Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận tài chính công CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CHỨNG MINH TỪ CÁC QUỐC GIA OECD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.35 KB, 31 trang )

Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP HỒ CHÍ MÍNH
Khoa: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
GV phụ trách: GVC.Sử Đình Thành
Học phần: TÀI CHÍNH CÔNG
Chủ đề bài nghiên cứu:
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
CHỨNG MINH TỪ CÁC QUỐC GIA OECD
Danh sách nhóm số 14 lớp TCDN – CH22:
1) Võ Thị Thúy Diễm (Nhóm trưởng - SĐT: 0909 070 436)
2) Trần Thân Bích Hợp
3) Phan Thị Thanh Kiều
4) Hứa Ngọc Lợi
5) Trần Thị Trang
6) Trương Phú Trí
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
MỤC LỤC
TÓM TẮT 1
GIỚI THIỆU 1
2. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU 3
3. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM HIỆN CÓ 6
4. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ 7
4.1 Dữ liệu và phương pháp: 7
4.2 Kết quả thực nghiệm: 13
4.2.1. Mis-specifying the budget constraint 15
4.3. Thử nghiệm Robustness 18
4.3.1 GDP ban đầu 18
4.3.2 Thay thế những khoảng thời gian 5 năm 18
4.3.3 Ước lượng biến công cụ 20
4.3.4 Phân loại lại các biến tài chính 22
5. KẾT LUẬN 26


Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
DANH S ÁCH NH ÓM
1. Võ Thị Thúy Diễm
2. Trần Thị Trang
3. Trần Thân Bích Hợp
4. Phan Thị Thanh Kiều
5. Hứa Ngọc Lợi
6. Trương Phú Trí
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
TÓM TẮT
Có phải bằng chứng phù hợp với dự đoán của các mô hình tăng trưởng nội sinh là cấu
trúc thuế và chi tiêu công có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ổn định? Nhiều
nghiên cứu trước đây cần phải được đánh giá lại bởi vì nó bỏ qua những sai lệch liên
quan phương pháp kỹ thuật không hoàn thiện của ràng buộc ngân sách nhà nước.
Chúng tôi chỉ ra những sai lệch quan trọng và điều chỉnh chúng, tìm thấy hỗ trợ mạnh
mẽ cho mô hình Barro (1990, Chi tiêu chính phủ trong một mô hình đơn giản của tăng
trưởng nội sinh. Tạp chí Kinh tế Chính trị 98 (1), trang 103-117, cho một nhóm 22
quốc gia OECD, 1970-1995. Cụ thể chúng tôi phát hiện ra rằng: (1) sự bóp méo thuế
hạn chế tăng trưởng, trong khi không bóp méo thuế thì không, và (2) chi tiêu chính
phủ cho sản xuất thúc đẩy sự tăng trưởng, trong khi chi tiêu chính phủ phi sản xuất thì
không. 1999 Elsevier Science SA Tất cả các quyền được giữ kín.
GIỚI THIỆU
Có phải những chia sẻ trong chi tiêu chính phủ, hoặc các thành phần của chi phí và
doanh thu, ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng trong dài hạn? Theo mô hình tăng trưởng tân
cổ điển của Solow (1956) và Swan (1956), câu trả lời phần lớn là "không". Thậm chí
chính phủ có thể tác động đến tốc độ tăng trưởng dân số, ví dụ như giảm tỷ lệ tử vong trẻ
sơ sinh hoặc khuyến khích sinh đẻ, những điều trên không ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng của thu nhập bình quân trong dài hạn. Trong các mô hình này, thuế và các biện
pháp chi tiêu ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm hoặc khuyến khích đầu tư trong vốn vật chất
hay con người cuối cùng ảnh hưởng đến tỷ lệ yếu tố cân bằng hơn tốc độ tăng trưởng ổn

định.
Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, ngược lại, đầu tư vào vốn vật chất và con
người làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ổn định, và do đó có phạm vi rộng hơn
trong các mô hình ít nhất là một số yếu tố cơ bản thuế và chi tiêu chính phủ đóng một vai
trò trong quá trình tăng trưởng. Vì những đóng góp tiên phong của Barro (1990), King và
Rebelo (1990) và Lucas (1990), một số nghiên cứu đã mở rộng việc phân tích thuế, chi
1
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
tiêu công và tăng trưởng, thể hiện các điều kiện khác nhau mà theo đó các biến tài chính
có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn (xem, ví dụ, Jones và cộng sự, 1993;. Stokey
và Rebelo, 1995;. Mendoza và cộng sự, 1997)
Nếu lý thuyết là khá rõ ràng, nhưng bằng chứng thực nghiệm thì không phải vậy.
Theo Stokey và Rebelo (1995, trang 519), “ước tính gần đây của sự phát triển tiềm năng
dưới tác động của cải cách mạnh mẽ về thuế khác nhau, khoảng từ 0 đế-8%’'. Trên thực
tế, hầu như không có nghiên cứu đã được thiết kế để kiểm tra các dự đoán của mô hình
tăng trưởng nội sinh đối với cấu trúc của cả thuế và chi tiêu với cách mà chúng ta làm ở
đây ((1996) Devarajan và các cộng sự. làm như vậy với chỉ khía cạnh chi tiêu). Hơn nữa,
vài nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng nghiên cứu một phần (ví dụ như những người tập
trung đặc biệt ở một khía cạnh của ngân sách và bỏ qua những phần khác) trải qua những
sai lệch có hệ thống với các tham số ước tính kết hợp với các giả định tài chính tuyệt đối.
Quan điểm này đã được chứng minh bởi Helms (1985), Mofidi cùng với Stone (1990) và
Miller cùng với Russek (1993) cho bộ dữ liệu khác nhau. Chúng tôi khám phá ý nghĩa
của lập luận này với các phương pháp kỹ thuật hồi quy và cho thấy rằng, nếu điều này bị
bỏ qua, những sai số ước tính sự tăng trưởng dưới tác động của các biến tài chính có thể
là đáng kể. Vấn đề này giả định quan trọng hơn là lý thuyết ngày càng trở nên tinh chế
trong dự báo của nó dưới tác động của từng phần của chi tiêu và thuế đối với tăng trưởng.
Trong bài báo này, chúng tôi kiểm tra những dự đoán cụ thể của mô hình tăng
trưởng nội sinh gần đây về chính sách công như là Barro (1990) và Mendoza cùng các
cộng sự (1997), chú ý cẩn thận tránh sai lệch nguồn gốc đã được đề cập. Sử dụng các tiêu
chuẩn đề xuất của các mô hình này để phân loại dữ liệu tài khóa, chúng ta xem xét hiệu

quả tăng trưởng của chính sách tài khóa đối với bảng danh sách của 22 quốc gia OECD
trong 1970-1995. Chúng ta thấy: (i) Sự hỗ trợ lớn cho các dự đoán của Barro (1990) liên
quan các tác động với của cấu trúc thuế và chi tiêu lên tăng trưởng; (ii) sai số kỹ thuật của
ngân sách chính phủ dẫn đến ước lượng tham số rất khác nhau, trong khi các nghiên cứu
trước đó đã làm được sai sót không rõ nét, và (iii) kết quả của chúng tôi có một số thay
đổi rõ nét trong việc phân loại dữ liệu hoặc hồi quy kỹ thuật.
2
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Phần còn lại của bài báo được tổ chức như sau: Trong phần 2 chúng tôi tóm tắt
những dự báo quan trọng của mô hình tăng trưởng nội sinh gần đây về chính sách công
và thảo luận những tác động của sự hạn chế ngân sách nhà nước qua kiềm tra trong thực
nghiệm. Các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan được trình bày trong phần 3. Sau đó
phần 4 thảo luận về phương pháp thực nghiệm và kết quả cho mẫu OECD của chúng tôi,
và phần 5 là một số kết luận.
2. GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
Như chúng ta biết, mô hình tăng trưởng tân cổ điển của chính sách công( theo ví dụ
của Judd năm 1985 và Chamley năm 1986) cho rằng chính sách tài khóa quyết định sản
lượng hơn là tỷ lệ tăng trưởng dài hạn. Tỷ lệ tăng trưởng được quyết định bởi các nhân tố
ngoại sinh của sự tăng trưởng dân số và sự phát triển công nghệ kỹ thuật. Trong khi đó
chính sách tài khóa chỉ có thể tác động đến cách chuyển đổi đối với trạng thái ổn định
này.
Ngược lại, mô hình tăng trưởng nội sinh của chính sách công của Barro (1990),
việc chính sách tài khóa quyết định cả sản lượng và tỷ lệ tăng trưởng ổn định.
Những mô hình từ sự tăng trưởng nội sinh này được xuất phát từ các nhân tố phân
loại của ngân sách chính phủ vào một trong bốn loại: thuế bóp méo, thuế không bóp méo,
chi tiêu sản xuất và chi tiêu phi sản xuất Những loại thuế trong nội dung này là những
loại mà ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của khách hàng ( trong vốn vật chất và vốn con
người), tạo ra thuế và tỷ lệ tăng trưởng ổn định. Thuế không gây bóp méo không ảnh
hưởng đến quyết định tiết kiệm/ đầu tư bởi vì bản chất giả định của chức năng ưu tiên, và
do đó không ảnh hưởng đến tỷ lệ tăng trưởng. Chi phí chính phủ khác biệt cho dù chúng

thuộc lập luận trong chức năng sản xuất tư nhân hay không. Nếu có, thì sau đó chúng
được phân loại như chi tiêu sản xuất và do đó có một ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ tăng
trưởng. Nếu không, chúng được phân loại như chi tiêu phi sản xuất và không ảnh hưởng
đến tỷ lệ tăng trưởng ổn định( theo Barro và Sala-i-Martin,1995, trong sự trình bày lý
thuyết rõ ràng).
3
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Những kết quả này có thể được mở rộng trong nhiều cách khác nhau, ví dụ cho
phép hàng hóa của chính phủ là chi tiêu sản xuất trong thị trường ổn định hơn là thị
trường động ( theo Glomm va Ravikumar, 1994,1997) hoặc đối với các loại thuế khác
nhau là thuế bóp méo ( hay đối với chi tiêu sản xuất) theo các cấp độ khác nhau( theo
Devarajan et al.,1996; Mendoza et al., 1997). Dĩ nhiên có thể có một vài tranh luận về sự
phân loại của những chi tiêu đặc biệt như chi tiêu sản xuất và chi tiêu phi sản xuất, hoặc
thuế bóp méo hoặc thuế không gây bóp méo, và đây là mốc mà chúng ta quay về phần
thực nghiệm.
Những mô hình này dự đoán rằng sự thay đổi trong lập trường doanh thu từ hình
thức thuế gây bóp méo đến hình thức thuế không gây bóp méo có ảnh hưởng hiệu lực
tăng trưởng, trong khi đó sự thay đổi chi tiêu từ chi tiêu sản xuất qua chi tiêu phi sản xuất
là tăng trưởng chậm. Sự tăng lên của thuế không gây bóp méo trong chi tiêu sản xuất
được dự đoán có một tác động tích cực trong tỷ lệ tăng trưởng. Trong khi đó đối với thuế
gây bóp méo hiệu quả tăng trưởng được dự đoán là không rõ ràng. Cuối cùng chi tiêu phi
sản xuất được đánh đổi bởi thuế gây bóp méo có một ảnh hưởng tăng trưởng chậm.
Nhưng một ảnh hưởng bằng 0 được dự đoán nếu thuế không gây bóp méo được sử dụng (
theo Barro, 1990).
Trong nghiên cứu thực nghiệm một đặc điểm riêng biệt của một số tầm quan trọng-
và một đặc điểm mà thường xuyên bị bỏ qua-là tài chính rõ ràng hoặc không rõ ràng của
một sự thay đổi đơn vị trong một yếu tố của ngân sách chính phủ sẽ ảnh hưởng đến hệ số
ước tính. Đặt trong điểm chính thức, gỉa định sự tăng trưởng g
it
trong đất nước I tại thời

điểm t là một biến điều kiện chức năng( hoặc phi tài khóa), Y
it
và một vectơ biến tài khóa
X
jt
.
Giả định rằng tất cả các nhân tố của ngân sách ( bao gồm thâm hụt và thặng dư),
để:
4
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Một yếu tố của X phải được bỏ qua trong sự dự đoán của phương trình để tránh
cộng tuyến hoàn hảo. Biến bỏ qua hiệu quả đối với yếu tố bồi thường trong giới hạn ngân
sách chính phủ. Vì vậy, nếu chung ta viết lại phương trình:
Và sau đó bỏ qua X
mt
để tránh đa cộng, xác định:
Ngụ ý rằng phương trình thật sự được ước tính là:
Thử nghiệm giả thuyết chuẩn mực của hệ số 0 của X
jt
, là giả thiết vô giá trị trong
thử nghiệm thực tế rằng ( y
j
- y
m
) =0 hơn y
j
=0. Điều đó cho phép rằng giả thiết đúng của
hệ số trên mỗi loại tài chính như là ảnh hưởng của mỗi thay đổi đơn vị trong sự bù đắp
biến liên quan bởi một thay đổi đơn vị trong biến bỏ qua, tiềm ẩn yếu tố tài chính. Nếu
biến chọn bị bỏ qua được thay đổi, hệ số ước tính của biến sẽ thay đổi. Điều này có

nghĩa rằng các điều tra viên phải cẩn thận trong việc lựa chọn một biến bỏ qua trung lập (
ví dự biến nơi lý thuyết yêu cầu y
m
= 0
).
Ngụ ý rằng có thể kiểm tra trên sự khác nhau giữa hai gía trị y , chứ không phải là
mỗi loại giá trị y độc lập, không loại trừ khả năng kiểm tra liệu hai giá trị y có bằng nhau
không. Điều này phù hợp khi lý thuyết cho rằng có nhiều hơn một loại trung tính ( trong
trường hợp này, thuế không gây bóp méo và chi tiêu phi sản xuất) trong trường hợp cả
hai giá trị y được mong đợi bằng 0. Nếu giả thiết bình đẳng không thể dược từ chối, các
tham số ước tính chính xác hơn có thể đạt được bằng cách bỏ qua cả hai giá trị. Nói cách
5
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
khác, thủ tục chính xác nhất là kiểm tra các đặc điểm kỹ thuật hoàn hảo nhất của han chế
ngân sách chính phủ đối với các đặc điểm kỹ thật yếu hơn, cẩn thận bỏ qua các yếu tố mà
lý thuyết cho rằng sẽ có ảnh hưởng không đáng kể. Nếu điều này không được thực hiện,
các biến chi phí bị bỏ qua từ hồi quy và bao gồm chỉ những biến thuế ( theo Mendoza et
al.m 1997), và vì vậy các kết quả sẽ có sự thiên vị bời vì khoản tài chính một phần tiềm
ẩn bởi các yếu tố không trung tính của ngân sách chính phủ. Trong trường hợp trích dẫn,
vì sự tăng lên một đơn vị thuế sẽ một phần tài trợ cho chi phí sản xuất, ước tính tác động
sẽ thiên về 0 ( chúng tôi sẽ trình bày chứng minh điều này sau đó).
3. BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM HIỆN CÓ
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm kiểm tra mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh
tế và những biến tài chính đã có trước mô hình tăng trưởng nội sinh chính sách công đề
cập phía trên, và thay đổi về tập dữ liệu, chất lượng và kỹ thuật kinh tế. Nhiều tài liệu
trước năm 1990 theo từng sự vụ tự nhiên đã cung cấp kết quả tốt nhất nhưng chỉ là kiểm
tra thô về giá trị thực nghiệm của mô hình tăng trưởng nội sinh (cũng như đang chịu
những định kiến đã đề cập từ trước đó) và kết quả là biến đặc biệt.
Theo Kneller và cộng sự (1998), chúng tôi lập bảng nghiên cứu chính và có được
những kết quả quan trọng, phân loại chúng theo biến tài chính trong hàm hồi quy (thuế,

chi phí chi tiêu chính phủ, chi phí phúc lợi/chi phí chuyển nhượng, đầu tư chính phủ). Có
tính không vững mạnh trên diện rộng của dấu hiệu hệ số và mức ý nghĩa, thậm chí trong
một vài trường hợp những biến tương tự rõ ràng nằm trong những hàm hồi quy được xác
định tương tự, quan điểm này cũng được chứng minh bởi Levine và Renelt (1992).
Easterly và Rebelo (1993) cung cấp bằng chứng tương lai về tính không mạnh mẽ của
biến tài chính thông qua sự phụ thuộc của chúng dựa trên tập hợp các biến điều kiện và
những điều kiện ban đầu.
Tính không mạnh mẽ này có lẽ phản ánh một phần khuynh hướng mở rộng thêm
vào các biến tài chính để hồi quy trong từng phương pháp cụ thể có liên quan mà không
chú ý đến những hạn chế tuyến tính được ngụ ý bởi sự hạn chế ngân sách Chính phủ. Chỉ
có Heims (1985), Mofidi và Stone (1990) và Miller và Russek (1993) đã giải quyết vấn
đề. Ví dụ như Miller và Russek tìm thấy (bảng dữ liệu hàng năm của 39 quốc gia, 1975-
84) ảnh hưởng tăng trưởng của thay đổi trong chi tiêu phụ thuộc vào điều quan trọng là
6
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
thay đổi trong chi tiêu được tài trợ. Thông thường, kết quả cho thấy thay đổi trong chi
tiêu được tài trợ bằng thuế tạo ra các ảnh hưởng tăng trưởng không đáng kể, và tại đây
những ảnh hưởng tiêu cực có khuynh hướng liên quan đến thâm hụt ngân sách thay đổi
trong thuế và chi tiêu. Họ không làm điều này, tuy nhiên, phân biệt sự khác nhau giữa các
loại chi tiêu và thu nhập bằng những mô hình tăng trưởng nội sinh.
Tầm quan trọng của một đặc điểm kỹ thuật hoàn chỉnh của các giới hạn ngân sách
của chính phủ được đưa ra bởi kết quả thực nghiệm gần đây. Mendoza và cộng sự (1997)
kết luận rằng kết hợp nhiều thứ thuế không có tác động đáng kể đến sự phát triển (mặc dù
nó ảnh hưởng đáng kể đến đầu tư tư nhân) nhưng kể từ khi hàm hồi quy bao gồm những
biến không chi tiêu, các ước tính của họ chịu ảnh hưởng bởi một phần tài chính tiềm ẩn
của chi phí sản xuất. Kocherlakota và Yi (1997) lại cho rằng đo lường thuế tác động đáng
kể đến tăng trưởng chỉ khi chi tiêu vốn công bao gồm trong hàm hồi quy. Nhìn lại bằng
chứng của Kneller và cộng sự (1998) cũng bật lên hàng loạt các ước tính về ảnh hưởng
tăng trưởng của chi tiêu chính phủ. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu không bao gồm
các biến thuế. Có một vài sự hỗ trợ cho thấy đầu tư chính phủ vào giao thông vận tải và

thông tin liên lạc có tác động tích cực đến tăng trưởng, trong khi thuế thu nhập cũng có
khuynh hướng tạo nên một hệ số tiêu cực đáng kể tuy nhiên ít nhất quán về các kết quả
nghiên cứu.
4. PHƯƠNG PHÁP VÀ KẾT QUẢ
4.1 Dữ liệu và phương pháp:
7
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Table
1
Bảng 1
Theoretical aggregation of functional
classifications
Kết hợp lý thuyết phân loại
chức năng
Theoretical classification Functional classification Lý thuyết phân loại chức
năng phân loại
Distortionary taxation Taxation on income and profit Thuế thuế
bóp méo
trên thu nhập và lợi nhuận
Social security contributions Đóng góp an sinh xã hội
Taxation on payroll and manpower Thuế trong biên chế và nhân lực
Taxation on property Thuế trên tài sản
Non-distortionary taxation Taxation on domestic
goods and services
Thuế thuế
không gây bóp
méo
đối với hàng hóa và dịch vụ
trong nước
Other revenues Taxation on international trade Các khoản

thu khác
Thuế về thương mại quốc tế
Non-tax revenues Doanh thu không tính thuế
Other tax revenues Thu thuế khác
Productive expenditures General public services
expenditure
Chi phí sản
xuất
chi phí dịch vụ công cộng chung
Defence expenditure chi tiêu quốc phòng
Educational chi tiêu giáo dục
8
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
expenditure
Health expenditure chi tiêu
y tế
Housing expenditure chi phí nhà ở
Transport and communication expenditure Chi phí vận tải và thông tin liên
lạc
Unproductive expenditures Social security and
welfare expenditure
Chi phí
không sản xuất
an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội chi tiêu
Expenditure on
recreation
Chi phí cho giải trí
Expenditure on economic services Chi sự nghiệp kinh tế
Other expenditures Other expenditure

(unclassified)
Chi phí khác chi phí khác (không phân loại)
Note: functional classifications refer to the
classifications given in the data source
Lưu ý: phân loại chức năng tham khảo các phân loại
được đưa ra trong các nguồn dữ liệu
9
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Như đã nói ở trên, trong loại của mô hình tăng trưởng nội sinh có liên quan đến
nghiên cứu này, kết quả được thúc đẩy bởi sự phân loại của các biến tài chính vào một
trong bốn loại. Từ đó chúng ta thêm thặng dư ngân sách nhà nước và các khoản thu và
chi phí mà chúng ta phân loại không rõ ràng (chúng ta gọi chúng là những nguồn thu
khác và "chi phí khác). Chúng tôi tổng hợp phân loại chức năng của IMF
dữ liệu tài chính thành bảy loại chính được mô tả trong Bảng 1 và sau đó kiểm tra
nhạy cảm, kết quả để chúng tôi phân loại dữ liệu. Một vấn đề quan trọng là việc phân bổ
các khoản thuế và chi phí, tương ứng bóp méo / không gây bóp méo và sản xuất / loại phi
sản xuất. trong khi tất cả các loại thuế chính được sử dụng trong các nước OECD là bóp
méo trong một số khía cạnh, trong thử nghiệm mô hình tăng trưởng nội sinh sự biến dạng
liên quan là để khuyến khích đầu tư (trong vốn vật chất và / hoặc con người). Sau Barro
(1990), chúng tôi xử lý thu nhập và thuế bất động sản là 'bóp méo' và thuế tiêu dùng (chi
tiêu cơ bản) là "không gây bóp méo ', với lý do sau này không làm giảm việc tái đầu tư,
mặc dù họ có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn lao động / nghỉ ngơi. Tất nhiên, trong nhiều
mô hình phức tạp (như Mendoza et al., 1997) thuế tiêu thụ làm sai lệch các quyết định
đầu tư (gián tiếp) đến mức mà chúng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các tác nhân như lao
động, giáo dục, giải trí. Tuy nhiên lưu ý, chúng tôi xử lý thuế tiêu thụ "không gây bóp
méo" là một giả thuyết (chúng tôi sẽ thử nghiệm sau),chứ không phải là một giả định
trong các mô hình thực nghiệm của chúng tôi. Phân bổ chi phí thành loại sản xuất / phi
sản xuất theo Barro và Sala-i-Martin (Năm 1995); Devarajan et al. (1996) và coi như chi
phí là đáng kể (vật chất hoặc con người) thành phần vốn là 'sản xuất'. Phần lớn chi tiêu
‘phi sản xuất’ là chi phí an sinh xã hội.

Tập hợp dữ liệu của chúng tôi bao gồm 22 quốc gia phát triển cho giai đoạn 1970-
1995, từ hai nguồn: dữ liệu ngân sách nhà nước của GFSY và TheWorld Bank (Phụ lục
A). Những số liệu này hàng năm, nhưng chúng tôi thực hiện lấy trung bình 5 năm để loại
bỏ những ảnh hưởng của kinh doanh chu kỳ, và chúng tôi áp dụng các kỹ thuật kinh tế
bảng tĩnh. Thông qua cách tiếp cận này làm cho nó dễ dàng hơn để so sánh kết quả của
chúng tôi khi công bố ở những nơi khác. Ở giai đoạn sau, chúng tôi xem xét mức độ nhạy
10
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
cảm để tìm hiểu sự khác biệt về thời gian quy tụ của dữ liệu. Bảng 2 đưa ra một số thống
kê mô tả cho dữ liệu. Tập hợp các biến điều kiện bao gồm tỷ lệ đầu tư, tốc độ tăng trưởng
lực lượng lao động và GDP ban đầu. Có thể thấy rằng các quốc gia mẫu mà chúng tôi đưa
ra phát triển trung bình khoảng 2,8% bình quân đầu người mỗi năm, với tỷ lệ đầu tư vượt
quá 20% và tăng trưởng lực lượng lao động khoảng 1% p.a. Trong số các biến tài chính,
thuế bóp méo của chúng tôi gấp hai lần doanh thu (18% GDP trung bình) thuế không gây
bóp méo, trong khi mỗi hai loại chi phí chính tạo khoảng 15% GDP. Phương trình hồi
quy của chúng tôi theo phương trình (3) ở trên. Chúng tôi ban đầu coi năm hình thức
khác nhau của bảng dữ liệu ước lượng cho mỗi hồi quy: gộp OLS, một chiều (country
dummies) cố định (bằng OLS) và ngẫu nhiên (bằng GLS) và hai chiều (hiệu ứng nước và
thời gian) cố định và ngẫu nhiên hiệu ứng mô hình.
Bảng 2:
Variable Mean Độ
lệch
chuẩn
Minimum
(country)
Maximum (country)
GDP p.c. tốc độ tăng trưởng
(% p.a.)
2.79 1.66 1.54
(Switzerland)

5.09 (Turkey)
p.c. ban đầu GDP (năm 1970
hàng ngàn đô la Mỹ)
10.71 3.38 2.966
(Turk
ey)
15.313 (US)
Đầu tư 22.06 3.61 18.11
(UK)
29.43 (Portugal)
Lực lượng lao động tăng
trưởng (% p.a.)
1.06 0.8 -0.06
(Germany)
2.06 (Iceland)
Thặng dư ngân sách -3.08 3.39 -
11.76
(Portugal)
1.65 (Luxembourg)
Trả nợ vay 1.22 1.39 0.11
(Ireland)
4.49 (Norway)
Thuế bóp méo 18.76 7.25 7.10
(Iceland)
33.47(The Netherland)
Thuế không gây bóp méo 9.15 4.22 0.96
(US)
16.77 (Norway)
Các khoản thu khác 4.56 2.96 1.51 16.72 (Ireland)
11

Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
(Germany)
Chi phí sản xuất 14.69 4.57 7.35
(Canada)
23.74 (Italy)
Chi phi sản xuất 15.24 6.05 4.96
(Turkey)
24.31 (Luxembourg)
Chi phí khác 4.44 3.07 0.98
(Finland)
9.16 (Ireland)
Lưu ý: bảng đưa ra thống kê mô tả cho các biến được sử dụng các hồi quy. Con số
này là tỷ lệ phần trăm của GDP, trừ trường hợp quy định. Tập dữ liệu bao gồm mức trung
bình 5 năm từ 1970-1995 (Úc, Áo, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Iceland,
Luxembourg, Hà Lan, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Mỹ); 1975-
1995 (Pháp), 1970-1990 (Bỉ), 1970-1985 (Hy Lạp, Thụy Sĩ), 1975-1990 (Ý, Bồ Đào
Nha) và 1980-1995 (Ai-len).
(Lựa chọn dựa trên các log-likelihood và R
2
điều chỉnh cho OLS gộp và các mô
hình hiệu ứng cố định (cả hai đều một chiều và các mô hình lỗi hai chiều). Kể từ khi
Hausman kiểm tra bác bỏ giả thuyết không có sự tương quan giữa các cá nhân ảnh hưởng
và hạn lỗi, chúng tôi chỉ báo cáo kết quả từ các mô hình hiệu ứng cố định. Trong tất cả
các trường hợp, các hình thức hai chiều của phương trình hồi quy (cho phép cả thời gian
cụ thể và đánh chặn một quốc gia cụ thể) nhận được hỗ trợ lớn nhất từ chẩn đoán (với
điều chỉnh R cao nhất), và đây là kết quả báo cáo ở đây)
Trong phần này, chúng tôi kiểm tra sự chính xác của các kết quả trên khi có bốn sự
thay đổi trong dữ liệu và phương trình hồi quy. Trước hết chúng ta bỏ qua GDP ban đầu
từ hồi quy để xác định các hệ số trên biến tài chính rất nhạy cảm khi đưa biến GDP ban
đầu vào để tính toán, theo như báo cáo của Easterly và Rebelo (1993).

Thứ hai, chúng tôi xem xét liệu các kết quả của chúng tôi rất nhạy cảm với lựa
chọn khoảng thời gian. Chúng ta bắt đầu bằng sự thay đổi khoảng thời gian 5 năm vì thế
năm bắt đầu đến năm kết thúc trong ví dụ này là 1 và 6 thay vì là 0 và 5. Sau đó chúng tôi
sử dụng các biến công cụ để kiểm tra khả năng đồng thời giữa các biến số tài chính và
tăng trưởng. Cuối cùng chúng ta xem xét các nhóm thay thế các dữ liệu tài chính.
12
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
4.2 Kết quả thực nghiệm:
Bảng 3 tổng kết những kết quả cơ bản. Cột đầu tiên của bảng dùng không bóp méo
thuế như là một yếu tố tài chính ẩn, và cột thứ hai không dùng chi tiêu cho sản xuất. Mỗi
mục dưới đây có hệ số zero theo mô hình Barro (1990), vì thế kết quả có thể tương tự
với những chỉ dẫn khác. Cuối cùng, cột 3 bỏ qua cả hai biến, áp đặt một hệ số chung cho
2 yếu tố này của ngân sách. Giả thiết của hệ số phổ biến không bị bác bỏ bởi số liệu, vì
thế giải thích của chúng ta được dựa trên những kết quả được chỉ ra từ cột cuối cùng của
bảng 3.
13
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Bảng 3
Kết quả hồi quy
Kỹ thuật ước lượng: 5 năm, two-way FE
Biến phụ thuộc: Per capita growth

Biến số tài chính
Non-
distortionary
taxation
Non-
productive
expenditures
Non-dis. Taxes and non-

prod. Expenditures
GDP thực
-0,49 -0,49 -0,483
(2,79) (2,79) (2,79)
Đầu tư
-0,02 -0,02 -0,02
(0,33) (0,33) (0,34)
Tăng trưởng lao động
-0,327 -0,327 -0,336
(1,09) (1,09) (1,14)
Khoản cho vay - trả nợ
0,417 0,38 0,384
(1,82) (2,13) (2,18)
Các khoản thu khác
-0,154 -0,117 -0,118
(0,81) (1,12) (1,13)
Các khoản chi phí khác
0,315 0,279 0,289
(2,00) (2,42) (2,75)
Thặng dư ngân sách
0,446 0,41 0,416
(2,79) (4,21) (4,37)
Distorionary taxation
-0,446 -0,41 -0,41
(2,79) (4,21) (4,37)
Non-Distorionary taxation
0,037
(0,23)
Productive expenditures
0,29 0,253 0,268

(1,98) (1,95) (2,43)
Non- Productive
expenditures
0,037
(0,23)
R
2
0,602 0,602 0,621
No. of observations
98 98 98
14
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Chúng ta bắt đầu thảo luận những biến điều kiện. Không giống như Easterly và
Rebelo (1993), chúng ta nhận thấy rằng GDP thực vào hồi quy với hệ số âm đáng kể, chỉ
báo rằng điều kiện phân kì của tỉ lệ tăng trưởng trong 1 giai đoạn. Không giống như
những biến điều kiện trên, chỉ số đầu tư và tỉ lệ tăng trưởng lực lượng lao động, thì đáng
kể (thật vậy, hệ số đầu tư là âm) nhưng cả thời gian và quốc gia mẫu nói chung là đáng
kể.
Những biến về ngân sách trong bảng hồi quy 3 hầu hết có tín hiệu mong đợi. Chi
tiêu cho sản xuất có một hệ số dương đáng kể, và điểm ước lượng cho rằng 1 % tăng của
GDP là tăng trưởng sẽ là 0.27 %. Những hệ số chi tiêu khác cũng có một hệ số dương
đáng kể, thậm chí nó còn lớn hơn một chút chỉ số chi tiêu cho sản xuất 0.29. Thuế bóp
méo, bên cạnh đó, giảm tăng trưởng đáng kể, hệ số ước lượng là -0.41. Con số này có lẽ
lớn hơn một cách không thực tế, nhưng, như chúng ta sẽ thấy bên dưới, ,thay đổi những
năm bắt đầu của chu kì 5 năm hơi làm giảm điểm ước lượng của hệ số đó. Những thu
nhập khác cũng có tác động âm (nhưng nhỏ hơn và ít ý nghĩa thống kê). Một điểm đáng
chú ý của những kết quả là hệ số dương và lớn cho sự thặng dư ngân sách. Thậm chí dưới
giả định cân bằng Ricardian, chúng ta có thể mong đợi thặng dư có hệ số dương, kể từ
khi chúng ta có hạn chế thặng dư để tài trợ một yếu tố cân bằng của ngân sách trong giai
đoạn hiện tại, nhưng không có sự hạn chế tương tự bồi thường thâm hụt tương lai. Sự

thâm hụt tương lai đó sẽ tài trợ cục bộ thêm chi tiêu sản xuất hoặc cắt giảm trong sự bóp
méo thuế điều này làm tăng dự đoán thu nhập để đầu tư hiện tại và do đó phản ánh lại
trong việc tăng trưởng dương của thặng dư hiện tại. Sự tranh cãi này làm cho hơi ít hệ số
dương cho thặng dư hơn là cho tiêu sản xuất hoặc cắt giảm trong trường hợp loại trừ
thuế.
4.2.1. Mis-specifying the budget constraint
Chúng ta đã tranh cãi ở trên rằng quy định cụ thể ngân sách chính phủ hoàn toàn
không đổi, theo nguyên tắc, sự quan trọng cho sự giải thích của tham số tài khóa . Nhưng
trong thực tế những quy định cụ thể của việc ngân sách không đổi bị nhiễu? Bảng 4 chỉ ra
15
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
rằng bias to the parameter ước lượng thì thường quan trọng. Trong cột 1 và cột 2, 3
biến thuế và những biến chi tiêu không được bỏ sót, tương ứng, từ hồi quy; trong khi
trong cột 3-6 chỉ có 1 biến chi tiêu hoặc thuế. So sánh những kết quả đó trong bảng 3, cho
thấy những thay đối đáng kể trong hệ số, cường độ và ý nghĩa khi mà một vài yếu tố
không được bỏ sót từ sự cố định ngân sách.
Trong cột 1, chẳng hạn, khi mà thuế được loại, chi tiêu xuất hiện có tác động âm
với tăng trưởng, và có một tác động đáng kể trong trường hợp không có chi tiêu phi sản
xuất. Kể từ khi chi tiêu được tài trợ một phần bởi thuế bóp méo, điều đó thì không ngạc
nhiên rằng không bỏ sót sự tương tác âm của các biến đến chi tiêu. Tương tự, khi mà chi
tiêu được loại (cột 2),thuế không bóp méo xuất hiện có tác động dương đến tăng trưởng
( so sánh với không tác động trong bảng 3). Một lần nữa, kể từ khi thuế được tài trợ một
phần những chi phí sản xuất, sự không bỏ sót truyền đạt kì vọng dương đến hệ số thuế.
Những kết quả trong bảng 4 diễn tả một cách dễ dàng nó đi đến 1 kết luận không đúng
bởi xác định sai hàm hồi qui. Từ đó hầu hết nghiên cứu thực nghiệm đã thất bại để nhận
ra điều đó và không bỏ sót quan trọng những yếu tố của ngân sách chính phủ, điều này
không gây ngạc nhiên về kết quả của những lần trước đưa ra một bức tranh ko rõ ràng.
16
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
17

Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
4.3. Thử nghiệm Robustness
4.3.1 GDP ban đầu
Easterly và Rebelo (1993) thấy rằng ý nghĩa của các biến số tài chính trong các hồi
quy của họ là nhạy cảm khi thêm vào GDP ban đầu. Việc loại bỏ GDP ban đầu giống
phương trình (1) là một phương trình đơn giản của tăng trưởng. Khi GDP ban đầu là một
hồi quy có ý nghĩa trong Bảng 3 ở trên, không có gì là khác thường nếu những kết quả
của chúng tôi rất nhạy cảm với việc loại trừ này.
Bảng 5 trình bày các phương trình hồi quy với biến này bị loại trừ. Các hệ số của
tất cả các biến tài chính đang khá gần với những thể hiện trong Bảng 3, mà chỉ ra rằng
trong dữ liệu của chúng tôi ý nghĩa của các biến số tài chính trong mô hình tăng trưởng là
không nhạy cảm với sự thay đổi này.
4.3.2 Thay thế những khoảng thời gian 5 năm
Bảng 3 được dựa trên mức trung bình 5 năm từ 0-4 và 5-9. Sự lựa chọn này đã
được thực hiện chỉ đơn giản là để tối đa hóa số lượng các điểm dữ liệu và theo quy ước.
Trong Kneller et al. (1998) chúng tôi phát hiện những hậu quả của việc thay đổi khoảng
thời gian với chữ số cuối cùng 1-5 và 6-0, 2-6 và 7-1 và 3-7 và 8-2 (làm giảm số lượng
các quan sát từ 98 đến 86). Kết quả (không hiển thị ở đây, nhưng có sẵn từ các tác giả
theo yêu cầu) tương tự, mặc dù các ước lượng điểm của các hệ số có xu hướng hơi nhỏ
hơn (trung bình giảm 0,3 cho thuế bóp méo và tăng 0,2 cho chi phí sản xuất) và các bằng
chứng về sự cân bằng giữa các hệ số thuế không gây bóp méo, chi phí phi sản xuất là
hoàn toàn không thuyết phục trong hai của ba trường hợp.
18
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Thu nhập ban đầu được loại trừ từ hồi quy
Kỹ thuật ước lượng: 5 năm, two-way FE
Biến phụ thuộc: Per capita growth

Biến số tài chính
Non-

distortionary
taxation
Non-
productive
expenditures
Non-dis. Taxes and
non- prod. Expenditures
Đầu tư 0.02 0.02 0.021
(0.32) (0.32) (0.35)
Tăng trưởng lao động -0.015 -0.015 0.001
(0.05) (0.05) (0.00)
Khoản cho vay - trả nợ 0.314 0.353 0.349
(1.32) (1.89) (1.89)
Các khoản thu khác -0.01 -0.14 -0.14
(0.51) (1.27) (1.28)
Các khoản chi phí khác 0.301 0.34 0.329
(1.82) (2.86) (3.01)
Thặng dư ngân sách 0.357 0.4 0.389
(2.17) (4.32) (4.41
Distorionary taxation -0.427 -0.467 -0.463
(2.36) (4.66) (4.72)
Non-Distorionary taxation -0.039
(0.23)
Productive expenditures 0.273 0.312 0.296
(1.77) (2.31) (2.56)
Non-Productive expenditures -0.039
(0.23)
R
2
0.574 0.574 0.581

No. of observations 98 98 98
19
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
4.3.3 Ước lượng biến công cụ
Việc ước lượng hồi quy (1) giả định rằng tất cả các biến bên phải được xác định
ngoại sinh. Như Easterly và Rebelo (1993) và Hsieh và Lai (1994) thảo luận, các nguồn
có khả năng nhất của sự đồng thời trong mô hình là hiệu ứng chu kỳ kinh doanh và quy
luật Wagner (xu hướng của chi tiêu chính phủ cao hơn ở các cấp độ cao hơn bình quân
đầu người GDP). Thời gian nỗ lực trung bình để kiểm soát đối với trước đây, nhưng có lẽ
không hoàn hảo, vì vậy một số nội sinh có thể vẫn còn. Quy luật Wagner là ít quan tâm ở
đây, vì nó cho thấy mối liên quan giữa tăng trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng, chứ
không phải là mức độ, chi tiêu chính phủ và thuế.
20
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
21
Bảng 6
Thu nhập ban đầu được loại trừ từ hồi quy
Kỹ thuật ước lượng: 5 năm, two-way FE
Biến phụ thuộc: Per capita growth
Biến số tài chính
Non- distortionary
taxation
Non-
productive
expenditures
Non-dis. Taxes and
non-
prod. Expenditures
Initial GDP p.c -0.125 -0.125 -0.125
(3.95) (4.23) (4.19)

Đầu tư 0.129 0.129 0.127
(3.95) (4.23) (4.19)
Tăng trưởng lao động -0.244 -0.244 -0.295
(0.45) (0.48) (0.6)
Khoản cho vay - trả nợ 0.389 0.27 0.278
(0.75) (0.74) (0.76)
Các khoản thu khác -0.204 -0.084 -0.086
(0.45) (0.34) (0.35)
Các khoản chi phí khác 0.266 0.147 0.178
(0.73) (0.59) (0.77)
Thặng dư ngân sách 0.63 0.511 0.521
(1.68) (3.17) (3.27)
Distorionary taxation -0.575 -0.455 -0.46
(1.47) (2.90) (2.92)
Non-Distorionary taxation 0.119
(0.35)
Productive expenditures 0.284 0.165 0.201
(0.83) (0.69) (0.93)
Non- Productive expenditures 0.119
(0.33)
R
2
0.339 0.442 0.416
No. of observations 76 76 76
Chủ đề: Chính sách tài khóa và sự phát triển chứng minh từ các quốc gia OECD
Để giải quyết những mối quan tâm về nội sinh đòi hỏi ước tính của các biến công
cụ (IV), nhưng việc lựa chọn các công cụ là một vấn đề trong hồi quy. Sự lựa chọn phổ
biến nhất là độ trễ đầu tiên của biến tài chính, nhưng giá trị trễ không thể được sử dụng
như là công cụ đo lường trong các mô hình hiệu ứng cố định vì khả năng sai lệch khi phải
cố định các yếu tố . Do đó chúng tôi theo Folster và Henrekson (năm 1997) và ước tính

hồi quy trong sự khác biệt đầu tiên. Là công cụ chúng tôi sử dụng, mức độ trễ của tất cả
các biến tài chính, và mức độ và sự khác biệt đầu tiên của sự phát triển lực lượng lao
động và GDP ban đầu. Phương trình tăng trưởng được điều hành dưới hình thức khác biệt
đầu tiên và kết quả, hiển thị trong Bảng 6, nên được giải thích phù hợp.
So sánh kết quả IV trong bảng 6 với những gì trong Bảng 3, rõ ràng là các tác động
tài chính được xác định trước đó là không chỉ đơn giản là kết quả của nội sinh. Dấu hiệu
hệ số là không thay đổi và độ lớn tương tự như giá trị Bảng 3. Mặc dù sai số là lớn
hơn trước đó. Việc giải thích các biến tài chính quan trọng là không bị ảnh hưởng đáng
kể: các tác động ước tính thuế bóp méo và chi phí sản xuất vẫn còn khá lớn.
4.3.4 Phân loại lại các biến tài chính
Thay đổi tiếp theo chúng tôi thực hiện với phương trình hồi quy là để phân loại lại
các biến bao gồm trong ma trận tài chính. Sự tập hợp của các phân loại chức năng trong
các nguồn dữ liệu vào các mục dựa trên lý thuyết trong bảng 1 là không tranh cãi. Để giải
quyết điểm này, chúng ta phân biệt thuế thu nhập cá nhân từ thuế thu nhập yếu tố khác,
chi tiêu cho y tế từ chi phí sản xuất khác, chi phí an sinh xã hội từ kinh phí sự nghiệp
khác. Điều này cho phép chúng tôi tập trung vào các biến thường được sử dụng trong các
nghiên cứu trước đó, và để xác định sự vững mạnh của các kết hợp lý thuyết của chúng
tôi.
Bảng trong Phụ lục A cho thấy các dữ liệu đã được phân loại lại. Biến dạng-phân thuế tại là chia
thành các loại thuế thu nhập và thuế bóp méo (tài sản, biên chế và các loại thuế an sinh xã hội). Chi phí
an sinh xã hội đã được tách ra từ chi sự nghiệp khác ( vui chơi giải trí và các dịch vụ kinh tế), hiện được
bao gồm trong các loại chi phí khác. Như đã đề cập trước đó, lý thuyết cho thấy sự tăng trưởng đó có
22

×