Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Phân tích chính sách tài khóa Việt Nam giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.62 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN
MÔN KINH TẾ HỌC QUẢN LÝ NÂNG CAO
Chủ đề: Phân tích việc thực thi chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
của Việt Nam giai đoạn 2007-2017

Người thực hiện: Nguyễn Hải Quân
Vũ Thị Thu Thảo
Bùi Xuân Quý
Nguyễn Quang Khánh

Thái Nguyên, ngày 01 tháng 12 năm 2019
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................3
NỘI DUNG....................................................................................................................4
1. Một số vấn đề lý luận cơ bản.................................................................................4
1.1. Chính sách tài khoá.........................................................................................5
1.2.Chính sách tiền tệ.............................................................................................8
2. Thực trạng chính sách tài khoá Việt Nam, giai đoạn 2007-2017...........................9
2.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước.................................................................9
2.2. Thực trạng chi ngân sách nhà nước..............................................................11
2.3. Thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ công...................................................12
2.4. Phân tích, đánh giá chính sách tài khoá của Việt Nam.................................14
2.5. Đánh giá chính sách tài khoá với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2017
..............................................................................................................................16
3. Chính sách tiền tệ Việt Nam................................................................................18


3.1. Giai đoạn 1: chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011................19
3.2. Giai đoạn 2: chính sách tiền tệ giai đoạn từ năm 2011 đến 2017.................26
4. Phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ ở Việt Nam, giai đoạn 20072017..........................................................................................................................37
4.2. Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Việt Nam giai đoạn
2007-2017.............................................................................................................39
KẾT LUẬN..................................................................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................51

2


MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, Việt Nam và nhiều quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng
không nhỏ từ biến động của nền kinh tế toàn cầu, như khủng hoảng kinh tế 20072009 và khủng hoảng nợ Châu Âu 2010. Chính phủ các nước trên thế giới, trong đó
có Việt Nam đã cố gắng sử dụng chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và nhiều chính
sách kinh tế khác nhằm chặn đà suy giảm kinh tế thời kỳ 2008 - 2009 và duy trì ổn
định kinh tế vĩ mô thời kỳ hậu khủng hoảng.
Từ năm 2008 đến nay, kinh tế Việt Nam có sự suy giảm mạnh về tăng trưởng và
sự biến động lớn của lạm phát. Nguyên nhân thì có nhiều, trong đó phải kể tới là sự
biến động của kinh tế toàn cầu, khủng hoảng kinh tế thế giới 2007 - 2009, khủng
hoảng nợ Châu Âu và những yếu kém của nền kinh tế trong một thời gian dài tăng
trưởng theo chiều hướng mở rộng.
Để đưa nền kinh tế vượt qua những khó khăn, Chính phủ đã rất nỗ lực trong việc
ban hành và thực thi nhiều chính sách có hiệu quả, nhằm hạn chế những rào cản, kích
thích tăng trưởng để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong
đó có vai trò của chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ. Chính sách tài khóa, chính
sách tiền tệ của Việt Nam... nhằm tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Với việc
đồng thời cùng thực hiện và phục vụ cho triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng điểm
nên quy mô chi ngân sách trong thời gian qua tăng mạnh, trong khi đó nguồn thu chỉ
có hạn và do vậy đã làm cho quy mô thâm hụt ngân sách đang có xu hướng tăng cao.

Ngoài ra, chi ngân sách nhà nước hiện nay đang có diễn biến theo hướng giảm chi đầu
tư công và tăng chi thường xuyên. Tuy nhiên, với mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam hiện tại vẫn là tăng trưởng theo chiều rộng thì việc thu hẹp đầu tư công sẽ hạn
chế đáng kể tới thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh khi mà chi tiêu chính
phủ vẫn rất cần tạo cú huých cho quá trình phát triển nền kinh tế. Việc chính phủ đã
điều hành sách tài khoá, chính sách tiền tệ giai đoạn 2007-2017 như thế nào, phối hợp

3


chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ ra sao, tác động của các chính sách đó với sự
phát triển kinh tế như thế nào?
Tiểu luận với việc đánh giá khái quát kinh tế vĩ mô Việt Nam trong những năm
gần đây; Phân tích việc thực thi chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ của Việt
Nam giai đoạn 2007-2017 để làm sáng rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính
sách tài khoá, chính sách tiền tệ, sự phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ,
tác động tới phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2017.

NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận cơ bản
4


1.1. Chính sách tài khoá
* Khái niệm chính sách tài khoá
- Chính sách tài khóa là các biện pháp được Chính phủ thi hành tác động đến chi
tiêu công và hệ thống thuế khóa nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế
như: tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm hoặc ổn định giá cả và lạm phát. Chính
sách tài khóa có phạm vi tác động lớn tới quản lý và đóng một vai trò quan trọng
trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô thông qua huy động và sử dụng các nguồn lực

tài chính của Nhà nước.
Căn cứ theo cán cân thu - chi ngân sách, CSTK được chia thành 3 loại chính đó
là: CSTK trung lập, CSTK mở rộng và CSTK thu hẹp.
- Chính sách tài khóa trung lập là chính sách cân bằng ngân sách tại đó chi tiêu
Chính phủ bằng với nguồn thu từ thuế (G = T) hay chi tiêu Chính phủ được tài trợ
hoàn toàn từ nguồn thu của Chính phủ. Chính sách này có tác động trung tính đến
mức độ các hoạt động kinh tế.
- Chính sách tài khóa mở rộng (G > T) là chính sách tăng cường chi tiêu Chính
phủ thông qua việc mở rộng chi tiêu hoặc giảm bớt nguồn thu thuế hoặc kết hợp cả
hai. Chính sách này thường được áp dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc
làm.
- Chính sách tài khóa thu hẹp (G < T) là chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính
phủ thông qua việc giảm bớt chi tiêu hoặc tăng nguồn thu của Chính phủ hoặc kết hợp
cả hai. Chính sách này thường được áp dụng kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền
kinh tế và kiềm chế lạm phát.
Chính sách tài khóa chính là việc chính phủ sử dụng chi tiêu và nguồn thu thuế
để tác động lên nền kinh tế. Sự kết hợp và tác động qua lại giữa chi tiêu chính phủ và
nguồn thu ngân sách là một sự cân bằng dễ bị phá vỡ và đòi hỏi việc xác định thời
điểm chính xác và một chút may mắn để đạt hiệu quả. Tác động trực tiếp và gián tiếp
của chính sách tài khóa có thể ảnh hưởng đến chi tiêu cá nhân, đầu tư của doanh
5


nghiệp, tỷ giá hối đoái, mức thâm hụt ngân sách và thậm chí là cả lãi suất, chỉ số
thường được coi là liên quan đến chính sách tiền tệ nhiều hơn.
Chính sách tài khóa thường gắn liền với trường phái Keynes, theo tên nhà kinh tế
học người Anh John Maynard Keynes. Những nghiên cứu chính của ông như “Lý
thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” đã ảnh hưởng đến những tư tưởng
mới lý giải về cách thức nền kinh tế hoạt động và vẫn được nghiên cứu cho đến ngày
nay. Hầu hết lý thuyết của ông được phát triển trong thời kỳ Đại khủng hoảng. Đến

nay lý thuyết của Keynes đã được dùng cũng như bị vận dụng sai không ít lần, bởi nó
khá phổ biến và chỉ áp dụng đặc thù để giảm ảnh hưởng trong thời kỳ suy thoái.
Một cách ngắn gọn, học thuyết kinh tế trường phái Keynes dựa trên tư tưởng
rằng sự chủ động từ chính phủ là cách duy nhất để chèo lái nền kinh tế. Điều này ngụ
ý rằng chính phủ nên sử dụng quyền hạn của mình để tăng tổng cầu bằng cách tăng
chi tiêu và tạo ra môi trường lưu thông tiền tệ dễ dàng, từ đó kích thích nền kinh tế,
tạo ra công ăn việc làm và cuối cùng tăng thêm của cải trong xã hội. Phong trào dựa
trên lý thuyết của Keynes cho rằng chính sách tiền tệ bản thân nó có những hạn chế
trong việc giải quyết khủng hoảng tài chính, vì vậy đã tạo ra cuộc tranh luận giữa
những nhà kinh tế theo trường phải Keynes và những người ủng hộ chính sách tiền tệ.
Chính sách tài khóa đã được vận dụng thành công kể cả trong suốt và sau thời kỳ
Đại khủng hoảng nhưng học thuyết của Keynes đã bị hoài nghi vào những năm 80 sau
một thời gian dài được ưa chuộng.
Người ủng hộ chính sách tiền tệ như Milton Friedman và người theo trường phái
“trọng cung” cho rằng những động thái đang diễn ra của chính phủ sẽ chẳng thể cứu
vãn đất nước thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng khi mà mức GDP dưới trung bình
ngày càng mở rộng, còn lãi suất thì bất ổn.
* Các vấn đề cần lưu ý
Chính sách tài khóa có thể được sử dụng để điều chỉnh sự mở rộng hoặc thu hẹp
GDP, chỉ số thể hiện tăng trưởng kinh tế. Khi chính phủ sử dụng quyền hạn của mình
6


để giảm thuế hay tăng chi tiêu đồng nghĩa chính phủ đang vận dụng chính sách tài
khóa mở rộng. Nhìn bên ngoài, những nỗ lực mở rộng của chính phủ có vẻ chỉ mang
lại hiệu quả tích cực bằng cách kích thích nền kinh tế nhưng hiệu ứng domino kéo
theo lại mở rộng hơn thế nhiều. Khi tốc độ chi tiêu chính phủ nhanh hơn so với thu
thuế, nợ sẽ tích lũy quá nhiều khi phát hành trái phiếu chịu lãi suất để tài trợ cho việc
chi tiêu, từ đó dẫn tới gia tăng nợ quốc gia.
Khi chính phủ tăng vay nợ thông qua phát hành trái phiếu khi áp dụng chính sách

tài khóa mở rộng, việc phát hành trái phiếu của chính phủ trên thị trường mở sẽ phải
cạnh tranh với khu vực kinh tế tư nhân, nhóm đối tượng cũng muốn phát hành trái
phiếu cùng thời điểm đó. Hiệu ứng được biết đến với tên gọi “chen lấn vay nợ”
(crowding out) này có thể làm tăng lãi suất gián tiếp vì gia tăng cạnh tranh để giành
nguồn vốn vay. Ngay cả nếu kích thích bằng cách tăng chi tiêu chính phủ ban đầu có
thể có một số hiệu quả tích cực trong ngắn hạn, một phần tăng trưởng kinh tế này sẽ
bị mất đi bởi chi phí vay sẽ tăng lên đối với những người đi vay, trong đó có chính
phủ.
Một ảnh hưởng gián tiếp khác của chính sách tài khóa thường bị bỏ qua đó là
khả năng các nhà đầu tư nước ngoài nỗ lực mua vào đồng đô la nội địa nhằm đầu tư
vào trái phiếu nội địa trên thị trường mở giờ đây có lợi tức cao hơn. Đồng nội tệ mạnh
lên có vẻ là một dấu hiệu tích cực về bề nổi, tùy thuộc vào mức độ biến động tỷ giá,
nhưng nó có thể làm cho hàng hóa củanội địa trở nên đắt đỏ hơn khi xuất khẩu và các
mặt hàng nhập khẩu nước ngoài thì rẻ hơn. Vì hầu hết người tiêu dùng thường coi giá
là yếu tố quyết định trong hoạt động mua sắm, sự dịch chuyển từ tiêu dùng hàng
ngoại thay vì hàng trong nước sẽ dẫn tới sự mất cân bằng tạm thời trong cán cân
thương mại. Các kịch bản này cần được cân nhắc và dự đoán. Không dễ để dự đoán
kết quả nào sẽ xảy ra và với mức độ ra sao bởi còn nhiều yếu tố khác như thảm họa
thiên nhiên, chiến tranh v.v… có thể làm thị trường biến động.

7


Các biện pháp chính sách tài khóa cũng chịu tác động của độ trễ tự nhiên hoặc
do phải trải qua nhiều khâu chính sách khác nhau. Từ góc độ dự báo, trong một thị
trường hoàn hảo nơi các nhà kinh tế có khả năng dự báo tương lai đúng 100% thì
chính sách tài khóa có thể được đưa ra ngay khi cần. Không may là với sự bất định và
hay thay đổi vốn có của thị trường, hầu như các nhà kinh tế không thể dự báo chính
xác những thay đổi trong ngắn hạn.
1.2.Chính sách tiền tệ

Tiền tệ có thể được sử dụng để kích thích hoặc giảm tốc nền kinh tế nhưng phải
dưới sự kiểm soát của ngân hàng trung ương với mục tiêu cuối cùng là giúp tiền lưu
thông dễ dàng trên thị trường. Ban đầu những người theo thuyết kinh tế của Keyne
không tin rằng chính sách tiền tệ có tác động lâu dài đối với nền kinh tế vì thứ nhất
ngân hàng có quyền cho vay hoặc không cho vay số tiền dự trữ vượt mức trong tay
với lãi suất thấp và thứ hai nhu cầu của người tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ
không liên quan đến chi phí vốn để đạt được những hàng hóa đó. Tại những thời điểm
khác nhau trong chu kỳ kinh tế, điều này có thể đúng hoặc không nhưng chính sách
tiền tệ đã được chứng minh có một số ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế, thị trường
cổ phiếu, trái phiếu.
Ví dụ điển hình là ở mỹ, Cục dự trữ liên bang nắm trong tay ba công cụ mạnh và
tích cực sử dụng cả ba. Công cụ được sử dụng nhiều nhất là nghiệp vụ thị trường mở
(OMO), được điều tiết hàng ngày. Nghiệp vụ này mua và bán trái phiếu Mỹ trên thị
trường mở nhằm tăng hoặc giảm lượng tiền dự trữ trong ngân hàng đồng thời gây ảnh
hưởng tới cung tiền. Ngân hàng trung ương cũng có thể thay đổi quy định về dự trữ
bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại, và cách này cũng sẽ trực tiếp tăng hoặc
giảm cung về tiền. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể điểu chỉnh lãi suất chiết
khấu – một công cụ liên tục nhận được sự chú ý từ truyền thông, những nhà dự báo,
nhà đầu cơ. Thế giới thường xuyên chờ đợi thông báo từ Cục dự trữ liên bang Mỹ như
thể là bất kỳ thay đổi nhỏ nào cũng sẽ có tác động trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu.
8


Lãi suất chiết khấu thường bị hiểu sai, nó không phải là lãi suất chính thức mà
người tiêu dùng sẽ phải trả khi đi vay hoặc được nhận khi gửi tiết kiệm. Đây là lãi
suất ngân hàng phải trả khi ngân vay trực tiếp từ ngân hàng trung ương nếu muốn
tăng dự trữ. Tuy nhiên, quyết định của ngân hàng trưng ương ảnh hưởng đển toán bộ
hệ thống ngân hàng và sau cùng, đến chi phí mà người đi vay phải trả cũng như mức
lãi được nhận đối với tài khoản tiền gửi. Về lý thuyết, việc giữ tỷ lệ chiết khấu thấp sẽ
dẫn đến giảm dự trữ vượt mức mặt của ngân hàng và cuối cùng làm tăng cầu về tiền.

Điều này đặt ra câu hỏi: Chính sách nào hiệu quả hơn – chính sách tài khóa hay chính
sách tiền tệ?
Cuộc tranh luận này đã diễn ra sôi nổi hàng thập kỷ qua và câu trả lời là cả hai.
Ví dụ, để thúc đẩy chính sách tài khóa trong thời gian dài 25 năm, nền kinh tế sẽ trải
qua nhiều chu kỳ kinh tế. Ở điểm kết thúc của những chu kỳ đó, các tài sản thuộc
nhóm cở sở hạ tầng, chẳng hạn các tòa nhà, cầu đường và những tài sản dài hạn khác
sẽ vẫn tồn tại và hầu hết chúng là kết quả của chính sách tài khóa. Trong 25 năm đó,
ngân hàng trung ương có thể đã can thiệp tới hàng trăm lần thông qua sử dụng các
công cụ và có lẽ chỉ thành công trong một vài lần. Mặt khác, nếu chỉ sử dụng một
công cụ chưa chắc đã là giải pháp tốt nhất bởi độ trễ của chính sách tài khóa. Chính
sách tiền tệ cho thấy hiệu quả trong việc làm chậm lại kinh tế đang tăng trưởng nóng
hơn mong muốn (lo sợ lạm phát) nhưng hiệu ứng tương tự không đạt được khi chính
phủ muốn mở rộng nền kinh tế với chính sách nới lỏng tiền tệ.
2. Thực trạng chính sách tài khoá Việt Nam, giai đoạn 2007-2017
2.1. Thực trạng thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước (NSNN) của Việt Nam đến từ bốn nguồn chính là: (i)
Thu nội địa, (ii) Thu từ dầu thô, (iii) Thu cân đối hoạt động xuất nhập khẩu và (iv)
Thu viện trợ. Trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao với
tốc độ bình quân hàng năm trên 6% từ năm 2006 đến nay, đã giúp nâng cao số thu
9


NSNN. Tuy nhiên, trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2015, tốc độ tăng thu (sau khi
loại trừ yếu tố tăng giá) đã chậm hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo đó, tỷ lệ thu từ
NSNN so GDP đã giảm từ 26,4% trong giai đoạn 2006-2010 xuống 23,4% trong giai
đoạn 2011-2015, nguyên nhân chủ yếu là do giảm thu từ dầu thô (từ 4,8% xuống 3%),
từ hoạt động xuất nhập khẩu (5,5% xuống 4,2%) và các khoản thu về đất (2,5% xuống
còn

1,7%).


Việ
t Nam đã thành công trong việc chuyển đổi hệ thống chính sách thuế theo hướng ít
phụ thuộc hơn vào các nguồn bên ngoài (thu từ dầu thô và xuất khẩu). Trong cơ cấu
thu NSNN, tỷ trọng thu nội địa đã tăng cao hơn từ 58,9% (giai đoạn 2006-2010) lên
khoảng 68% (giai đoạn 2011-2015), do nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng dương và duy
trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mức tăng trên phần
nào đã giúp bù đắp cho số giảm thu về xuất nhập khẩu và thu từ dầu thô. Bên cạnh đó,
để nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư và tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp trong bối cảnh kinh tế suy giảm, Việt Nam đã thực hiện một số chính sách ưu
đãi thuế, bao gồm (i) cắt giảm thuế suất thuế TNDN; (ii) nâng mức chiết trừ gia cảnh
10


cho người nộp thuế TNCN; (iii) miễn hoặc giảm thuế đất nông nghiệp; và (iv) gia hạn
nộp thuế GTGT, TNDN và tiền sử dụng đất v.v.
So sánh số liệu dự toán thu NSNN hàng năm cho thấy, dự toán thu NSNN năm
2017 đã được kỳ vọng khá cao so với thực trạng nền kinh tế (dự toán thu NSNN 2017
tăng gần 20% so với dự toán thu NSNN năm 2016. Vì vậy, việc hoàn thành dự toán
thu NSNN 2017 (dù chỉ tăng hơn 5% so với dự toán) cũng là thành công lớn. Hơn
nữa, trong bối cảnh lạm phát năm 2017 được duy trì ở mức thấp thì việc hoàn thành
dự toán thu NSNN 2017 là kết quả đáng khích lệ vì lạm phát luôn là yếu tố có ảnh
hưởng mạnh đến tăng thu NSNN.
2.2. Thực trạng chi ngân sách nhà nước
Quy mô chi NSNN tăng khá cao (năm 2016 tăng trên 70% so với năm 2010)
nhưng cũng chỉ mới đáp ứng nhu cầu chi tối thiểu của nhiều ngành, lĩnh vực. Cân đối
NSNN ngày càng khó khăn hơn do nợ công sắp đến giới hạn cho phép; nhu cầu chi
đầu tư phát triển (ĐTPT) vẫn còn rất lớn.
Chi tiêu của Chính phủ so với GDP vẫn duy trì ở mức cao. Cơ cấu chi thay đổi
theo hướng chi thường xuyên chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Tổng chi NSNN - bao

gồm cả chi từ nguồn trái phiếu - bình quân chiếm 29,2% GDP trong giai đoạn 20112015, so với 28,9% trong giai đoạn trước và ở mức cao so với khu vực và các quốc
gia có mức phát triển tương đương. Tỷ lệ so sánh giữa chi thường xuyên và đầu tư là
khoảng 70:30 trong thời kỳ 2011-2015 so với 63:37 của thời kỳ 2006-2010. Chi
thường xuyên tăng lên và cao hơn mức tăng thu chủ yếu là do tăng chi để thực hiện
các chính sách mới về an sinh xã hội, chi lương và phụ cấp và chi trả lãi các khoản
vay. Chi đầu tư từ NSNN, mặc dù giảm tỷ trọng trong tổng chi tiêu của Chính phủ,
nhưng vẫn duy trì ở mức cao so với khu vực và thế giới. Nếu so với tổng đầu tư toàn
xã hội, chi đầu tư từ NSNN chiếm 29,1% trong giai đoạn 2011-2015, tăng nhẹ so với
mức 28,4% của thời kỳ 2006-2010, cho thấy đầu tư của Nhà nước vào hạ tầng công
11


cộng vẫn tiếp tục được duy trì trong thời gian qua, chủ yếu do cơ sở hạ tầng của Việt
Nam hiện đang còn ở mức thấp, chưa phát triển.
Đối với chi trả nợ: Nợ trong nước mới bố trí đủ chi trả nợ lãi, chi trả nợ gốc ở
mức thấp, khiến phải vay đảo nợ. Chính phủ phải huy động các khoản vay ngắn hạn
với lãi suất cao nên nhu cầu chi trả nợ trong giai đoạn 2014 - 2016 tăng cao, tạo áp
lực lớn trong cân đối NSNN. Đối với nợ nước ngoài: Do Việt Nam đã tiệm cận nước
có thu nhập trung bình trên thế giới, việc vay ưu đãi và viện trợ của các tổ chức tài
chính quốc tế và Chính phủ các nước ngày càng hạn chế. Mặt khác, do nhu cầu ĐTPT
ngày càng lớn, vốn vay nước ngoài cho ĐTPT cũng gây áp lực lớn đến nợ công và
cân đối NSNN trong những năm vừa qua.
Tính đến ngày 31/12/2017, các nhiệm vụ chi thường xuyên đã cơ bản thực hiện
xong theo dự toán, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, đơn
vị sử dụng ngân sách. Việc chấp hành chi thường xuyên là khá sát với dự toán. Tuy
nhiên, chi đầu tư phát triển từ NSNN chỉ đạt khoảng 75,9% dự toán và chi đầu tư từ
vốn trái phiếu chính phủ đạt khoảng 23,5% dự toán (hết 31/12/2016 số liệu tương ứng
là 77% và 45,3% dự toán).
2.3. Thâm hụt ngân sách nhà nước và nợ công
Do bội chi ngân sách kéo dài, nợ công tiếp tục tăng lên trong năm 2016, tiến sát

đến hạn mức quy định là 65% GDP. Bội chi NSNN thực hiện năm 2017 ước khoảng
174,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,48% GDP, thấp hơn dự toán là 3,5% GDP. Bội chi ngân
sách bình quân trong giai đoạn 2011 - 2016 là 5,8% so với 2,2% GDP giai đoạn 2006
- 2010.
Dữ liệu sơ bộ cho thấy ngân sách vẫn gặp áp lực năm 2016 với mức bội chi ước
bằng khoảng 6,5% GDP. Bất cân đối ngân sách tăng lên chủ yếu do suy giảm cơ cấu
về tỷ lệ thu ngân sách trên GDP, giảm từ 27% GDP năm 2011 xuống khoảng 23%
GDP năm 2016. Trong khi đó, tỷ lệ chi ngân sách trên GDP được duy trì tương đối ổn
định, bình quân bằng khoảng 29% GDP trong 05 năm qua.
12


Theo các báo cáo của Chính phủ, tổng nợ công của Việt Nam (gồm nợ Chính
phủ, nợ được khu vực công bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương) đã lên đến
63,7% GDP trong năm 2016 - cao hơn khoảng 15 điểm phần trăm so với
2010.

Nợ
công vẫn trong giới hạn cho phép (đến nay, nợ công dự kiến khoảng 62,6% GDP, nợ
Chính phủ ước khoảng 51,8% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia ước khoảng 45,2%
GDP), nhưng đang tiệm cận tới giới hạn với tốc độ tăng nhanh trong thời gian qua (từ
2006 - 2010 tăng thêm 15% GDP và từ năm 2011 - 2015 tăng thêm khoảng 7% GDP),
bình quân mỗi năm tốc độ tăng nợ công khoảng 18,4%, cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (bao gồm cả trả nợ gốc và lãi)
13


ước khoảng 25% tổng thu NSNN, nếu tính cả vay đảo nợ thì nghĩa vụ trả nợ trực tiếp
của Chính phủ còn cao hơn. Bên cạnh đó, bội chi NSNN vẫn ở mức cao và không đạt
mục tiêu đề ra, đi đôi với việc tăng trưởng GDP không đạt kế hoạch nhưng không

điều chỉnh giảm bội chi tương ứng thì nợ công càng có xu hướng tăng cao, nhất là khi
có phát sinh rủi ro về giá dầu, tỷ giá…
2.4. Phân tích, đánh giá chính sách tài khoá của Việt Nam
So sánh với quốc tế, tỷ lệ thu và chi so với GDP của Việt Nam đang ở mức trên
trung bình so với các quốc gia trong khu vực và các quốc gia có thu nhập tương
đương. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại là tỷ lệ huy động thu trên GDP đang có xu
hướng giảm dần, trong khi áp lực tăng chi tiêu công cả về đầu tư và thường xuyên vẫn
cao và các chỉ số an toàn nợ đã gần sát các giới hạn an toàn theo luật định. Những vấn
đề này có ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế và đảm bảo bền vững tài
khóa trong dài hạn. Do vậy, cần có một lộ trình củng cố tài khóa để đảm bảo sự bền
vững tài khóa song không hoặc ít ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Chính phủ đã có
cam kết mạnh mẽ về giảm bội chi và duy trì nợ công trong phạm vi giới hạn cho phép,
qua đó giúp hạn chế tăng nợ và tái tạo được các lớp đệm chính sách nhằm chống đỡ
các “cú sốc” có thể xảy ra, cũng như các nghĩa vụ nợ dự phòng có thể phát sinh.
Các phương án củng cố tình hình tài khóa cũng đang được cân nhắc trên cơ sở
phối hợp các biện pháp nhằm đẩy mạnh huy động thu, hạn chế tăng chi, tái cơ cấu và
nâng cao hiệu suất chi tiêu, tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng và khai thác tài sản
công, quản lý nợ công và rủi ro tài khóa.
2.4.1. Về thu ngân sách
Chính sách thuế cần tiếp tục cải cách theo hướng đẩy mạnh huy động thu nội địa,
thông qua một số phương án chính sách cụ thể sau:
(i) Mở rộng cơ sở thu thuế GTGT: Việt Nam cần cân nhắc từng bước thu hẹp
danh mục không thuộc diện chịu thuế GTGT, chuyển các mặt hàng chịu thuế 5% sang
10%, tiến tới áp dụng thuế suất thuế GTGT duy nhất.
14


(ii) Mở rộng cơ sở thu thuế TNDN và rà soát các hình thức ưu đãi thuế: Việc rà
soát và điều chỉnh hợp lý các quy định ưu đãi thuế là cần thiết nhằm phát huy đúng
hiệu quả của các chính sách ưu đãi, tránh ưu đãi không phù hợp, dàn trải, gây lãng phí

nguồn lực, đồng thời đảm bảo công khai, minh bạch và tạo môi trường cạnh tranh
bình đẳng hơn giữa các doanh nghiệp mà không làm ảnh hưởng môi trường kinh
doanh chung của Việt Nam.
(iii) Tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt: Ở Việt Nam, thuế suất thuế tiêu thụ đặc
biệt còn tương đối thấp đối với một số mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng (ví dụ
như thuốc lá, rượu, bia). Từng bước mở rộng phạm vi áp dụng và tăng thuế suất thuế
tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng lựa chọn sẽ đem lại tác động tích cực đối với
ngân sách về huy động thu, đồng thời thay đổi thói quen của người tiêu dùng theo
hướng giảm tiêu dùng các mặt hàng không có lợi cho sức khỏe và môi trường.
(iv) Mở rộng cơ sở thu thuế TNCN phù hợp với thông lệ quốc tế: Trong thời gian
tới, chính sách thuế TNCN cần được điều chỉnh theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế,
điều chỉnh số lượng thuế suất phù hợp với thu nhập chịu thuế và đối tượng nộp thuế
để nâng cao tính tuân thủ pháp luật, khuyến khích tổ chức hoạt động theo hình thức
doanh nghiệp, tăng cường tính minh bạch và tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế.
2.4.2. Về chi ngân sách
Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu, giảm dần bội chi.
(i) Cơ cấu lại các khoản chi ngân sách, cơ cấu lại nguồn vốn và vốn đầu tư, tăng
tỷ lệ chi NSNN theo tốc độ tăng trưởng kinh tế và hiệu quả quản lý kinh tế. Ưu tiên
tăng chi NSNN cho các mục tiêu chiến lược, mục tiêu xã hội trọng điểm, cho xây
dựng cơ sở hạ tầng, cho phát triển nguồn lực, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh những mặt
hàng và lĩnh vực trọng điểm. Có chính sách đầu tư thích đáng và cơ chế tài chính phù
hợp của các vùng kinh tế trọng điểm, làm động lực phát triển của cả nền kinh tế, từ đó
tạo điều kiện đầu tư tốt hơn cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và các địa
phương nghèo, chậm phát triển.
15


(ii) Chính sách chi NSNN cần tuân thủ các nguyên tắc, tiêu chí và định mức
phân bổ vốn NSNN cho chi thường xuyên, chi ĐTPT đảm bảo hiệu quả, công bằng,
tiết kiệm, hạn chế lãng phí và chống thất thoát; Nâng cao hiệu quả chi ngân sách, từng

bước thực hiện bố trí chi theo kết quả đầu ra, theo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm
vụ công việc. Tiết kiệm chi thường xuyên trên cơ sở quản lý chặt chẽ biên chế, tinh
gọn bộ máy, tăng định mức chi sự nghiệp kinh tế, chi duy tu, bảo dưỡng...
(iii) Quy mô chi NSNN so với GDP cần được tính toán lại cho phù hợp. Cơ cấu
chi ĐTPT khoảng 25-26% tổng chi; chi thường xuyên dưới 64%, ưu tiên bảo đảm chi
trả nợ, chi dự trữ quốc gia, thực hiện cải cách tiền lương và chi an sinh xã hội.
(iv) Bội chi NSNN cần tính toán lại theo quy định của Luật NSNN năm 2015, bảo
đảm thấp hơn 4% GDP, nhưng từ năm 2021 là 3% GDP tính theo tiêu chí mới (bao
gồm cả TPCP và không bao gồm trả nợ gốc); phấn đấu bội chi NSNN giảm dần mỗi
năm khoảng 0,2% - 0,3% GDP; hướng tới cân bằng thu - chi NSNN; kiểm soát chặt
chẽ bội chi và nợ của chính quyền địa phương.
2.4.3. Về nợ công
Thực hiện nghiêm việc vay bù đắp bội chi chỉ dành cho ĐTPT, không vay cho
tiêu dùng thường xuyên. Nghiên cứu các kịch bản để có thể xử lý các tình huống xảy
ra, đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ mức bội chi hàng năm và trần nợ công; duy trì
mức trần nợ công không quá 65% GDP (sau năm 2020 không quá 62% GDP), nợ
Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài không quá 50% GDP. Cơ cấu lại nợ
công theo hướng kéo dài kỳ hạn, giảm áp lực trả nợ ngắn hạn và chi phí vay vốn, bảo
đảm khả năng trả nợ và an ninh tài chính quốc gia.
2.5. Đánh giá chính sách tài khoá với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2017

Đánh giá chung, giai đoạn 2007 - 2017, chính sách tài khoá đã trở thành công cụ
có hiệu quả trong thực hiện các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
vượt qua suy thoái và những khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới
tác động tới. Các điều hành chính sách tài khoá lúc thắt chặt, lúc mở rộng và những
16


chính sách thiết thực hỗ trợ các doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề về thiếu
vốn, thiếu thị trường, giải quyết công nợ... tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển

sản xuất kinh doanh.
- Thực hiện tích cực những cải cách, đổi mới theo hướng đơn giản hoá các thủ
tục hành chính (quy chế một cửa, tự kê khai nộp thuế), đơn giản hoá chính sách quản
lý, minh bạch chính sách mở rộng dân chủ tạo điều kiện cho các đối tượng thuộc
phạm vi điều chỉnh dễ dàng thực hiện, từng bước đáp ứng yêu cầu công tác quản lý.
- Không ngừng hiện đại hoá công tác quản lý thu - chi, tiết giảm chi phí và thời
gian cho các đối tượng được quản lý thực hiện thuận lới các nghĩa vụ và quyền lợi của
mình (đăng ký thuế, kê khai thuế điện tử, tuyên truyền chính sách thuế qua các
phương tiện thông tin đại chúng...).
- Chính sách thu - chi NSNN được ban hành, hoàn thiện không ngừng đã đảm
bảo và phục vụ tốt cho công tác hợp tác quốc tế về tài chính. Việc bổ sung, sửa đổi,
hoàn thiện không ngừng chính sách thu - chi, quản lý vay, trả nợ nước ngoài... đã thúc
đẩy phát triển có hiệu quả các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, đặc biệt là hoạt động
tự do hoá đầu tư và thương mại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công nói trên, hệ thống các chính sách tài khoá
NSNN cũng còn một số các hạn chế là:
- Hệ thống các chính sách thường xuyên có biến động và chưa thật sự ổn định
trong trung và dài hạn, vì thế cho nên các doanh nghiệp thường gặp khó khăn khi
chính sách thay đổi.
- Các chính sách chạy theo việc xử lý thực tiễn quá nhiều; tính bền vững thấp và
hiệu lực, hiệu quả không cao.
- Chính sách vẫn còn mang đặc thù của việc can thiệp hành chính vào nền kinh tế
mà chưa phải hoàn toàn là dựa trên các cơ sở lý thuyết để gián tiếp điều tiết nền kinh
tế. Chính sách tài khóa của Việt Nam...

17


- Kinh tế Việt Nam vẫn chưa là nền kinh tế thị trường hoàn thiện nên cơ chế dẫn
truyền chính sách tài khoá chưa hoàn thiện và làm hiệu quả can thiệp chính sách

không cao.
CSTK thời gian qua đã góp phần không nhỏ cho việc điều tiết tăng trưởng kinh
tế và lạm phát. Hệ thống chính sách thu chi ngân sách nhà nước không ngừng được
hoàn thiện. Quy mô thu chi ngân sách ngày càng tăng nhưng tổng chi luôn lớn hơn
tổng thu làm cho thâm hụt ngân sách tăng. Chi NSNN được điều chỉnh theo hướng
giảm chi tiêu đầu tư công và tăng chi thường xuyên. Đây là xu hướng điều chỉnh cơ
cấu chi nhằm làm tăng hiệu quả đầu tư của nền kinh tế và tạo cơ sở để quá trình tái cơ
cấu đầu tư.
Tuy nhiên, xu hướng này nếu tiếp tục mở rộng thì sẽ không tốt cho nền kinh tế
do tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam vẫn chủ yếu phụ thuộc vào tăng trưởng theo chiều
rộng. Tuy nhiên, để CSTK có hiệu quả ngày càng cao trong điều tiết kinh tế vĩ mô thì
rất cần phải có một sự minh bạch cao trong thu chi ngân sách và quản lý ngân sách.
Chỉ có như vậy, CSTK mới chặt chẽ, hiệu quả và triệt để tiết kiệm như định hướng về
thực hiện CSTK nhằm duy trì môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi và ổn định như
trong Đề án tổng thể về tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.
3. Chính sách tiền tệ Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới. Cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu
đầy biến động, các giao dịch kinh tế, tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp hơn.
Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua (giai đoạn trước năm
2012) tỏ ra không hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát. Từ năm 2007 đến năm
2011, lạm phát cao và diễn biến phức tạp. Kinh tế vĩ mô bất ổn. Từ năm 2012 đến nay,
chính sách tiền tệ đã có những thành công nhất định trong việc kiềm chế lạm phát ở
18


mức một con số, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Để việc điều hành chính sách tiền tệ
đạt được hiệu quả cao thì nền kinh tế phải có những nền tảng vững chắc trên bình diện
kinh tế vĩ mô cũng như sự ủng hộ của công chúng và thể chế.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, các thể chế tài chính, tài khóa, tiền tệ chưa thật vững
mạnh, thể hiện ở thực trạng hệ thống ngân hàng, tình hình thu chi ngân sách cũng như
tính độc lập của Ngân hàng Trung ương.
3.1. Giai đoạn 1: chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011
3.1.1. Một số kết quả đạt được của chính sách tiền tệ
Trong thời gian qua, việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
đã không ngừng được hoàn thiện. Điều hành chính sách tiền tệ được từng bước đổi
mới trong việc xác định mục tiêu chính sách tiền tệ, việc quản lý, vận hành cơ chế
cung ứng tiền, điều tiết tiền tệ thông qua việc lựa chọn sử dụng đồng bộ các công cụ
chính sách tiền tệ. Mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ hướng vào việc ổn định tiền
tệ, kiểm soát lạm phát, tạo môi trường ổn định để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm
bảo an toàn hệ thống. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chuyển dần từ công cụ trực
tiếp sang công cụ gián tiếp để nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ, các công cụ
chính sách tiền tệ đã được thiết lập và đang dần hoàn thiện theo thông lệ quốc tế.
Công tác huy động vốn của hệ thống Ngân hàng không ngừng được đẩy mạnh,
đáp ứng nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển đất nước. Hoạt động kinh doanh
của các tổ chức tín dụng tiếp tục tăng trưởng góp phần tích cực thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng bền
vững.
3.1.2. Những hạn chế của chính sách tiền tệ
Trong thời gian qua, điều hành chính sách tiền tệ còn một số tồn tại, hạn chế sau:
- Mục tiêu cuối cùng chưa rõ ràng, chưa có lựa chọn ưu tiên: Từ khi thực hiện
Luật Ngân hàng Nhà nước đến nay, về cơ bản, có thể thấy rằng chính sách tiền tệ luôn
theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát và góp phần thúc đẩy
19


phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Luật Ngân hàng Nhà nước không quy định rõ mục tiêu
hàng đầu/mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Do vậy, trên thực tế, việc điều
hành chính sách tiền tệ có khó khăn nhất định nhất là khi cần có sự đánh đổi giữa các

mục tiêu kiểm soát lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Chính vì việc chưa xác định rõ
các mục tiêu điều hành, nên trong một số thời điểm đã tác động đến việc hoạch định
và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, chính sách tiền tệ đôi khi
còn bị động và chậm phản ứng với những thay đổi của thị trường.
- Quá nhiều mục tiêu trung gian: Ngân hàng Nhà nước chưa xác định rõ ràng
mục tiêu trung gian nên trong thực tế, nên bên cạnh Tổng phương tiện thanh toán
(M2) đóng vai trò là mục tiêu trung gian, việc điều hành các công cụ chính sách tiền
tệ nhiều lúc hướng vào kiểm soát tín dụng, lãi suất thị trường và tỷ giá. Với việc chính
sách tiền tệ hướng vào nhiều mục tiêu trung gian như vậy nên nhiều khi việc điều
hành CSTT còn bị động, hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ chưa cao, điều tiết thị
trường không đạt được mục tiêu mong muốn.
- Ngân hàng Nhà nước chưa xác định rõ được cơ chế truyền dẫn các tác động của
chính sách tiền tệ: Việc xác định rõ cơ chế truyền dẫn có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Cơ chế truyền dẫn rõ ràng cho phép Ngân
hàng Trung ương có các quyết sách đúng trong điều hành các công cụ CSTT để
hướng tới mục tiêu mong muốn. Trên thực tế, hiện nay Ngân hàng Nhà nước chưa có
những phân tích lượng hóa cụ thể mức độ tác động của sự thay đổi cung tiền của
Ngân hàng Nhà nước đến mục tiêu cuối cùng của CSTT, và sự thay đổi cung tiền này
có tác động ở mức độ nào đến tín dụng nền kinh tế, đến tổng phương tiện thanh toán,
đến lãi suất hay tỷ giá.... Việc chưa xác định được cơ chế truyền dẫn đã hạn chế phần
nào đến các quyết định của Ngân hàng Nhà nước khi thị trường có những biến động.
- Hệ thống các tiêu chí tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự rõ ràng để
truyền tải tác động của các quyết định chính sách đến mục tiêu hoạt động, mục tiêu
trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
20


Cụ thể: (i) Tác động của Tổng phương tiện thanh toán (M2) đến các biến số của
nền kinh tế chưa rõ ràng. Diễn biến của tổng phương tiện thanh toán M2 với ý nghĩa
là mục tiêu trung gian 64Khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế theo nghĩa rộng (M2),

hay tổng phương tiện thanh toán) bao gồm: Tổng lượng tiền mặt ngoài hệ thống ngân
hàng + tiền gửi bằng VND và bằng ngoại tệ của dân cư, doanh nghiệp tại các ngân
138 không phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức lạm phát. Ngân hàng Nhà
nước không hoàn toàn chủ động trong việc kiểm soát M265, cũng như tốc độ tăng M2
thực tế;
(ii) Tương quan giữa lượng tiền cung ứng và lạm phát ở Việt Nam cũng không rõ
ràng. Trên thực tế, chúng ta muốn kiểm soát lạm phát nhưng ngay cả việc kiểm soát
đối với lượng tiền cung ứng cũng khó khăn; (iii) Trong dự báo lượng tiền tác động
đến Tổng cung ứng tiền tệ (MS) và tín dụng nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước coi
Tổng khối lượng tiền cơ bản (MB) là mục tiêu hoạt động, song trong quá trình điều
hành chỉ thực hiện điều tiết một số nhân tố tác động đến MB, chưa điều tiết toàn bộ
MB. Thực chất chỉ điều hành khối lượng tiền Chính phủ cho phép cung ứng trong
năm, chưa điều hành mức tăng MB – lượng tiền thực sự cung ứng ra cho nền kinh tế
(là lượng tiền tác động đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và ổn định hệ thống).
- Khả năng điều tiết các điều kiện thị trường như cung tiền, lãi suất còn hạn chế,
hiệu quả chưa cao, do Ngân hàng Nhà nước chưa kiểm soát được toàn bộ các luồng
tiền tệ trong nền kinh tế như luồng ngoại tệ ra/vào đất nước, hoạt động cho vay của
các tổ chức tài chính khác, các khoản thu chi ngân sách và hoạt động ngân hàng của
các tổ chức khác.
- Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chưa đạt hiệu quả cao do việc lựa
chọn, sử dụng, xác định chức năng cơ bản của từng công cụ chính sách tiền tệ để điều
hành phù hợp với mục tiêu hoạt động còn hạn chế. Điều hành cung ứng tiền còn bị
động bởi việc cung ứng tiền cho các mục tiêu chỉ định của Chính phủ. Việc lựa chọn

21


lãi suất chủ đạo và xây dựng cơ chế điều hành lãi suất còn đang ở giai đoạn tìm tòi,
thử nghiệm.
- Việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước còn mang dấu ấn

hành chính. Điều này được minh chứng rõ nhất thông qua các xử lý thắt chặt tiền tệ
để chống lạm phát trong những tháng đầu năm 2008, những tháng cuối năm 2010 và
từ năm 2011 đến nay thông qua việc áp dụng các mức trần lãi suất huy động và cho
vay. Ngân hàng Nhà nước chưa thực sự kiểm soát hết các nhân tố tác động đến M2,
nhất là các nhân tố làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng và cho vay chính phủ ròng.
- Chính sách tiền tệ chủ yếu còn mang tính ngắn hạn. Mặc dù cũng có các Kế
hoạch hoạt động ngân hàng 5 năm, Chiến lược phát triển ngân hàng tầm nhìn 10 năm,
nhưng các định hướng dài hạn có tính chiến lược thực sự về điều hành chính sách tiền
tệ vẫn chưa được xây dựng một cách rõ ràng, khoa học trên cơ sở các phân tích định
lượng do hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chưa hoàn thiện.
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ
- Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước với vai trò là Ngân hàng Trung ương
còn hạn chế.
- Thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu phát triển ở mức độ thấp, thiếu năng
động, thiếu tính linh hoạt, chưa phản ánh được cung, cầu vốn, các công cụ thị trường
còn rất ít và sử dụng không hiệu quả nên hạn chế khả năng điều tiết tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Thị trường tiền tệ còn có sự
phân tách, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng. Đồng thời, thái độ và
khả năng liên kết hệ thống của các TCTD để hỗ trợ nhau đảm bảo an toàn thanh toán
còn yếu, thậm chí một số ngân hàng lợi dụng lúc khó khăn để cạnh tranh không lành
mạnh, đẩy lãi suất lên cao. Vì vậy, vào một số thời điểm, vốn khả dụng xét trên toàn
hệ thống dư thừa, về nguyên tắc, Ngân hàng Nhà nước cần thu hút tiền về. Nhưng trên
thực tế, NHNN vẫn phải hỗ trợ vốn cho một số TCTD để đảm bảo duy trì ổn định tiền
tệ. Điều này đã làm cho NHNN gặp khó khăn khi thực hiện vai trò điều tiết cuối cùng
22


trên thị trường. Nói cách khác, thị trường tiền tệ chưa đảm nhiệm có hiệu quả là
phương tiện để Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tổng lượng tiền tệ trong nền kinh tế,
chưa tạo ra khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp, lãi suất trên thị trường tiền tệ

chưa thể sử dụng làm lãi suất tham khảo để định giá các tài sản nợ khác.
Theo Luật NHNN, có đến 15 nội dung lớn trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến
điều hành chính sách tiền tệ do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định. Mặt
khác, nghĩa vụ và trách nhiệm về hiệu quả điều hành CSTT của Ngân hàng Trung
ương chưa được xác lập một cách rõ ràng, nguyên nhân của thực trạng trên là do hệ
thống thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau, giữa các cơ quan quản lý
nhà nước với các doanh nghiệp còn nhiều bất cập, qua đó ảnh hưởng nhiều đến các
quyết định chính sách, đến điều tiết thị trường tiền tệ. Cơ sở pháp lý cho các công cụ
thị trường hoạt động còn chưa được ban hành đầy đủ. Thiếu các quy định để tăng
cường tính thanh khoản của các giấy tờ có giá và hạn chế các ngân hàng thương mại
phát hành các công cụ mới. Trình độ quản trị của một số ngân hàng thương mại còn
hạn chế. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng còn thiếu các công cụ và những công cụ
hiện có cũng chưa hoàn chỉnh. Thị trường trái phiếu Chính phủ chưa tạo được đường
cong lãi suất chuẩn để làm cơ sở xác định các mức lãi suất cho các tài sản tài chính
khác.
- Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bước vào hội nhập còn hạn chế về
khả năng quản trị rủi ro, quản lý tài sản có - tài sản nợ. Các ngân hàng thương mại
đang trong giai đoạn cơ cấu lại, có sự chênh lệch lớn về qui mô, chất lượng tài sản,
năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh; khả năng thích ứng với sự biến động của
thị trường còn yếu, đã làm hạn chế hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Các TCTD
chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý thanh khoản, chưa sở hữu hoặc sở hữu
không nhiều các giấy tờ có giá làm dự trữ thanh khoản, một số TCTD sử dụng vốn
ngắn hạn thậm chí vay vốn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay nền kinh tế. Vì
vậy, khi thị trường có biến động, các TCTD này dễ gặp khó khăn về thanh khoản.
23


Trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa có sự luân chuyển vốn thông suốt, thực trạng
trên cũng làm hạn chế nhất định đến khả năng điều tiết tiền tệ của NHNN thông qua
công cụ CSTT.

- Năng lực tài chính của các TCTD còn hạn chế, các TCTD vẫn đang trong quá
trình cơ cấu lại và triển khai dự án hiện đại hoá hệ thống thanh toán. Việc quản lý vốn
tập trung trực tuyến trong hệ thống còn khó khăn. Nhiều TCTD chưa thực hiện được
việc theo dõi, phân tích luồng luân chuyển vốn theo từng kỳ hạn, nên năng lực quản
lý vốn còn 141 hạn chế. Quản trị kinh doanh, khả năng thích ứng với sự biến động
của thị trường còn nhiều bất cập; mục tiêu kinh doanh quá chú trọng về quy mô và lợi
nhuận, coi nhẹ và chưa chấp hành nghiêm túc các quy định đảm bảo cho an toàn
thanh toán. Các TCTD cổ phần mới chuyển từ địa bàn nông thôn lên, có quy mô nhỏ,
đội ngũ cán bộ chưa chuyên nghiệp, nhưng đặt mục tiêu tăng trưởng kinh doanh vượt
quá khả năng quản trị kinh doanh và chất lượng nguồn nhân lực, có nguy cơ rủi ro
cao, đặc biệt là rủi ro về thanh khoản, gây biến động trên thị trường tiền tệ.
- Nền kinh tế còn tình trạng Đô la hóa, vàng hóa đã hạn chế tính hiệu quả của
việc can thiệp vô hiệu của Ngân hàng Nhà nước. Khi luồng vốn nước ngoài vào
nhiều, vượt quá nhu cầu tài trợ thâm hụt cán cân vãng lai, tạo một lượng lớn dư cung
ngoại tệ trên thị trường, NHNN đã tăng cường mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối
nhà nước, điều này đồng nghĩa với việc đưa đồng nội tệ ra. Năm 2007, khi dự trữ
ngoại hối được tích lũy gấp hai lần so với mức dự trữ ngoại hối vào cuối năm 2006,
NHNN đã thực hiện can thiệp vô hiệu thông qua thị trường mở và đã trung hòa
khoảng 90% lượng tiền đưa ra. Tuy nhiên, số liệu tiền tệ cho thấy, năm 2007, M2 vẫn
tăng tới 46% và tín dụng tăng trên 50% so với cuối năm 2006, điều này chứng tỏ khi
nền kinh tế còn tình trạng Đô la hóa thì khả năng kiểm soát tiền tệ khó khăn hơn nhiều
Hình 1. Tăng trưởng cung tiền, tín dụng và lạm phát, 2007-2012

24


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước;
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác chưa chặt
chẽ, còn thiếu một hệ thống thông tin kết nối giữa bộ phận dự báo thị trường và các
Bộ, ngành khác. Sự phối hợp với các Bộ, ngành để dự báo về kinh tế vĩ mô, luồng

vốn đầu tư nước ngoài làm chưa tốt. Hệ thống thông tin phục vụ việc hoạch định
chính sách còn yếu và chưa kịp thời. Trong thời gian gần đây, sự phối hợp giữa các
Bộ, ngành đã được cải thiện hơn nhưng vẫn chưa thực sự đồng bộ. Sự hạn chế trong
trao đổi thông tin giữa các Bộ, ngành quản lý kinh tế vĩ mô như Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch & Đầu tư, Bộ Công thương... với Ngân hàng Nhà nước có ảnh hưởng nhất định
đến tính nhất quán giữa CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô, qua đó làm giảm hiệu
quả điều hành chính sách tiền tệ. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tại Việt Nam chưa
đầy đủ, chất lượng chưa đồng nhất.
Tóm lại, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, các luồng ngoại tệ chảy vào/ra khỏi Việt Nam từ hoạt động xuất, nhập khẩu, đầu
tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp... biến động tương đối mạnh đã làm cho việc điều
hành CSTT trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi việc điều hành CSTT phải ngày càng linh

25


×