Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận Tâm lý học đại cương Nhân cách và sự phát triển nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.37 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu ................................................................................................................... 1
Nội dung ................................................................................................................. 2
Khái niệm chung

I.

Nhân cách ..................................................................................................... 2
Sự phát triển nhân cách ................................................................................ 2
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Yếu tố di truyền ..................................................................................................... 3
Yếu tố môi trường ................................................................................................. 5
Yếu tố giáo dục ...................................................................................................... 8
Yếu tố hoạt động ...................................................................................................10
Yếu tố giao tiếp .....................................................................................................12
III.
Liên hệ thực tiễn .......................................................................................... 14
1.
2.
II.

1.
2.
3.
4.
5.

Kết luận ................................................................................................................. 15

1



MỞ ĐẦU
Khi xem xét hay đánh giá một con người, chúng ta thường hay nói đến
“nhân cách” của người đó. Nó như là tiền đề để ta nhìn nhận giá trị , bản chất một
con người. Khi nhận thức được bản chất của một người ta sẽ có cơ sở quyết định
mối quan hệ với người đó. Vì vậy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
con người là rất quan trọng và luôn được quan tâm trong xã hội. Tuy nhiên chúng
ta đều biết rằng nhân cách không phải ngay từ khi sinh ra đã có. Không ai nói đến
nhân cách với một đứa trẻ mới sinh. Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự
hình thành nên và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, hoạt
động xã hội, vui chơi… Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần dần các
xung động bản năng nguyên thuỷ mà một lúc nào đó bị kiềm chế, chèn ép. Theo
đó, nhân cách là đặc trưng xã hội, là “phẩm chất xã hội” của con người.
Tóm lại nhân cách được hình thành và phát triển do rất nhiều yếu tố, khi
nghiên cứu về nhân cách thì những nhân tố là vấn đề đầu tiên và then chốt cần phải
nhắc đến. Trong phạm vi bài tiểu luận này, em xin phân tích 4 yếu tố ảnh hưởng
đến việc hình thành và phát triển nhân cách đó là yếu tố di truyền, môi trường hoàn cảnh xã hội, nhân tố giáo dục, nhân tố hoạt động và nhân tố giao tiếp.

NỘI DUNG

2


I. KHÁI NIỆM CHUNG
1.

Nhân cách
Nhân cách là một vấn đề trung tâm của tâm lý học (TLH). Là tổ hợp những

đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội

của con người.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách nhưng nhân cách thường được
xác định như là một hệ thống các quan hệ đối với thế giới xung quanh và với bản
thân mình. Trên cơ sở đó ta có thể rút ra một định nghĩa khái quát về nhân cách:
Nhân cách là một tổ hợp những thuộc tính tâm lí của một cá nhân được biểu hiện ở
bản sắc và giá trị xá hội của người ấy. Trong đó “tổ hợp” có nghĩa là những thuộc
tính tâm lý hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau
làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định. Dùng “bản sắc” muốn nói cái
chung của xã hội khi trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người không giống
với tổ hợp khác của bất cứ một người nào khác. Chữ “giá trị xã hội” là muốn nói
những thuộc tính đó thể hiện ra ở những việc làm, những cách ứng xử, hành vi,
hành động, hoạt động phổ biến của người ấy được xã hội đánh giá
Nhân cách bao gồm 4 đặc điểm: tính ổn định, tính thống nhất, tính tích cực,
tính giao tiếp
2.

Sự phát triển nhân cách
- Sự phát triển về thể chất thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, trọng
lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận động.
- Sự phát triển về mặt tâm lý thể hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá
trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của
nhân cách.
- Sự phát triển về mặt xã hội thể hiện ở sự thay đổi trong cách ứng xử với
người xung quanh, trong sự tham gia tích cực vào đời sống xã hội.
3


II. CẤC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH
Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát triển trong quá trình

sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Như Lênin đã khẳng định : “Cùng với
dòng sữa mẹ,con đường hấp thụ tâm lý, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”.
Nhà tâm lý học nổi tiếng A.L.Leonchiep cũng đã chỉ rằng nhân cách cụ thể là nhân
cách con người sinh thành và phát triển theo con đương từ bên ngoài chuyển vào
nội tâm,từ các quan hệ với thế giới tự nhiên,thế giới đồ vật,nền văn hóa xã hội do
các thế hệ trước tạo ra,các quan hệ xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình
thành, nhân cách bị chi phối của nhiều yếu tố: di truyền, hoàn cảnh sống, giáo dục,
hoạt động, giao tiếp
1.

Yếu tố di truyền
Khi nói tới những yếu tố sinh học trong con người, có thể
hiểu đó là những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái mà
về mặt phát sinh, luôn gắn bó với tổ tông động vật của
con người, những cái làm cho con người hình thành và
hoạt động như một cá thể, một hệ thống phục tùng các
quy luật sinh học, hoặc cũng có thể coi đó là toàn bộ tiền
đề sinh học của con người.
Nói một cách dễ hiểu, di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh
học nhất định, giống với cha mẹ, thông qua hệ thống gen.
VD: Cha mẹ tóc màu đen, mắt nâu thì con cái họ tóc đen hoặc mắt nâu, hay cả 2,
không thể có tóc vàng mắt xanh được

4


Những yếu tố được di truyền này bao gồm: Cấu trúc giải phẫu cơ thể, màu da, màu
tóc, vóc dáng, thể trạng, các tư chất của hệ thần kinh… Những yếu tố này góp phần
nảy sinh ra nhân cách, được coi là tiền đề tiền đề vật chất (mầm mống) của sự phát
triển tâm lý, nhân cách của con người.

Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lí của hệ thần kinh và
các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã nhận được một
số đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể từ các thế hệ trước theo con đường
di truyền trong đó có các giác quan và não. Bất cứ một chức năng tâm lí nào mang
bản chất con người của nhân cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của
bản thân đó và trong điều kiện của xã hội loài người. Thực tế mọi cơ thể bình
thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình.
Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng giai đoạn phát triển
lứa tuổi và từng hoạt động cụ thể là khác nhau. Thực ra, ngay ở cấp độ sinh học, sự
phong phú, đa dạng của nhân cách cũng đã được thể hiện. Khi sinh ra, mỗi người
đã có một bộ gen riêng của mình mà rất hiếm khi trùng với người khác. Do vậy,
mỗi người có khí chất, thiên hướng, khả năng tư duy…. hết sức khác nhau.
Như vậy, Bẩm sinh – di truyền đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành phát
triển tâm lí nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất của các
hiện tượng tâm lí – những đặc điểm giải phẫu và sinh lí của cơ thể, trong đó có hệ
thần kinh. Qua đó ta khẳng định vai trò tiền đề vật chất của yếu tố di truyền với sự
hình thành và phát triển và phát triển nhân cách
Tuy nhiên cần chú ý, yếu tố di truyền bẩm sinh không quyết định nhân cách
mà nó tạo điều kiện thuận lợi hay khó khăn cho quá trình hình thành nhân cách.
Nên cần chú ý đúng mức vai trò của di truyền, không nên coi nhẹ hoặc đánh
giá quá cao vai trò của nhân tố này.
Ví dụ: Tại sao lại có từ “con nhà nòi”, ví dụ trong gia đình nhiều người giỏi về âm
nhạc thì đứa trẻ cũng sẽ có thiên hướng âm nhạc? Đó cũng là quá trình hình thành
nhân cách theo bẩm sinh di truyền. Nếu như trong gia đình, cha và mẹ đều là người
5


tài giỏi thì đó là yếu tố giúp con mình
noi theo.


Ảnh: Bé Nhật Minh – Quán

quân The Voice Kids

Một em học sinh được kế thừa yếu tố di
truyền của mẹ là đàn giỏi thì đó chỉ là
tiền đề cơ sở, nếu không tạo điều kiện
cho em học đàn để phát huy năng
khiếu, và bản thân em đó cũng không

tích

cực học tập thì cũng sẽ không trở thành một người đàn giỏi được.
Có một số quan điểm sai khi nhìn nhận về vai trò của di truyền với sự phát
triển nhân cách:
VD: Cha mẹ sinh con, trời sinh tính  Nhân cách là một tiến trình có tính chất tiền
định.
VD: Con nhà nông không giống lông cũng giống cánh  Các quan điểm cực đoan
phiến diện tuyệt đối hoá vai trò của yếu tố di truyền.
VD: Con vua thì lại làm vua  Quan điểm phân biệt chủng tộc.
VD: Quan điểm “trẻ em như một tờ giấy trắng mà người dạy dỗ có thể vẽ bất kỳ
cái gì cũng được”  Quan điểm xem nhẹ, hạ thấp vai trò của yếu tố di truyền.
2.

Yếu tố môi trường
Môi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội xung quanh cần thiết cho
sự sinh hoạt và phát triển của con người.
Môi trường tự nhiên: Gồm khí hậu, đất, nước, sinh thái phục vụ cho học tập, lao
động, rèn luyện sức khỏe, vui chơi giải trí.. .
Môi trường xã hội: Gồm các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa…

a)

Môi trường tự nhiên.

6


Những điều kiện tự nhiên quy định đặc điểm của phương thức hoạt động của
con người trong tự nhiên và một số nét riêng trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật.
Qua đó quy định các giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ nhất định. Hay có
thể nói tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự nhiên thông qua khâu trung
gian là phương thức sống. Ngay cả nhiều phong tục tập quán suy cho cùng cũng
đều có nguồn gốc từ điều kiện và hoàn cảnh sống tự nhiên. Nhân cách như là một
thành viên xã hội chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị
vật chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của
nghề nghiệp - những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy và qua phương
thức sống của chính bản thân nó.
Ví dụ: con người Việt Nam, sinh ra trong một đất nước đã từng trải qua các cuộc
chiến tranh gian khổ để giành được độc lập, một đất nước đi lên từ nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, nên con người Việt Nam là những con người kiên cường, cần
cù, chịu khó và chính những điều đó đã ảnh hưởng đến nhân cách con người Việt
Nam. Tuy nhiên hoàn cảnh tự nhiên không giữ vai trò quan trọng và quyết định
trong sự phát triển tâm lý nhân cách. Những hoàn cảnh tự nhiên hoàn toàn có thể
điều chỉnh, khắc phục được.
b)

Môi trường xã hội.
Môi trường xã hội là toàn các mối quan hệ xã hội mà con người sống và tiếp
xúc. Nó có ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Vì nếu không có sự tiếp
xúc với con người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó

không thể trở thành một con người, một nhân cách. Có nghĩa là đứa trẻ muốn trở
thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri thức, kinh
nghiệm lịch sử xã hội, để được chuẩn bị bước vào cuộc sống và lao động trong văn
hóa của thời đại. có thể nói nhân cách là một sản phẩm của xã hội.

7


Quan hệ sản xuất quy định nội dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân
cách. Ngoài ra tâm lý nhân cách phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. Vị
trí giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này mức độ
khác trong vai trò xã hội.
Trong tất cả những mối quan hệ xã hội được nêu ở trên, nhân cách không chỉ
là một khách thể mà còn là một chủ thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể
lựa chọn phương thức sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng khác
nhau trước tác động của hoàn cảnh xã hội. Dư luận được hình thành thầm lặng
hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực trong đời sống được bắt
nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát triển trên tâm trạng xã hội và
có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của môi trường đối với nhân cách: Một môi
trường xã hội lành mạnh, như nền dân chủ, các quan hệ xã hội, điều kiện văn hoá tinh thần của xã hội có sự phát triển hài hoà… thì sẽ tạo điều kiện cho tính tích cực
của nhân cách phát huy.
Ngược lại, tính tích cực xã hội của nhân cách sẽ bị thui chột đi, nếu môi
trường xã hội không tạo điều kiện cho nó bộc lộ. Trong một chừng mực nào đó,
điều này không những làm cho nhân cách bị nghèo nàn, mà còn có thể dẫn tới sự
phá vỡ nhân cách.
Ví dụ: Trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ. Khi
được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong
xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô
đi lại bằng hai chân, nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi khá nhanh.

Ảnh minh họa. (Ảnh: Julia Fullerton-Batten)

Người ta dạy nói cho Kamala trong bốn năm, nhưng cô chỉ nói được hai từ. Cô
không thể thành người và chết ở tuổi 18. Người ta đã được biết trên 30 trường hợp
như vậy.
8


Hoàn cảnh là môi trường nhỏ có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự hình
thành phát triển nhân cách cá nhân. Trong đó môi trường xã hội có ý nghĩa quan
trọng đối với sự hình thành phát triển nhân cách.
3.

Yếu tố giáo dục
Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục giữ vai
trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Giáo dục là một hoạt động chuyên môn
của xã hội nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu
của xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu như là quá trình tác động có ý
thức,có mục đích và có kế hoạch về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập thể
trẻ em và học sinh,trong gia đình và cơ quan giáo dục ngoài nhà trường. Nhưng
thực ra giáo dục còn có nghĩa rộng hơn, giáo dục bao gồm cả việc dạy học cùng
với hệ thống các tác động sư phạm khá, trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớ và ngoài
lớp, trong trường và ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. vai trò chủ đạo
của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể
hiện ở những điều sau đây:
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh theo chiều
hướng đó.
Giáo dục có thể mang lại những cái mà các yếu tố bẩm sinh - di truyền hay

môi trường tự nhiên không thể đem lại được. Chảng hạn,nếu đứa trẻ sinh ra không
bị khuyết tật thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể,đến một giai đoạn nhất
định đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn biết đọc được .
Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật đem lại cho con người.
Ví dụ: giáo dục trẻ em bị khuyết tật có thể được phục hồi những chức năng đã
mất,hoặc có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường.
Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu do tác động tự phát
của môi trường gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của
9


xã hội. Chẳng hạn như giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo lao động đối với người
phạm pháp.
Giáo dục có thể đi trước hiện thực , trong khi tác động tự phát của xã hội chỉ
ảnh hưởng tới cá nhân ở mức đọ hiện có của nó. Chẳng hạn,mục tiêu giáo dục của
chúng ta là xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa. Những công trình
nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại đã chứng minh rằng sự hát triển
tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong điều kiện của sự dạy
học và giáo dục.
Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra đường hướng cho sự hình thành và phát triển
tâm lý của học sinh và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng đó.
Còn cá nhân học sinh có phát triển theo hướng đó hay không, phát triển đến mức
độ nào điều này giáo dục không trực tiếp quyết định được. Vì vậy, không tuyệt đối
hoá vai trò của giáo dục. Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người kỹ
năng kỹ xảo, mặt khác hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm lý cần
thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Cần tiến hành giáo dục trong mối quan hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt
động, tổ chức quan hệ GT, HĐ cùng nhau trong các mối quan hệ xã hội, nhóm và
tập thể; biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục
Giáo dục giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành tâm lý và phát

triển nhân cách. Gia đình, nhà trường và xã hội muốn đạt tới sự hoàn thiện nhân
cách của trẻ cần quan tâm rất lớn đối với hoạt động giáo dục
4.

Yếu tố hoạt động cá nhân
Hoạt động là sự tác động qua lại có định hướng giữa con người với thế giới
xung quanh, hướng tới biến đổi nó nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Con đường
tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến thế hệ trẻ sẽ không có
hiêu quả nêu như bản thân cá nhân học sinh không tiếp nhận, không hương ứng
những tác động đó, không trực tiếp tham gia vào các hoạt động nhằm phát triển
10


tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi vạy, hoạt động chủ đạo đóng vai trò chủ yếu
trong sự hình thành và phát triển nhân cách so với các loại hoạt động khác của cá
nhân.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật về sự tự thân vận động, về động
lực bên trong của sự phát triển nói chung. Hoạt động của cá nhân nhằm để thỏa
mãn những nhu cầu tự nhiên hay nhu cầu xã hội,vật chất hay tinh thần của đời sống
riêng hay đời sống xã hội là những biểu hiện phong phú về tính tích cực của nhân
cách. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người,là nhân tố quyết định trực
tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động
có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác
nhất định,với những công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và
chủ thể hóa trong hoạt động và nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người
lĩnh hội kinh nghiệm xã hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân để hình thành
nhân cách.
Muốn hình thành nhân cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt
động khác nhau, trong đó đặc biệt chú ý tới hoạt đồng chủ đạo. Phải lựa chọn, tổ
chức và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và hiệu quả đối với việc

hình thành và phát triển nhân cách.
Việc đánh giá hoạt động là rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách.
Việc đánh giá sẽ chuyển dần thành tự đánh giá, giúp con người thấm nhuần những
chuẩn mực, những biểu giá trị xã hội, trở thành lương tâm của con người.
Ví dụ: Cách dễ nhất để kết

hợp cả việc học và

chơi với nhau là nên thông

qua

những

hoạt

động hàng ngày của trẻ em.
Trẻ có thể học được rất nhiều

bài học thông qua

việc phân loại quần áo như

phân biệt kích cỡ
11


quần áo lớn nhỏ, màu sắc quần áo, kiểu quần áo. Ngược lại nếu trẻ không tham gia
vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách xử sự của người lớn,
không học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất và năng lực

của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải hướng dẫn, tổ chức và lôi kéo trẻ tham
gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
5.

Yếu tố giao tiếp
Nhà tâm lý học Xô Viết B.Ph.Lomov cho rằng “khi chúng ta nghiên cứu lối
sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem
nó làm cái gì và như thế nào, mà còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và
như thế nào”. Vì thế cùng với hoạt động có đối tượng, giao tiếp có một vai trò quan
trọng cơ bản trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người, là nhu cầu cơ
bản xuất hiện sớm nhất ở con người. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu
xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở con người. Thực tế chứng minh những trường
hợp do động vật nuôi đã mất bản tính người , mất nhân cách và chỉ còn lại những
điểm tâm lý, hành vi của con vật. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng sự
giao tiếp quá hạn chế, nghèo nàn đã dẫn đến những hậu quả nặng nề là dễ mắc
bệnh “ đói giao lưu do nằm viện lâu ngày” (hospitalism).
Nhờ giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn
hóa xã hội, chuẩn mực xã hội “ tổng hòa các quan hệ xã hội” làm thành bản chất
con người, đồng thời thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào
kho tàng chung của nhân loại, của xã hội. Trong giao tiếp con người không chỉ
nhận thức người khác, nhận thức các quan hệ xã hội mà còn nhận thức được chính
bản thân mình, tự đối chiếu so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, tự
đánh giá bản thân mình như một nhân cách để hình thành một thái độ giá trị cảm

12


xúc nhất định đối với bản thân. Hay qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự
ý thức.

Ví dụ: Khi giao tiếp thì ta sẽ biết được cách thức giao tiếp của người đó. Từ đó
hình thành khả năng giao tiếp riêng cho bản thân mình. Khi mình giao tiếp với
nhiều đối tượng, với nhiều người thì ta sẽ rút ra được nhiều kinh nghiệm cho việc
giao tiếp của mình.
Vai trò của giao tiếp trong nhóm và tập thể:
Nhóm: là một tập hợp người được thống nhất lại theo những mục đích chung.
Tập thể: là một nhóm người, một bộ phận của xã hội được thống nhất theo những
mục đích chung, phục tùng các mục đích của xã hội.
Vì vậy, vận dụng nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách
====> Tóm lại:
Cả 5 yếu tố trên đều tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng có
vai trò không giống nhau. Yếu tố di truyền giữ vai trò làm tiền đề tự nhiên, cơ sở
vật chất. Yếu tố hoàn cảnh sống có vai trò quyết định. Yếu tố giáo dục giữ vai trò
chủ đạo. Còn yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Trong thực tế, 5 yếu tố trên không tác động một cách riêng rẽ mà chúng
cùng tác động vào sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoàn thiện nhân cách vừa
là nhu cầu của cá nhân, vừa là yêu cầu khách quan của xã hội. Nhận thấy được tầm
quan trọng của tâm lý nhân cách nên ngày nay vấn đề giáo dục, bồi dưỡng tâm lý

13


nhân cách rất được gia đình, nhà trường và xã hội quan tâm, chú trọng, vì trẻ em
ngay từ khi còn nhỏ đã bắt đầu hình thành nhân cách.
Liên hệ với đất nước ta, đất nước ta đang trong quá trình đổi mới kinh tế,
phát triển công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong những năm qua, chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó tác

động đến mỗi thành viên trong xã hội, làm phong phú đa dạng thêm đồng thời
cũng phức tạp thêm lối sống của mỗi người, đặc biệt ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của lớp trẻ.
Thực tiễn cho thấy trong mấy năm gần đây, thang giá trị của xã hội đang có
sự thay đổi nhanh chóng. Chính sự thay đổi một số giá trị dẫn đến sự thay đổi đặc
điểm nhân cách của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới. Định hướng giá trị là yếu
tố quan trọng nhất của cấu trúc bên trong nhân cách. Chúng ta đang trong quá trình
vận động và chuyển đổi trên mọi lĩnh vực.
Vì vậy, không thể không có sự chuyển đổi thang giá trị, biểu định hướng giá
trị trong việc kế thừa và duy trì các giá trị truyền thống và hình thành những giá trị
chuẩn mực mới, tiếp cận thời đại. Những giá trị truyền thống gia đình, tình nghĩa,
đề cao cái tâm, chữ tín và đạo hiếu, lễ nghĩa vẫn được duy trì nhằm hạn chế, khắc
phục tính ích kỷ, thờ ơ thậm chí là lạnh lùng của một số người dưới tác động của
cơ chế thị trường.
Tính cộng đồng vẫn được quan tâm nhưng bên cạnh đó một số giá trị phẩm
chất cá nhân ngày càng được đề cao như: Học vấn, sức khoẻ, sáng tạo, tự lập, tự
trọng, tinh thần khám phá, chí tiến thủ,… Mục tiêu, yêu cầu của mô hình nhân cách
tuổi trẻ Việt Nam cần phải có sự kết hợp những giá trị chuẩn mực truyền thống và
mô hình phát triển của con người Việt Nam XHCN

14


KẾT LUẬN
Như vậy có năm nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân
cách là di truyền,hoàn cảnh sống,giáo dục, hoạt động và yếu tố giao tiếp. Mỗi nhân
tố có những hướng tác động khác nhau tới sự hình thành và phát triển nhân cách
con người.
Trong 5 nhân tố đó, hoạt động tích cực cá nhân là nhân tố quyết định trực
tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Công lao to lớn của C.Mac là đã

vạch ra cho chúng ta sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa sự biến đổi môi trường
xung quanh con người, sự biến đổi bản chất con người và vai trò tích cực, năng
động của con người. Theo ông, môi trường, giáo dục không phải là sự tác động bên
ngoài vào sự hình thành những phẩm chất nào đó của con người mà là quá trình tự
biến đổi con người.
C.Mac đã khẳng định:”Hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực
con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.
Có thể thấy sự hình thành và phát triển nhân cách đã và đang và luôn được
quan tâm chú ý trong xã hội. Mà nhân cách lại bị ảnh hưởng chi phối của nhiều yếu
15


tố. Nên việc phân tích, tìm hiểu vai trò của các yếu tố tác động đến sự hình thành
và phát triển nhân cách có ý nghĩa vô cùng lớn không chỉ ở phương diện lý luận,
nghiên cứu tâm lý học mà còn cả ở trong thực tiễn.

16



×