Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vai trò của võ nguyên giáp trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược 1945 – 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.05 KB, 72 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

NGUYỄN THỊ TRINH

VAI TRÒ CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC (1945 – 1954)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Hà Nội, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

NGUYỄN THỊ TRINH

VAI TRÒ CỦA VÕ NGUYÊN GIÁP TRONG
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC (1945 – 1954)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN VĂN DŨNG

Hà Nội, 2018




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Nguyễn Văn Dũng –
người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua để em
hoàn thành khóa luận.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong Trường
Đại Học Sư phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy cô Khoa Lịch sử đã giảng
dạy em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Do thời gian và trình độ nhận thức còn hạn chế, mặc dù đã rất cố gắng
nhưng những vấn đề em trình bày trong khóa luận cũng không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy em kính mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các
thầy, cô giáo và sự đóng góp ý kiến của các bạn bè để khóa luận của em có
thể hoàn thiện hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Trinh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi, được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
Nguyễn Văn Dũng, không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu
khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Trinh



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 4
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
Chương 1: THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA .............................................. 6
ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP ................................................................. 6
1.1. Thân thế ...................................................................................................... 6
1.1.1. Quê hương Quảng Bình ......................................................................... 7
1.1.2. Gia đình ................................................................................................. 9
1.2. Khái quát về sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ........................ 12
1.2.1. Trước và trong cách mạng tháng Tám 1945 ........................................ 12
1.2.2. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954)
......................................................................................................................... 15
1.2.3. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)............. 17
1.2.4. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc (1975 2013)................................................................................................................ 20
Chương 2: VAI TRÒ CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP TRONG
THỜI KỲ ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN VÀ TOÀN QUỐC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 – 1954) ..................... 25


2.1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong các hoạt động ngoại giao sau cách
mạng tháng Tám. ............................................................................................. 25
2.2. Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc huấn luyện quân đội
(1948 – 1950) .................................................................................................. 33
2.3. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc đưa ra những quyết định táo bạo,

kịp thời đảm bảo thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ........ 40
2.3.1. Quyết định chuyển từ đánh Cao Bằng sang đánh Đông Khê trong chiến
dịch Biên Giới (1950) ..................................................................................... 40
2.3.2. Quyết định dừng đúng lúc chiến dịch Trần Hưng Đạo (11/1950) ........ 45
2.3.3. Vai trò quyết định đến thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
......................................................................................................................... 47
2.4. Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong việc tiến hành chiến tranh
du kích. ............................................................................................................ 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 65


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954) đã qua đi đã hơn
nửa thế kỷ nhưng vết thương nó để lại vẫn còn kéo dài. Biết bao xương máu
của các thế hệ cha, anh đã nằm lại để bảo vệ và giữ vững cho nền độc lập dân
tộc này. Những người chiến sĩ đó đã trải qua rất nhiều trận đánh lịch sử với
những chiến thắng vang dội nhờ những chiến lược, chiến thuật và sự chỉ huy
tài tình của những người lãnh đạo, một trong những người lãnh đạo đó là chủ
tịch Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta và người học trò
xuất sắc nhất của Bác là Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Hiện nay, các thế lực phản động vẫn còn tồn tại và hoạt động, phát triển
một cách rất tinh vi. Họ không ngần ngại công khai viết những bài báo thêu
dệt về Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhằm lợi dụng kẽ hở trong nhận thức của
quần chúng nhân dân để thực hiện các mưu đồ chính trị. Họ bôi xấu về
Người, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng ta, gây mất niềm tin trong
quần chúng nhân dân hòng lôi kéo nhân dân đứng về phía bọn phản động, phá
hoại thành quả cách mạng mà Đại tướng và toàn thể nhân dân Việt Nam đã
xây dựng trong suốt chiều dài lịch sử.

Đại tướng đã ra đi mãi mãi. Nhưng đây không phải là dấu chấm hết cho
tâm hồn, trí tuệ của Đại tướng. Nó chỉ là sự ra đi về thể xác còn trái tim
Người vẫn luôn dõi theo lớp trẻ chúng ta trong công cuộc xây dựng nước nhà.
Người đã hy sinh cả đời cho độc lập dân tộc, cho khung trời bình yên của thế
hệ con cháu mãi ngàn đời sau. Vậy nên thanh niên chúng ta không thể quên đi
công lao to lớn của Người và cấn ra sức noi gương, học tập theo đạo đức, lối
sống của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Thanh niên Việt Nam – những chủ nhân tương lai của đất nước, đất
nước có phồn vinh hay nghèo đói chính là do nhận thức, do sức công hiến của

1


thế hệ trẻ. Tuy nhiên có một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ thanh niên hiện nay
có lối sống không lành mạnh, đua đòi theo những tệ nạn xã hội mà quên mất
đi sứ mệnh là chủ nhân tương lai đất nước của mình, quên mất đi những gì mà
Đại tướng và các thế hệ cha, anh đi trước đã ngày đêm gây dựng.
Ở Đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều phẩm chất, đức tính tốt đẹp mà
thanh niên cần phải học tập như: lý tưởng sống cao đẹp, lòng yêu nước, anh
hùng quả cảm và một trí tuệ uyên thâm. Thanh niên cần không ngừng học tập,
rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trau dồi thêm
những hiểu biết, những tri thức trong thời đại mới – thời đại của hội nhập, của
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước để bảo vệ và tiếp tục xây dựng sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đã có rất nhiều bài báo, nhiều công trình nghiên cứu khoa học viết về
Người. Vẫn biết rằng với ngòi bút nhỏ bé của mình không thể nói hết tất cả
những đóng góp, tài năng, phẩm chất cao quý của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Nhưng với tình cảm, sự kính trọng và những lý do nêu trên nên tôi chọn
đề tài: “Vai trò của Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945 – 1954” để thực hiện khóa luận tốt nghiệp ngành cử

nhân Lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong sự nghiệp đấu tranh
giành và bảo vệ độc lập dân tộc đã được nhiều sử gia, nhiều nhà nghiên cứu
tìm hiểu và viết nên các tác phẩm có giá trị. Đặc biệt quý giá là tác phẩm
“Tổng tập Hồi ký” của chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp hồi tưởng lại suốt
cuộc đời cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Tác phẩm là tổng hợp tất cả các
hồi ký của Đại tướng qua nhiều thời kì, giai đoạn khác nhau và được nhà văn
quân đội Hữu Mai tập hợp lại thành tác phẩm “Tổng tập hồi ký”. Tác phẩm
chính là bức tranh chân thực nhất, sống động nhất về cả cuộc đời cách mạng

2


của Đại tướng. Từ đó cho chúng ta thấy được những cái nhìn khách quan,
những mối quan hệ, những sự kiện trong cuộc chiến mà bấy lâu nay chúng ta
còn chưa biết đến.
Bên cạnh đó còn có tác phẩm “Võ Nguyên Giáp – Hào khí trăm
năm” của tác giả Trần Thái Bình. Nội dung của cuốn sách đã khái quát cả
cuộc đời của Đại tướng từ khi còn là một đứa trẻ đến khi trở thành một danh
tướng, đặc biệt là khoảng thời gian diễn ra hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng để thực hiện tác
phẩm chủ yếu dựa trên những chi tiết cụ thể, những sự kiện, con người của
lịch sử,…để cho người đọc thấy được những kiến thức chân thực về cuộc đời
và sự nghiệp.
Ngoài ra còn rất nhiều các tác phẩm khác như: “Võ Nguyên Giáp –
Đại tướng của nhân dân”, “Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Dấu ấn của thời
gian”, “Những nhà lãnh đạo suất xắc của cách mạng Việt Nam”,…
Các tác phẩm trên đã đề cập đến vai trò của Đại tướng cũng như cho
chúng ta ngày càng hiểu rõ hơn về quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh của

quân và dân ta trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Tuy nhiên
các tác phẩm trên viết dưới dạng bao quát suốt chiều dài lịch sử nên không đi
sâu vào giai đoạn 1945 – 1954 nên chưa làm rõ được vai trò của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 – 1954).
Bằng những hiểu biết của mình dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn
tôi sẽ làm sáng tỏ vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1945 đến năm 1954 để thấy
được sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình và khôn khéo của một nhân tướng vĩ đại,
có tầm nhìn xa, đó chính là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3


3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm rõ về vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1945 đến năm
1954.
Làm sáng tỏ sự sáng suốt, tài tình và khôn khéo của Đại tướng trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để đưa đến thắng lợi của cuộc kháng
chiến.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954).
Tìm hiểu nghệ thuật quân sự của Đại tướng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi nội dung: Khóa luận nghiên cứu về vai trò của Đại tướng


Võ Nguyên Giáp.
-

Phạm vi thời gian: Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược từ năm 1945 đến năm 1954.
4. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
-

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí

Minh làm cơ sở tư tưởng và lý luận để nghiên cứu đề tài.
-

Kết hợp giữa phương pháp lịch sử với phương pháp logic, trong đó

phương pháp lịch sử là chủ yếu.
5. Đóng góp của khóa luận
Cung cấp cái nhìn tương đối toàn diện và khách quan về vai trò của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (1945 – 1954). Về mặt ý nghĩa khoa học lịch sử, khóa luận đã có những
đóng góp nhất định:

4


Khóa luận đã hoàn thành nhiệm vụ khoa học tự đề ra là góp phần
làm sáng tỏ vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1945 đến năm 1954.

Kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần cung cấp tài liệu
tham khảo cho giảng viên, sinh viên và những người muốn tìm hiểu về Đại
tướng Võ Nguyên Giáp.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Thân thế và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Chương 2: Vai trò của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời kì đấu
tranh bảo vệ chính quyền và toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp
(1945 – 1954)

5


Chƣơng 1
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
ĐẠI TƢỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
1.1. THÂN THẾ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911 – 2013) quê ở làng An Xá, xã Lộc
Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà Nho yêu
nước, hiếu học. Ông còn được nhiều người gọi là Tướng Giáp hoặc anh Văn –
người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam đồng thời cũng là một nhà
quân sự và chính trị tài giỏi của dân tộc. Võ Nguyên Giáp là người được
phong hàm Đại tướng đầu tiên và là vị Tổng tư lệnh của Quân đội nhân dân
Việt Nam, được Chính phủ đánh giá là “người học trò xuất sắc và gần gũi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ chỉ
huy chính trong cuộc Chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954) và chiến tranh
Việt Nam (1960 – 1975). Đồng thời Đại tướng cũng trực tiếp hoặc tham gia
chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng như: Cuộc kháng chiến chống Pháp,
Nhật; trận Điện Biên Phủ (1954), chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến

dịch Hồ Chí Minh (1975),…
Ông nguyên là Phó Thủ Tướng thường trực chính phủ, nguyên Bộ
trưởng Bộ quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên
Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại biểu quốc
hội từ khóa I đến khóa VII, nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta, người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại
tướng đã khiến cho cả thế giới phải nể phục khi lãnh đạo quân đội nhân dân
Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp (1945 –
1954) và đế quốc Mỹ (1954 – 1975), trong đó không thể không kể đến chiến
thằng Điện Biên Phủ vang dội năm 1954 [5,tr.5].

6


Võ Nguyên Giáp từng là một giáo viên lịch sử, ông được cả thế giới
cũng như trong nước đánh giá là một trong những nhà lãnh đạo quân sự xuất
sắc của dân tộc Việt Nam.
1.1.1. Quê hương Quảng Bình
Quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ, là nơi hẹp nhất của Việt Nam (từ
biên giới Lào ra biển Đông chỉ có 50km). Khí hậu khắc nghiệt, vừa nắng nóng
nhiều lại thường xuyên có các cơn bão đổ vào từ biển Đông, gây mưa lũ ảnh
hưởng nặng nề đến đời sống cư dân. Trong hoàn cảnh như thế, con người
Quảng Bình tạo cho mình một tính cách kiên trì chịu đựng và bền bỉ phấn
đấu, để thích nghi và vượt qua những tai họa thiên nhiên, lại cũng cần phải
phòng xa, lo trước, toan tính kĩ lưỡng để sống được và sống đủ. Người dân
Quảng Bình nổi tiếng vì những đức tính cần kiệm, chắt chiu và kiên nhẫn.
Quảng Bình đã từng chứng kiến rất nhiều các sự kiện lịch sử. Vào thế
kỉ XVII, sông Gianh chảy qua Quảng Bình chính là ranh giới thời Trịnh –
Nguyễn phân tranh và Quảng Bình khi đó là chiến trường chính. Cuộc phân

tranh kéo dài hơn nửa thế kỉ với những dấu tích còn lại như Lũy Thầy, Quảng
Bình Quan đã chứng tỏ Quảng Bình là nơi đất hiểm yếu. Con người nơi đây
muốn tồn tại phải có năng lực sinh tồn mạnh mẽ.
Bước vào lịch sử hiện đại do có vị trí nằm trên tuyến đường xung yếu
ra Bắc, Quảng Bình trở thành một vùng căn cứ địa cho các phong trào kháng
Pháp vào cuối thế kỉ XIX. Có thể kể: Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Phạm
Tuân (1842 – 1897), người Đồng Hới hưởng ứng Hịch Cần Vương của vua
Hàm Nghi, tụ tập dân binh chống Pháp, chỉ huy nhiều trận đánh anh dũng,
đến khi lâm vào thế bí đã thà chết không chịu sa vào tay giặc. Một người nữa
là Đoàn Đức Mậu, bí danh là Bạch Xỉ (1855 – 1897), sinh quán ở Hòa Ninh,
huyện Quảng Trạch đã khởi binh giúp Phan Đình Phùng và Hoàng Phúc đánh
Pháp,…

7


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều vùng đất,
con người đã góp phần điểm tô thêm cho bức tranh chiến đấu bất khuất của
quê hương Quảng Bình: người anh hùng Lâm úy ở Xuân Bồ, làng đảo La Hà,
làng biển Cảnh Dương, bà mẹ Suốt – người “nữ Anh hùng lao động” trên
dòng sông Nhật Lệ, cùng với đó là biết bao người nữ anh hùng của vùng quê
Quảng Bình đã ngã xuống để bảo vệ độc lập dân tộc.
Trên địa bàn Quảng Bình, có 3 cộng đồng dân tộc chính sinh sống với
nhau. Đó là người Kinh, người Vân Kiều, người Chứt và một số di huệ người
Chăm. Đây là điều kiện thuận lợi để hình thành sớm một cộng đồng thống
nhất trong đa dạng, mà tình đoàn kết dân tộc là sợi dây cố kết thường xuyên.
Làng An Xá chính là nơi những kí ức tuổi thơ của Võ Nguyên Giáp
còn đọng lại. Ở An Xá có rất nhiều vườn tược vì vậy mà đây chính là nơi vui
chơi lý tưởng cho bọn trẻ trong làng. Người dân ở An Xá hầu hết đều là
những người nghèo, trừ một số ít gia đình có nhiều ruộng nương. Điều kiện tự

nhiên khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi bởi vậy mà cuộc sống của dân làng An Xá
rất vất vả. Tuy nhiên, trái ngược với điều đó, bức tranh phong cảnh ở Quảng
Bình đã làm cho những người con quê hương cảm thấy tự hào. Nơi đây có ba
con sông lớn đó là: sông Kiến Giang, sông Gianh và sông Nhật Lệ, có hình
dáng giống như cái nghiên mực chính là hồ Bàu Tró và một hồ tự nhiên nữa
là hồ Hạc Hải. Hồ này có diện tích rộng, nước trong hồ có sự thay đổi thất
thường, các giống dưa đỏ được trồng ở chung quanh bờ hồ. Không chỉ có vậy,
cách đó không xa là đỉnh Đầu Mâu, nơi có nhiều hang động ở sườn núi thích
hợp cho bọn trẻ vui chơi.
Người dân Quảng Bình không chỉ cảm thấy tự hào về phong cảnh,
ruộng vườn mà ở đây còn sản sinh ra những con người lỗi lạc, hào hoa: người
làm nhà thơ, người làm bậc quan to trong triều, có những người lại trở thành
các bậc hiền triết. Dân trong làng An Xá đều là những con người kiêu hãnh

8


đầy lòng tự tôn dân tộc. Họ không hề sợ hãi bất cứ một thế lực cai trị thuộc
địa nào. Họ chân thành, đồng cảm với những người dân lao động Việt Nam.
Họ ương ngạnh, bướng bỉnh với những kẻ bóc lột. Chính bởi vậy mà nhân
dân An Xá đã từng nổi dậy chống lại sự đô hộ của phương Bắc, hưởng ứng
nhiệt tình phong trào Cần Vương và tham gia cao trào 1930 – 1931 ở Trung
Kì. Thuở nhỏ, Võ Nguyên Giáp đã từng được nghe rất nhiều về những tấm
gương anh hùng chống lại quân xâm lược ở quê hương mình.
Việc từ nhỏ đã sống trong không gian thấm đẫm nghĩa khí anh hùng
vì nước của những bậc tiền bối và quen thuộc với cộng đồng đa dân tộc của
quê nhà là những yếu tố hình thành nên những tố chất của nhà hoạt động
chính trị - quân sự cách mạng Võ Nguyên Giáp sau này.
1.1.2. Gia đình
 Thân phụ, thân mẫu

Thân phụ là cụ Võ Quang Nghiêm một nhà nho, thi cử bất thành về làm
thầy giáo và thầy thuốc Đông y trong làng. Gia đình cụ Nghiêm là một gia
đình khá đầy đủ, có ruộng cày cấy. Cụ Nghiêm theo đạo Khổng nên việc thờ
cúng tổ tiên được cụ rất coi trọng. Cụ là người thuộc lớp trung lưu ở An Xá.
Những lúc nhàn dỗi cụ lại bốc thuốc Nam cổ truyền cho mọi người. Nhưng
sau đó do không chữa được bệnh kiết lỵ cho con gái nên cụ đã bỏ nghề thuốc
Nam và chuyển sang dạy học cho bọn trẻ con trong làng.
Là một nhà Nho lỗi lạc, cụ Nghiêm được người dân trong làng nể trọng.
Cụ còn là một nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ. Cụ thường kể cha của cụ là Võ
Quang Nguyên đã từng tham gia trong phong trào Cần Vương chống giặc
Pháp để bảo vệ cho độc lập dân tộc [5, tr.8].
Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Kiên, một người phụ nữ nết na, đảm
đang, sinh ra trong một gia đình nề nếp, có truyền thống chống giặc ngoại
xâm. Cha của bà theo các văn thân chống thực dân Pháp xâm lược đã làm đến

9


chức Đề Đốc. Bà chính là một hình mẫu lý tưởng của người phụ nữ Việt Nam
hết lòng hi sinh vì chồng con. Bà vừa chăm sóc con cái vừa lo việc đồng áng.
Cũng giống như những người mẹ Việt Nam khác, bà luôn kể cho các con của
mình nghe về những tấm gương anh hùng của quê hương, đất nước, giáo dục
cho con cái những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những người con của cụ
đều được thấm nhuần những phẩm chất cao quý, sáng ngời của một người dân
Việt Nam yêu nước. Đến năm 1961 cụ Kiên qua đời.
 Anh chị em ruột
Đại tướng là người con thứ 5 trong một gia đình có 7 anh chị em.
Người anh cả tên là Toại, rất thông minh và sáng dạ, học chữ Hán rất giỏi.
Cha mẹ lo anh giỏi quá sẽ bị bắt mất đi nên đã cho uống mực tàu để tối dạ
bớt. Nhưng rồi một cơn dịch tả cũng cướp anh đi mất. Sau anh Toại là chị

Châu. Chị được một tuổi thì mất do trận lụt năm Giáp Thìn. Do lụt cuốn trôi
đi nên chị Châu mất không được đắp mộ. Sau này chị đã được đắp một ngôi
mộ gió bên cạnh mộ anh Toại. Sau chị Châu là chị Điểm và chị Liên. Hai chị
khi lớn thì vừa phụ giúp mẹ làm ruộng vừa buôn bán. Chị Điểm cũng tham
gia chống Pháp và mất ở chiến khu. Còn chị Liên mất do bị kiết lị. Sau khi chị
Liên mất, cụ Nghiêm cũng bỏ nghề bốc thuốc.
Sau Đại tướng là ông Võ Thuần Nho – thứ trưởng Bộ Giáo Dục sau
này. Cuối cùng là bà Võ Thị Lài sau này làm nhân viên coi kho của một cơ
quan thuộc Bộ Nông Nghiệp.
 Gia quyến
Về gia đình riêng, Đại tướng trải qua hai cuộc hôn nhân. Người vợ
đầu tiên, bà Nguyễn Thị Quang Thái (em gái của Nguyễn Thị Minh Khai) vừa
là người bạn đời cũng là người bạn chiến đấu, người đồng chí cùng ông vào
sinh ra tử. Bà qua đời trong ngục tù của bọn thực dân để lại niềm đau thương
tiếc nuối cho Đại tướng. Hai ông bà có chung với nhau một người con gái –

10


tiến sĩ Võ Hồng Anh. Về sau, Đại tướng tái hôn với bà Đặng Bích Hà, con gái
cố giáo sư Đặng Thai Mai. Bà Hà là người phụ nữ đồng hành cùng Đại tướng
từ những ngày sau Cách mạng tháng Tám cho đến khi ông mất.
 Con cái
Đại tướng có 5 người con, cả trai lẫn gái. Năm người đều là những
nhân vật ưu tú, giỏi giang và thành đạt.
Võ Hồng Anh (1939 – 2009)
Bà là con gái đầu lòng và là người con duy nhất trong cuộc hôn nhân
đầu tiên giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và người chiến sĩ cách mạng
Nguyễn Thị Quang Thái. Sau này bà được đi du học và trở thành giáo sư toán
– lý. Năm 1987, bà về nước và được đảm nhận nhiều vị trí tại các Viện, Trung

tâm Năng lượng Vật lý. Giáo sư Võ Hồng Anh qua đời vào năm 2009 vì bệnh
suy tim.
Võ Hòa Bình (1951)
Bà là con gái đầu lòng của Đại tướng trong cuộc hôn nhân thứ hai với
phu nhân Đặng Bích Hà. Bà đã từng theo học tại trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội khoa Vật lý. Sau này bà công tác ở nhiều nơi thuộc quân đội như: công ty
điện tử Sao Mai, Cục quản lý Khoa học Công nghệ Bộ Quốc phòng. Hiện bà
là ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT (tập đoàn chuyên về lĩnh vực
công nghệ thông tin).
Võ Hạnh Phúc (1952)
Cũng giống như chị của mình, bà đã theo học ngành Vật lý. Hiện nay
bà cũng là ủy viên Hội đồng quản trị Tập đoàn HIPT.
Võ Điện Biên (1954)
Ông là con trai trưởng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông từng theo
học ở Học viện kĩ thuật hàng không Giucovxki (Liên Xô). Sau này khi về
nước ông phục vụ quân đội. Khi đã ở ngưỡng tuổi hưu trí, ông quyết định

11


đem những hiểu biết của mình để phát triển một lĩnh vực rất cần cho quá trình
đi lên của đất nước đó là lĩnh vực khoa học công nghệ về xây dựng và nhiều
hoạt động phục vụ đời sống như giao thông, năng lượng, dầu khí, hóa
chất,…Hiện nay ông là Giám đốc Công ty Cổ phần Đông Sơn, chuyên về lĩnh
vực khoa học – công nghệ.
Võ Hồng Nam (1956)
Con trai út của Đại tướng, ông cũng theo học chuyên ngành Vật lý ở
trường Đại học Bách Khoa. Hiện nay ông đang là Giám đốc Công ty CP Máy
tính Truyền thông Hồng Nam.
Mỗi cái tên mà Đại tướng đặt cho con cháu đều có những ý nghĩa

riêng thể hiện ước vọng của Người về đất nước. Để ghi nhớ chiến thắng Điện
Biên Phủ (1954), ông đã đặt tên cho người con trai cả là Võ Điện Biên. Còn
“hòa bình”, “hạnh phúc” chính là mơ ước về một đất nước yên bình, nhân dân
ấm no, hạnh phúc. Đây cũng là tên hai người con gái của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Còn người con trai út tên Võ Hồng Nam là niềm mong mỏi về
một miền Nam đỏ rực cờ hồng. Hai người con của Võ Hồng Nam tên là Võ
Hoài Nam – thương nhớ miền Nam và Võ Thành Trung – lời khẳng định tận
trung với đất nước.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ SỰ NGHIỆP CỦA ĐẠI TƢỚNG VÕ
NGUYÊN GIÁP
1.2.1. Trước và trong Cách mạng tháng Tám 1945
Võ Nguyên Giáp bắt đầu hoạt động cách mạng ngay từ rất sớm. Vốn
được sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, trực tiếp chứng kiến
cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột dã man đã nung nấu
trong ông một ý chí sôi sục và quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc. Ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông đã cùng bạn bè tham gia tổ chức bãi
khóa, hưởng ứng các phong trào yêu nước như đòi thả cụ Phan Bội Châu,

12


đám tang cụ Phan Chu Trinh. Kết quả ông bị đuổi học, trở về quê hương trong
sự bế tắc. Chính lúc đó, người bạn – người đồng chí của ông, ông Nguyễn Chí
Diểu đã về làng An Xá để gặp ông. Dưới sự giới thiệu của bạn, Võ Nguyên
Giáp thoát ly hoạt động cách mạng và trở thành đảng viên của Đảng Tân Việt.
Trong thời gian đầu hoạt động, Võ Nguyên Giáp khá tập trung vào sự nghiệp
làm báo. Theo ông, nghề báo là một nghệ thuật thú vị. Tác phẩm đầu tay của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là bài “Đả đảo tên bạo chúa ở trường Quốc học”
được viết bằng tiếng Pháp nhưng không được đăng. Dưới bút danh Vân Đình,
ông đã viết nhiều bài báo cho các chuyên mục: Thế giới thời đàm, Thế giới

tọa đàm, phê phán “sự nghiệp của Quốc tế liên minh” chẳng làm được gì và
còn rất nhiều bài viết của ông về các vấn đề khác nhau như: kinh tế, chính trị,
quân sự, văn hóa, giáo dục, xã hội,…Những điều này cho thấy tác giả phải là
người có hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực, có bản lĩnh chính trị vững vàng
và một tư duy khoa học cách mạng nhạy bén.
Trong giai đoạn 1936 – 1939, Võ Nguyên Giáp là thầy giáo dạy môn
lịch sử ở trường Thăng Long, đồng thời ông tiếp tục theo học tại trường Luật
nhưng ông giành nhiều thời gian cho công tác báo chí.
Lúc này có một tờ báo của Hướng đạo sinh vì hoạt động thua lỗ nên
đã phải ngừng xuất bản đó là báo Hồn Trẻ, nhân cơ hội đó Võ Nguyên Giáp
cùng với Đặng Thai Mai và một số giáo sư trường Thăng Long đã quyết định
mua lại tờ báo này và cải tổ theo một nội dung hoàn toàn mới. Nội dung của
báo đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân, đưa ra các khẩu hiệu dân sinh, dân
chủ, thả tù chính trị,…Tờ Hồn Trẻ chính thức ra đời vào ngày 06/06/1936.
Báo được bạn đọc hoan nghênh, in ra không đủ bán. Tuy nhiên lo sợ trước sự
ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của báo nên thực dân Pháp đã cho đóng cửa
khi tờ báo mới ra được 5 số. Nhưng đây cũng chính là sự khởi đầu cho phong

13


trào hoạt động báo chí công khai của Mặt trận Dân chủ Đông Dương trong
giai đoạn 1936 – 1939.
Tờ báo tiếng Pháp Le Travail (Lao động) ra số báo đầu tiên vào ngày
16/09/1936. Lúc này Võ Nguyên Giáp được phân công viết nhiều đề tài chính
trị quan trọng, nổi bật như cổ vũ Đông Dương Đại hội, mặt trận Dân chủ, các
đề tài về những cuộc nổi dậy, đấu tranh đòi quyền lợi của nhân dân như: đấu
tranh ruộng đất, cuộc bãi công của thợ mỏ, thợ giày,… Với kinh nghiệm viết
báo nhiều như vậy, khi đó Võ Nguyên Giáp đã trở thành một biên tập viên tài
giỏi.

Không chỉ dừng lại ở đó, Võ Nguyên Giáp tiếp tục viết nhiều bài cho
các báo như: Đoàn thanh niên dân chủ, Dân chúng,…Ông còn vận động cho
ra đời báo Tiếng nói của chúng ta (Notre Voix). Đối tượng mà các bài báo của
Võ Nguyên Giáp hướng tới thời kì này chủ yếu là tầng lớp thanh niên, tri
thức, học sinh, sinh viên. Năm 1937 Hội nghị báo giới toàn xứ đã diễn ra,
trong Hội nghị này Võ Nguyên Giáp được bầu làm Chủ tịch ủy ban báo chí.
Năm 1940 là một năm đáng nhớ trong cuộc đời của Võ Nguyên Giáp.
Đầu tháng 5/1940 với tên Dương Hoài Nam, ông cùng với Phạm Văn Đồng
vượt biên sang Trung Quốc để gặp anh Vương – chính là Hồ Chí Minh. Đây
là lần đầu tiên ông được gặp Hồ Chí Minh, người ông luôn ngưỡng mộ. Sau
đó, ông đã tham gia tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương. Bước sang năm
1941, Võ Nguyên Giáp trở về Cao Bằng. Tại đây, ông bắt đầu các hoạt động
tuyên truyền, xây dựng cơ sở cách mạng, mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo
cán bộ quân sự cho tổ chức Việt Minh. Đến năm 1944, dưới sự chỉ đạo của
Hồ Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập
ngày 22/12/1944 gồm 34 chiến sĩ đặt dưới sự lãnh đạo của Võ Nguyên Giáp.
Đây chính là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngay sau

14


đó, ngày 25/12/1944 đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã giành
được thắng lợi đầu tiên ở Phay Khắt và Nà Ngần.
Ngày 16/8/1945, quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên đã bị tấn công bởi
một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ
Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về. Mở đầu cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng
Tám nổi dậy giành chính quyền trong cả nước. Đến ngày 28/08, cả đất nước
Việt Nam hoàn toàn đánh đuổi hết bè lũ Pháp – Nhật giành lại độc lập cho
dân tộc. Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị, mở đầu cho kỉ nguyên độc lập – tự do
mới cho dân tộc. Ngày 2/9/1945 Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc

lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1.2.2. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 – 1954)
Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ra đời, đất nước rơi vào
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đến ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp (1945 –
1954) với cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy. Võ Nguyên Giáp chuyển
sang hoạt động quân sự theo sự chọn lựa và phân công của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Là một thành viên trong Bộ chính trị Đảng Cộng sản Đông Dương (nay
là Đảng Cộng sản Việt Nam). Ông là người trực tiếp tham gia hoạch định
những quyết định lớn của Đảng về đường lối cách mạng qua từng giai đoạn
của cuộc kháng chiến. Ông cũng là người xây dựng đường lối quân sự, chiến
lược quân sự, đề ra những chủ trương lớn về kế hoạch tác chiến và cũng chính
ông là người tổ chức việc thực hiện cụ thể trong toàn quân và toàn dân. Đó là
đường lối chiến tranh, phát động chiến tranh giải phóng dân tộc toàn dân, toàn
diện, trường kì, tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho cuộc
đấu tranh vũ trang của quần chúng. Chiến tranh nhân dân phát triển đến một

15


đỉnh cao ở Việt Nam đã đánh bại chiến tranh xâm lược của hai đế quốc giàu
mạnh hơn Việt Nam gấp nhiều lần. Trong cuộc chiến tranh này, chiến thuật
du kích đã được ông nâng lên một tầm vóc chiến lược thực sự hữu hiệu, và sự
kết hợp giữa chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy được phát triển
đến một trình độ cao.
Võ Nguyên Giáp được phong hàm Đại tướng vào ngày 28/05/1948
khi chỉ mới 37 tuổi. Ông đã trở thành vị Đại tướng đầu tiên của Quân đội
Nhân dân Việt Nam mặc dù chưa được đào tạo tại bất kì trường quân sự nào

hay qua bất kì một cấp bậc quân hàm nào của quân đội.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 –
1954) Võ Nguyên Giáp đã đưa ra những những ý tưởng sáng tạo, táo bạo
nhằm phát huy tối đa sức mạnh của quân đội như “đại đội độc lập, tiểu đoàn
tập trung”. Cùng với đó là những quyết định được đưa ra kịp thời, đúng đắn
để giảm xuống mức thấp nhất thiệt hại về sức người và của nhưng vẫn đảm
bảo được sự thắng lợi. Ông luôn nhắc nhở những chiến sĩ của mình phải có
tinh thần cầu thị, ham học hỏi, nghiên cứu các phương pháp chiến đấu của
nước bạn khi mà có cơ hội các cố vấn Trung Quốc sang giúp đỡ về quân sự.
Ông quý trọng từng sinh mạng của những người chiến sĩ, mỗi trận chiến qua
đi dù thắng hay thua ông đều dành những phút trầm lặng, xót xa cho những
người ngã xuống. Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp chỉ đạo hoặc tham gia các
chiến dịch như: Chiến dịch Việt Bắc (1947), chiến dịch Biên Giới (1950),
chiến dich Trung Du (12/1950), chiến dịch Đông Bắc (1951), chiến dịch
Đồng Bằng (5/1951), chiến dịch Hòa Bình (12/1951), chiến dịch Tây Bắc
(9/1952), chiến dịch Thượng Lào (4/1953), chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
[5,tr.15].
Về chỉ đạo tác chiến chiến lược ông đã thực hiện từng bước, chủ động
và vững chắc, từ tạo thế chiến lược đến chuyển thế chiến lược và giành chủ

16


động trên từng chiến trường tiến tới giành quyền chủ động trong cả nước.
Ông chọn đúng thời cơ, chọn đúng đối tượng, đánh đúng điểm yếu của địch
để giáng đòn quyết định giành thắng lợi quyết định. Điều này được thể hiện rõ
nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) chúng ta đã giành thắng lợi vẻ
vang trước một đội quân được huấn luyện, trang bị những vũ khí hiện đại
nhất. Thắng lợi này đã chấm dứt thời kì thống trị của người Pháp ở Đông
Dương. Đồng thời đưa Võ Nguyên Giáp trở thành một trong những vị lãnh

đạo quân sự xuất sắc nhất của Việt Nam, đi vào lịch sử thế giới một cách vinh
quang, hào hùng. Việt Nam cũng trở thành nước đầu tiên trong thế giớ thứ ba
đánh bại sự xâm lược của một đế quốc phương Tây hùng mạnh, cổ vũ mạnh
mẽ cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới vùng lên đấu tranh
giành độc lập.
1.2.3. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)
Với Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã buộc thực dân Pháp công nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, các bên
tham chiến phải ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Theo hiệp định
Giơnevơ, Việt Nam chia thành hai khu vực tập kết cho hai bên, lấy vĩ tuyến
17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Miền Bắc thuộc quyền kiểm soát của các
lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, miền Nam thuộc quyền kiểm soát
của các lực lượng thuộc Liên hiệp Pháp. Tuy nhiên, Mỹ không muốn thừa
nhận kết quả của Hiệp định Giơnevơ. Từ năm 1955 Mỹ đã tích cực viện trợ
cho phía Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Những biến động không ngừng
của bối cảnh thế giới cùng sự can thiệp thô bạo, mưu đồ rõ ràng của Mỹ ở
miền Nam Việt Nam cũng như thái độ ngoan cố, thù địch của chính quyền tay
sai Ngô Đình Diệm đã khiến tình hình hai miền Nam – Bắc căng thẳng thúc
đẩy cuộc chiến tranh nổ ra nhằm chống đế quốc Mỹ, lật đổ chế độ Ngụy
quyền Sài Gòn và thống nhất đất nước Việt Nam thu về một mối.

17


Nhìn vào tiến trình lịch sử của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
cứu nước, ta có thể nhận thấy từ năm 1954 đến năm 1956, chủ trương của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp nói riêng cũng như của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa nói chung là đấu tranh hòa bình, yêu cầu phía Việt Nam Cộng hòa
thực hiện Hiệp định Giơnevơ vì một nước Việt Nam thống nhất cả về lãnh thổ
và chính trị. Tuy nhiên, đáp trả lại thiện chí này Ngô Đình Diệm đã cho thi

hành đạo luật 10/59 hay còn gọi là phong trào Tố cộng – Diệt cộng, lê máy
chém đi khắp miền Nam Việt Nam và biến miền Nam Việt Nam trở thành
biển máu của những người vô tội và các chiến sĩ cách mạng chân chính. Đến
tháng 1 năm 1959 khi hy vọng thi hành được Hiệp định Giơnevơ đã hoàn toàn
bị Mỹ và phía Việt Nam Cộng hòa phá hoại, trước tình hình đó Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15 (Khóa III), với
sự giúp đỡ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định giải phóng miền
Nam bằng con đường đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến
còn lại ở miền Nam tổ chức hoạt động vũ trang. Đoàn 559 (Binh đoàn Trường
Sơn) đã được thành lập nhằm mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp
ứng phong trào Cách mạng miền Nam Việt Nam. Nhờ có đường mòn Trường
Sơn mà phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất
mạnh, rất nhiều trung đoàn, sư đoàn đã được thành lập.
Từ năm 1965 – 1972, quân đội Mỹ bắt đầu thực hiện Chiến lược
Chiến tranh Cục bộ. Để đối phó với quân Mỹ, Đại tướng vẫn kiên trì với
đường lối chiến tranh nhân dân – “trường kì kháng chiến” như cuộc chiến
tranh Đông Dương chống thực dân Pháp trước đó. Kết quả là chúng ta đã
giành thắng lợi lớn trong hai cuộc tiến công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 –
1967, đập tan kế hoạch bình định của quân Mỹ trong vòng 18 tháng như ban
đầu.

18


Tháng 12/1972 đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc tập kích chiến lược trên
không ở miền Bắc suốt 12 ngày đêm từ ngày 18 đến ngày 29/12/1972 nhằm
buộc ta phải nhân nhượng trên bàn đàm phán. Trước tình hình đó Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đã nhận định: “Mỹ cho B52 đánh thủ đô Hà Nội, linh hồn
của cuộc kháng chiến sẽ là hành động gây sức ép cuối cùng để buộc ta phải
nhân nhượng. Vì vậy ta phải kiên quyết đánh thắng chúng trên bầu trời thủ

đô” [1, tr.453]. Dưới sự chỉ đạo của Đại tướng, quân và dân ta đã anh dũng
chiến đấu kiên cường, đập tan cuộc tập kích chiến lược đường không chủ yếu
bằng máy bay B52 của Mỹ tạo nên thắng lợi to lớn trong trận “Điện Biên Phủ
trên không” buộc địch phải chấp nhận kí vào bản Hiệp định Paris với những
điều khoản có lợi cho ta.
Bước sang năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích kĩ
lưỡng tình hình trước khi bước vào các chiến dịch Tây Nguyên –Huế-Đà
Nẵng – Hồ Chí Minh. Ông đã đưa những quyết định sáng suốt, kịp thời tùy
theo từng sự biến đổi của hoàn cảnh. Ông đã tán thành đề xuất của Trung
tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công
chiến lược và đánh thẳng vào hệ thống phòng ngự của địch ở Buôn Ma Thuột.
Sau đó lợi dụng thắng lợi này, Đại tướng đã quyết định giải phóng Đà Nẵng
trong vòng 3 ngày. Đồng thời cũng chính ông đã đề xuất và ra quyết định mở
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với 5 cánh quân tương đương với sức mạnh
của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Trong chiến dịch này
mệnh lệnh luôn được ghi nhớ mãi cho đến thời điểm hiện tại và ngay cả sau
này đó là “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ
từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và
toàn thắng” [5, tr.17].

19


×