân thiếu sót đã
mắc phải, từ đó đưa ra những giải pháp khả thi để hoàn thiện việc chứng minh trong
vụ án MBTPCMT ở Quận 1 nói riêng, Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, quá trình nghiên cứu luận văn giải quyết một
số nhiệm vụ như: Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về quá trình chứng minh trong
VAHS đối với tội MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ hai,đánh
giá thực trạng quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT của các
CQTHTT của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.Thứ ba, đề
xuất một số giải pháp trong quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các CQTHTT và những người
tiến hành tố tụng trong chứng minh đối với tội MBTPCMT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu lý luận cơ bản về chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT và thông qua một số vụ án tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhđể làm
sáng tỏ những ưu điểm cũng như vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án
liên quan đến tội phạm này.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận và thực tiễn, hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT rất đa
dạng và phong phú, gồm nhiều giai đoạn khác nhaunhư điều tra, truy tố, xét xử với
sự tham gia của nhiều chủ thể chứng minh tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử. Tuy nhiên trong phạm vi Luận văn
này, tác giả chỉ nghiên cứu thực tiễn hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT
ở giai đoạn truy tố với vai trò chính của VKS (VKS) theo pháp luật TTHS Việt
Nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 5 năm từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học luật
hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra… để tổng
hợp tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn giúp làm rõ những vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án
MBTPCMT như khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý; các hoạt động chứng

minh cụ thể trong giai đoạn truy tố trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này và việc
áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần phát triển lý
luận về chứng minh trong vụ án hình sự đối với tội MBTPCMT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng và đưa vào phân
5


tích các vụ án cụ thể, rút ra những vướng mắc thường gặp trong quá trình chứng
minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT, luận văn cũng có ý nghĩa như là một
nguồn tài liệu tham khảo cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp dụng pháp luật, nâng cao chất lượng hiệu
quả hoạt động trong hoạt động tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Môt số vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túy
Chương 2: Thực trạng chứng minh vụ án MBTPCMT trong giai đoạn truy tố
tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
chứng minh trong vụ án MBTPCMT tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất
ma túy

1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy
Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người. Hoạt động
chứng minh của con người được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có những nét khác nhau.
Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là việc chủ thể sử dụng những
phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một
vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Hiểu theo nghĩa chung nhất “tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội liên quan đến ma túy được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”. Và pháp luật hình sự và
khoa học pháp lý của nước ta đã cho rằng MBTPCMT thể hiện các hành vi cụ thể
là: Bán trái phép chất ma túy cho người khác; mua chất ma túy nhằm bán trái phép
cho người khác, vận chuyển chất ma túy để bán trái phép cho người khác; xin chất
ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; dùng chất ma túy để trao đổi, thanh
toán,... trái phép; tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép; dùng tài sản (không phải
là tiền) đem trao đổi, thanh toán... lấy chất ma túy để bán lại trái phép cho người
khác. Như vậy tất cả hành vi trên được xem là hành vi MBTPCMT, và người thực
hiện hành vi trên được xem là phạm tội MBTPCMT [34, tr. 6].
Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các
giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Khi có đủ căn cứ khẳng định có
dấu hiệu của tội phạm thì mới có thể khởi tố vụ án, và đó chính là căn cứ để tiến
hành các hoạt động điều tra. Kết quả điều tra chính là cơ sở để VKS quyết định truy
tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, đồng thời nó cũng là cơ sở để TA xét xử đúng người
7


đúng tội. Việc xác định sự thật vụ án còn phụ thuộc vào những tình tiết, chứng cứ
của vụ án đòi hỏi CQTHTT phải làm sáng tỏ.
Quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy rất quan trọng, luôn đòi
hỏi phải đảm bảo nhiều yếu tố mang tính nguyên tắc: Phải đảm bảo ngăn chặn kịp

thời hành vi phạm tội và tránh những hậu quả xảy ra cho cộng đồng; trừng trị đúng
tội và đúng mức độ nguy hiểm của người phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội hoặc xâm phạm những lợi ích hợp pháp của công dân, cải tạo
giáo dục người phạm tội thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, BLHS xác định rõ
những hành vi được xem là tội phạm MBTPCMT. Cùng với những quy định của
BLHS, việc phát hiện xử lý các tội phạm còn phải được tiến hành theo những thủ
tục và trình tự do BLTTHS quy định, trong đó các quy định liên quan đến quá trình
chứng minh VAHS chiếm một vai trò quan trọng và quyết định đòi hỏi cần có sự
tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giải quyết đúng đắn vụ
án. Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là hoạt động đặc thù đối với một loại tội
phạm cụ thể, đồng thời là phạm trù bao hàm rất nhiều hoạt động có nội dung liên
quan đến khoa học pháp lý tố tụng. Trong đó bao gồm việc sử dụng chứng cứ làm
phương tiện của việc chứng minh nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vụ án, bao gồm cả toàn bộ quá trình chứng minh (thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ), xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh,
giới hạn chứng minh và nghĩa vụ chứng minh đối với vụ án. Trong vụ án ma túy,
chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn về các vấn đề nêu trên, tránh nhầm lẫn giữa
các phạm trù trong chứng minh và sử dụng chứng cứ làm phương tiện chứng minh
một cách hiệu quả [34, tr. 8].
Quá trình chứng minh trong một vụ án bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
vụ án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các CQTHTT khác nhau như: Hoạt
động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động đó đều hàm
chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Trong TTHS, chứng minh là quá trình khôi
phục lại sự thật khách quan của vụ án, là quá trình nhận thức sự thật khách quan. Cơ
sở lý luận nhận thức của hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của
8


triết học Mác – Lênin. Lý luận nhận thức Mác – Lênin khẳng định rằng: Nhận thức
là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và

phát triển không ngừng tự không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện
tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật
của sự vật và hiện tượng [36, tr. 12].
Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp
luật liên quanchưa có định nghĩa cụ thể về chứng minh, cũng như quá trình chứng
minh trong vụ án MBTPCMT. Khi giải quyết các vụ án MBTPCMT, người tiến
hành tố tụng cần phải chứng minh những sự việc có liên quan đến hành vi phạm tội
để khẳng định chính xác hành vi phạm tội, người phạm tội và mức độ phạm tội. Để
đạt được mục tiêu này, các cơ quan điều tra về tội phạm ma túy phải dựa vào các
chứng cứ để chứng minh rõ tội phạm đã xảy ra, xác định lỗi của bị can, bị cáo, tức
là chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội và họ phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi phạm tội đó. Trên cơ sở những quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam và các văn bản pháp luật khác và thực tiễn có thể hiểu:
Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là quá trình mà các CQTHTT, người
tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về vụ án MBTPCMT. Để
đạt được điều này, CQTHTT phải thực hiện các biện pháp do pháp luật TTHS quy
định, làm sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong vụ án ma túy. Quá trình chứng minh vụ
án MBTPCMT phải tuân theo những quy tắc logic nhất định như việc nhận thức
mọi hiện tượng của hiện thực. Trước tiên cần phải thu thập tài liệu thực tế nhất định,
tiếp đến tài liệu đó phải được phân tích, làm sáng tỏ từng chi tiết cụ thể, từng mặt
của các sự kiện cần được nghiên cứu xem xét, sau đó đưa ra những kết luận khái
quát về các sự kiện đã được nghiên cứu. Chính từ quá trình đó mà chất lượng, giá trị
chứng minh của các thông tin được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm tội
dần được tái hiện như nó vốn có, các cơ sở giải quyết vụ án được hình thành, củng
cố. Tổng hợp các hành vi đó tạo thành nội dung của quá trình chứng minh trong vụ
án MBTPCMT.
Nhận thức về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT là công việc tư
9



duy của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đối với tài liệu chứng
cứ đã thu thập được, đồng thời chính là tổng thể các hoạt động được những người
này tiến hành hướng tới việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Quá trình
chứng minh vụ án MBTPCMT nói riêng và VAHS nói chung phải đảm bảo tính
khoa học chặt chẽ của phương pháp phán đoán, suy luận được ứng dụng đặc biệt
cần thiết và sâu sắc, đồng thời phải đảm bảo chặt chẽ hơn so với hoạt động nghiên
cứu, tư duy, suy luận trong công tác nghiên cứu khoa học. Như vậy, chứng minh
trong vụ án MBTPCMT nói riêng và chứng minh trong VAHS nói chung là tổng
hợp các hành vi tố tụng hình sự do chủ thể là CQTHTT được Nhà nước trao quyền,
cụ thể trong giai đoạn truy tố là VKS tiến hành theo trình tự được BLTTHS quy
định để làm rõ đối tượng, phạm vi, giới hạn chứng minh bằng việc thu thập, kiểm
tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án mua
bán trái phép chất ma túy.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy
Xuất phát từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý, chức
năng, nhiệm vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai đoạn cũng có
sự khác nhau, những đặc điểm riêng của mình. Với khái niệm về hoạt động chứng
minh trong vụ án MBTPCMT, đặc biệt ở giai đoạn truy tố, chứng minh trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh. Chủ thể tiến hành các hoạt
động chứng minh trong tố tụng hình sự là các chủ thể có trách nhiệm chứng minh
do pháp luật tố tụng hình sự quy định tùy từng quốc gia với mô hình tố tụng khác
nhau. Các chủ thể chứng minh trong vụ án MBTPCMT là người nắm vững pháp
luật, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên sâu về công tác pháp luật, sử dụng các biện
pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án
MBTPCMTvà trong giai đoạn truy tố, sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ do Cơ quan
điều tra (CQĐT) chuyển sang, VKS ra một trong các loại quyết định: Truy tố bị can
trước TA bằng bản cáo trạng; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay
10



tạm đình chỉ VAHS. Chủ thể chứng minh trong giai đoạn truy tố vụ án MBTPCMT
là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc VKS có thẩm quyền truy tố. Những người
tham gia tố tụng cũng tham gia vào hoạt động chứng minh do các chủ thể tiến hành
tố tụng yêu cầu nhưng họ không phải là chủ thể chứng minh.
Thứ hai: Mục đích chứng minh. Quá trình chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túyđược các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định
chân lý khách quan của vụ án. Quá trình chứng minh thực chất là quá trình nhận
thức vụ án hình sự của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh. Do đó mục đích của
hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT là xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để giải quyết đúng đắn vụ án MBTPCMT,
qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ của pháp luật TTHS là bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền là lợi ích cơ bản của công dân và
tổ chức… Hoạt động chứng minh nhằm xác định có tội phạm và bị can – người thực
hiện hành vi phạm tội hay không để ban hành cáo trạng, quyết định truy tố hay đình
chỉ vụ án.
Thứ ba: Nội dung chứng minh. Hoạt động chứng minh trong vụ án
MBTPCMT bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Để tái
hiện lại sự kiện phạm tội đã xảy ra trước đây một cách khách quan, toàn diện, đầy
đủ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên phải áp dụng
những biện pháp khác nhau mà pháp luật cho phép nhằm thu thập, kiểm tra, đánh
giá các thông tin mà sự kiện này để lại trong thế giới khách quan dưới hai hình thức
phản ánh trong ý thức của con người và trong môi trường vật chất.
Trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT, các chủ thể chứng minh cần
xác định đối tượng chứng minh và xác định được giới hạn chứng minh. Chỉ có khi
nào CQTHTT thu thập đầy đủ chứng cứ để có thể đưa ra kết luận về việc tồn tại hay
không tồn tại của các yếu tố thuộc đối tượng chứng minh thì mới có thể nhận thức
đầy đủ về sự thật khách quan của vụ án và trên cơ sở đó đưa ra các quyết định giải
quyết đúng đắn vụ án. Vấn đề này ở từng giai đoạn cần được xem xét kĩ lưỡng. Bởi

lẽ, từ đó mà CQTHTT tiến hành các hoạt động phù hợp đáp ứng yêu cầu của quá
11


trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vấn đề này, trong từng vụ án cụ thể, Kiểm sát
viên và các chủ thể chứng minh khác phải dựa vào các quy định của pháp luật hình
sự, pháp luật tố tụng hình sự, niềm tin nội tâm và ý thức pháp luật để quyết định cần
thu thập, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu những chứng cứ để làm rõ từng tình tiết
và toàn bộ các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án đó.
Như vậy, đặc điểm dễ nhận thấy của hoạt động chứng minh trong vụ án
MBTPCMT ở giai đoạn truy tố chủ yếu tập trung ở việc kiểm tra, đánh giá, sử dụng
chứng nhằm đưa ra kết luận chính thức về vụ án MBTPCMT thông qua bản cáo
trạng hoặc quyết định truy tố.
1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túy
1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy
Đối tượng chứng minh trong VAHS nói chung và vụ án MBTPCMT nói
riêng bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói
riêng và tổng thể của chúng nói chung, đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một
cách khách quan, toàn diện và chính xác. Nội dung chủ yếu của đối tượng chứng
minh trong VAHS trước hết là cấu thành tội phạm. Chính cấu thành tội phạm cụ thể
được quy định trong luật hình sự xác định ranh giới những sự kiện, tình tiết chủ yếu
phải chứng minh của vụ án hình sự.
Trong khoa học luật hình sự, cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp
lý của một loại tội phạm, là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội
phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Những dấu hiệu được mô tả trong
cấu thành tội phạm là những dấu hiệu phản ánh nội dung bốn yếu tố của tội phạm,
nhưng không phải tất cả những dấu hiệu đó đều được đưa vào cấu thành tội phạm.
Có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm; có những
dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm của tội này, nhưng lại không có trong cấu

thành tội phạm của tội khác.
Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm cũng là
những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ vụ án hình sự:
12


- Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố khách quan của tội phạm.
- Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm.
- Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của
tội phạm [17, tr 23].
Ngoài những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm
nói trên, những dấu hiệu khác tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu
thành tội phạm, nhưng có thể là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ
thể, vì vậy chúng có thể là những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Ngoài cấu thành tội phạm, trên cơ sở, căn cứ để quyết định hình phạt được
quy định trong luật hình sự Việt Nam, những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án hình sự còn có: Những tình tiết về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm;
những tình tiết về nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
Thực tiễn cho thấy, khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đã được thực hiện, CQTHTT phải chứng minh:
- Có hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội xảy ra
hay không?
- Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người, nhiều người thực
hiện nhưng không có đồng phạm, đồng phạm hay phạm tội có tổ chức)?
- Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội…?
- Giai đoạn thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tội
phạm hoàn thành?
- Thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian thực hiện tội
phạm?

- Tính chất, mức độ hậu quả nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra?
Khi xem xét nhân thân người phạm tội, CQĐT, VKS, TA phải chứng minh:
- Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng trực tiếp đến tội
phạm (những đặc điểm mang tính chất pháp lý) như phạm tội lần đầu hay đã có tiền
án, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, có tính chất chuyên nghiệp hay
13


không; là người thành niên hay chưa thành niên; có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập
công chuộc tội hay là ngoan cố không chịu cải tạo…?
- Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, nhưng
có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội như thành phần, quá trình hoạt động
chính trị - xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; người phạm tội thuộc dân tộc ít
người, thuộc gia đình liệt sĩ; là nhân sĩ, trí thức có tên tuổi; là chức sắc tôn giáo…?
- Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như là
người già yếu, bị bệnh hiểm nghèo; là phụ nữ có thai; có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn của bản thân hay của gia đình…?
Ngoài hai nhóm các vấn đề phải chứng minh nói trên, CQTHTT phải cân
nhắc đồng thời cả hai loại tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự [3, tr.
45].
Điều 85 BLTTHS năm 2015 của nước ta đã xác định đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự nói chung: “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.”
So với Điều 63 của BLTTHS năm 2003, những vấn đề cần phải chứng minh
trong điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định củaĐiều 85 BLTTHS
năm 2015 có quy định thêm khoản 5 và 6, tuy đây là vấn đề không mới so với
BLTTHS năm 2003 nhưng nó đã được đưa vào ở một điều luật cụ thể và khoa học
14


hơn.
Trong VAHS, những vấn đề phải chứng minh có vị trí, vai trò khác nhau. Vì
vậy, phân loại những vấn đề phải chứng minh thành các nhóm khác nhau theo một
trật tự nhất định là để nghiên cứu chúng từ các góc độ khác nhau. Có thể hiểu phân
loại những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự là việc chia các chứng cứ
thành các nhóm khác nhau dựa trên cơ sở những căn cứ xác định, nhằm giải quyết
những mục đích nhất định.
Để đạt được mục đích chứng minh trong vụ án MBTPCMT đòi hỏi các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định được những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án đã được quy định cụ thể tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 và gắn
với những quy định về tội phạm MBTPCMT được quy định tại Điều 251 BLHS
năm 2015.
Để nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề cần phải chứng minh trong
vụ án, chúng ta có thể chia những vấn đề cần phải chứng minh thành các nhóm và
từ đó làm rõ, cụ thể như sau:
* Nhóm một: Đối tượng chứng minh thuộc về bản chất của vụ án
MBTPCMT bao gồm việc xác định có hay không có dấu hiệu phạm tội MBTPCMT
và ai, những ai đã thực hiện hành vi phạm tội
Trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT, sau khi đã thu thập được đầy
đủ chứng cứ xác định các tình tiết của vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải

đánh giá và nhận định hành vi của người đó có đã được xem là tội phạm hay chưa,
có dấu hiệu của tội mua bán ma túy hay chưa, tính chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi đến đâu, người phạm tội đó có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự không.
Việc thu thập chứng cứ để trả lời được các câu hỏi đó chính là cơ sở để giải quyết
vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự và định tội danh của người đã có hành vi
MBTPCMT gây nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm mua
bán trái phép chất ma túy. Những vấn đề phải chứng minh nằm trong các yếu tố cấu
thành tội phạm bao gồm:
- Khách thể của tội phạm trong vụ án MBTPCMT: “Khách thể của tội phạm
15


là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”. Đối
với tội MBTPCMT thì khách thể của tội phạm là hành vi xâm phạm chính sách
quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, trực tiếp là hoạt động mua bán các chất
ma túy. Ngoài ra, khách thể của tội phạm MBTPCMT còn là cơ sở để phân biệt với
các loại tội phạm ma túy khác và tội phạm khác. Cơ quan tiến hành tố tụng muốn
chứng minh là có hành vi tội phạm xảy ra hay không, thì một trong những vấn đề
cần phải chứng minh và làm rõ là khách thể nào bị xâm phạm.
- Mặt khách quan của tội phạm trong vụ án MBTPCMT: Mặt khách quan của
tội phạm là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan bao gồm: Hành vi
nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở dạng hành động và không hành động, hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã
hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công
cụ, thủ đoạn, phương tiện phạm tội. Biểu hiện của tội phạm MBTPCMT ra bên
ngoài bao gồm: Hành vi MBTPCMT, hậu quả nguy hiểm của hành vi cho xã hội và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Khi có hoạt động MBTPCMT xảy ra, các cơ quan điều tra về tội phạm ma
túy phải chứng minh các tình tiết thuộc về mặt khách quan của tội phạm như: Hành
vi MBTPCMT, chủ thể của hành vi này có nhận thức được việc phạm tội không,

hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình
bảo vệ hay không, biểu hiện cụ thể của hành vi như thế nào. Ngoài các dấu hiệu cần
phải chứng minh nêu trên, CQĐT, VKS, TA tùy từng giai đoạn tố tụng phải chứng
minh các biểu hiện khác thuộc về mặt khách quan của tội phạm như: Thời gian, địa
điểm, tính chất của vụ việc phạm tội; Động cơ, mục đích của người phạm tội; Lý
lịch, tiểu sử, nhân thân của người phạm tội; Các chất ma tuý đối tượng sử dụng để
phạm pháp; Phương tiện, công cụ đối tượng dùng để hoạt động; Thủ đoạn, quy luật
hoạt động của tội phạm; Địa bàn hoạt động của tội phạm; Tài sản có được trong quá
trình hoạt động phạm pháp của đối tượng. Tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự… Trong vụ án nếu xác định có đồng phạm, người tiến hành tố tụng
phải chứng minh được hành vi phạm tội của tất cả các đối tượng tham gia phạm tội
16


và vai trò của từng người trong vụ đồng phạm đó, tức là phải chứng minh vai trò
cầm đầu, xúi giục, tổ chức, giúp sức và thực hiện.
- Những vấn đề phải chứng minh về chủ thể của tội phạm trong vụ án mua
bán trái phép chất ma túy
Trong lý luận khoa học hình sự, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể
thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt
độ tuổi do luật hình sự quy định. Quá trình chứng minh trong giai đoạn truy tố vụ án
về tội phạm ma túy đòi hỏi khi tiến hành, cơ quan công tố phải chứng minh ai là
người đã thực hiện tội phạm. Ngoài việc chứng minh ai là chủ thể của tội phạm, cần
phải chứng minh được người thực hiện phạm tội MBTPCMT đó có tuổi chịu trách
nhiệm hình sự hay chưa. Việc chứng minh người thực hiện hành vi nguy hiểm đạt
độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là vấn đề quan trọng và không thể thiếu được
trong quá trình chứng minh VAHS. Căn cứ vào độ tuổi của chủ thể thực hiện tội
phạm, CQĐT, VKS sẽ xác định được họ có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện hay không. Để chứng minh thì cần phải
dựa vào các tài liệu như: Giấy khai sinh, giấy chứng minh nhân dân... có ghi đầy đủ

ngày, tháng, năm sinh hoặc sổ hộ khẩu của cơ quan có thẩm quyền [34, tr.31]. Bên
cạnh việc chứng minh làm rõ nội dung vụ án về hành vi MBTPCMT, người tiến
hành tố tụng cũng cần lưu ý đến tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 21 của BLHS năm 2015.
- Những vấn đề phải chứng minh thuộc về mặt chủ quan của tội phạm mua
bán trái phép ma túy
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm
lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, bao gồm các dấu hiệu
lỗi, động cơ phạm tội, mục đích phạm tội. Các dấu hiệu này có ý nghĩa và vị trí
khác nhau trong các cấu thành tội phạm. Lỗi được biểu hiện dưới dạng lỗi cố ý và
lỗi vô ý. Đây là dấu hiệu bắt buộc của bất kỳ cấu thành tội phạm nào. Động cơ
phạm tội là nhân tố bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện tội phạm. Động cơ
phạm tội chỉ có trong những trường hợp phạm tội cố ý. Mục đích phạm tội được
17


hình thành trong ý thức của người phạm tội và người phạm tội mong muốn đạt được
điều đó trên thực tế bằng cách thực hiện tội phạm. Mục đích phạm tội chỉ có với
những tội phạm được thực hiện do cố ý trực tiếp.
Đối với tội phạm MBTPCMT, đây là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý
trực tiếp, vì chủ quan hoặc do hám lợi đã dẫn đến vi phạm pháp luật. Khi tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử vụ án, các CQĐT, VKS, TA phải chứng minh được những
dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm để xác định: Khi gây án người đó có
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội hay không, khi hậu quả
đã xảy ra có biện pháp ngăn chặn hậu quả không. Chính vì vậy việc chứng minh
hình thức lỗi của người thực hiện tội phạm là căn cứ để đánh giá đúng tội danh của
các bị can, bị cáo.
Khoản 1 Điều 10 BLHS năm 2015 quy định về Cố ý phạm tội: “Người phạm
tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra”.Trong tộiphạm mua bán trái phép ma

túy luôn là lỗi cố ý trực tiếp, CQTHTT dựa vào ý chí của người phạm tội xác định
vấn đề này. Người phạm tội cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi và mong muốn hậu
quả xảy ra, không có trường hợp cố ý gián tiếp đối với người phạm tội mua bán ma
túy. Do đó, những chủ thể có trách nhiệm chứng minh cần phải chứng minh được
mục đích phạm tội và động cơ phạm tội của người phạm tội đối với hành vi
MBTPCMT với lỗi cố ý trực tiếp.
* Nhóm hai: Những vấn đề phải chứng minh liên quan đến trách nhiệm hình
sự và hình phạt
Quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT, ngoài việc chứng minh các
yếu tố cấu thành tội phạm, CQTHTT cần phải chứng minh các tình tiết khác trong
đó có những tình tiết dẫn đến miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị can,
bị cáo theo quy định tại Điều 29, 59 BLHS năm 2015.
Trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt không có nghĩa là xác
định không có tội phạm xảy ra. Vì vậy, để chứng minh và áp dụng đúng những quy
định trên chúng ta cần nghiên cứu những dấu hiệu cụ thể mà các CQTHTT cần áp
18


×