Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Vai trò của hồ chí minh trong cao trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa giành chính quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.56 KB, 57 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
**********************

NGUYỄN THỊ HUYỀN

VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH
TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH
CHÍNH QUYỀN (1941 - 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
********************

NGUYẾN THỊ HUYỀN

VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG
CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
VÀ KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1941 - 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

ThS. TRỊNH VĂN TÚY



HÀ NỘI - 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thƣợng tá Trịnh Văn
Túy đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn và động viên em trong quá trình thực hiện
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Trung tâm Giáo dục
quốc phòng và an ninh Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã đào tạo và rèn
luyện em trƣởng thành, các thầy cô đóng góp những ý kiến quý báu và tạo
mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn tạo mọi
điều kiện, động viên và giúp đỡ em trong suốt quãng thời gian học tập và quá
trình thực hiện đề tài.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em.
Những kết quả thu đƣợc hoàn toàn chân thực và chƣa có đề tài nào
nghiên cứu.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2018
Sinh viên


Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài. ....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài. ....................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. ...................................................................................3
4. Đối tƣợng và pham vi nghiên cứu. ..........................................................................3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.........................................................................................3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.................................................................................4
Chƣơng 1 .....................................................................................................................5
NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ LÃNH ĐẠO
TÀI TÌNH CỦA BÁC TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (2/1941 3/1945) ........................................................................................................................5
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH. ..........................5
1.1.1. Cơ sở lý luận. ....................................................................................................5
1.1.2. Bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nƣớc của Bác. ...........................5
1.2. HỒ CHÍ MINH CHỦ TRƢƠNG NÊU CAO NHIỆM VỤ GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI. ...............................................................................7
1.2.1. Tình thế cách mạng xuất hiện, vấn đề giải phóng dân tộc đặt ra cấp thiết. ......7
1.2.2. Hồ Chí Minh về nƣớc hoàn chỉnh chủ trƣơng chuyển hƣớng chỉ đạo chiến
lƣợc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. ...............................................10
1.3. HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƢƠNG ĐẢNG CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN. ........................................................................................14
1.3.1. Xây dựng lực lƣợng chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
trong khuôn khổ mặt trận dân tộc thống nhất. ..........................................................14
1.3.2. Xây dựng lực lƣợng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. .................................17
1.3.3. Hồ Chí Minh tích cực mở rộng đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các
lực lƣợng tiến bộ trên thế giới phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc......................21
Tiểu kết chƣơng 1......................................................................................................25

Chƣơng 2 ...................................................................................................................26


HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƢƠNG ĐẢNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (2/1941 - 3/1945), BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CHIẾN TRANH
GIẢI PHÒNG DÂN TỘC .........................................................................................26
2.1. HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƢƠNG ĐẢNG PHÁT ĐỘNG CAO TRÀO
KHÁNG NHẬT CỨU NƢỚC ..................................................................................26
2.1.1. Nhật đảo chính Pháp và cao trào kháng Nhật cứu nƣớc. ................................26
2.1.2. Sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong khởi nghĩa từng phần. .............................30
2.2. HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƢƠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO TOÀN DÂN
TIẾN HÀNH TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CẢ
NƢỚC. ......................................................................................................................34
2.2.1. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ giành chính quyền xuất hiện...................34
2.2.2. Hồ Chí Minh cùng Trung ƣơng Đảng phát động toàn dân tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nƣớc. .............................................................................38
2.3. ẢNH HƢỞNG CỦA BÁC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG CHIẾN
TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY. .............................................................42
2.3.1. Ảnh hƣởng của Bác trong khởi nghĩa giành chính quyền...............................42
2.3.2. Bài học kinh nghiệm trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay. .................45
Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................................47
KẾT LUẬN ...............................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................50


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
TT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

1

Ban Chấp hành Trung ƣơng

BCHTƢ

2

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

3

Đảng Cộng sản

ĐCS

4

Hội nghị Trung ƣơng

HNTƢ

5

Mặt trận Việt Minh


MTVM


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là một trong những chiến
công vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam. Với thắng lợi này, đất nƣớc ta đƣợc hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ
tàn bạo, hà khắc của thực dân Pháp hơn 80 năm và sự thống trị của chế độ
phong kiến hơn 1000 năm. Từ đây dân tộc ta bƣớc vào kỷ nguyên độc lập, tự
do và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ địa vị của ngƣời nô lệ "hoá thân"
thành ngƣời làm chủ nƣớc nhà. Đảng ta, từ một Đảng hoạt động bí mật, bất
hợp pháp, trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nƣớc. Cách mạng
nƣớc ta cũng từ đó không ngừng phát triển, giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phong trào giải phóng dân
tộc ở các nƣớc châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh phát triển lên một bƣớc cao
hơn. Đẩy chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới vào thời kỳ tan rã,
suy sụp. Góp phần mở ra thế chiến lƣợc tiến công của cách mạng về quan hệ
sản xuất, cách mạng về văn hóa và tƣ tƣởng, cách mạng về khoa học và kĩ
thuật, đánh đổ từng bƣớc, đánh lui từng bộ phận của chủ nghĩa đế quốc.
Thắng lợi vĩ đại đó không phải là "sự ăn may" nhƣ quan niệm của
một số ngƣời, đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố chủ quan và khách
quan tạo nên. Trong đó, cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh trong những
năm 1941 - 1945 là một trong những nhân tố quan trọng nhất. Nó không
chỉ góp phần quyết định đến việc điều chỉnh đƣờng lối chiến lƣợc cho phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới đặt ra mà còn có ý nghĩa to lớn
đối với việc tạo dựng nên những yếu tố cần thiết về lực lƣợng cách mạng,
căn cứ địa cách mạng… để khi thời cơ xuất hiện, Đảng có đủ điều kiện
phát động một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nƣớc, đƣa


1


cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mau chóng giành thắng lợi hoàn
toàn.
Tìm hiểu vai trò to lớn của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
trong những năm 1941 - 1945 là một việc làm cần thiết. Góp phần làm sáng tỏ
thân thế và sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao
của Đảng, ngƣời anh hùng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất của nhân dân Việt
Nam và nhân dân thế giới. Mặt khác, tìm hiểu về vai trò to lớn của Hồ Chí
Minh trong giai đoạn này còn góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử hào
hùng của dân tộc, thời kỳ Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền.
Từ đó đấu tranh chống lại một số quan điểm sai trái, phản động nhằm coi nhẹ,
hạ thấp vai trò của Ngƣời trong Cách mạng Tháng Tám và trong suốt tiến
trình lịch sử cách mạng nƣớc ta.
Trong giai đoạn hiện nay, trƣớc những âm mƣu, thủ đoạn nham hiểm,
thâm độc của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù
địch trong và ngoài nƣớc, nhằm chống phá cách mạng nƣớc ta. Việc nghiên
cứu đầy đủ, toàn diện, sâu sắc cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh đối với thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó
không những giúp ta nâng cao lòng tự hào, niềm kính yêu vô hạn đối với vị cha
già dân tộc Hồ Chí Minh, mà còn cho ta những kinh nghiệm quí về việc phát huy
sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, về phƣơng pháp cách
mạng, về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, về xây dựng một nhà nƣớc
kiểu mới - nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đó là
những chỉ dẫn quan trọng, giúp cho Đảng ta kế thừa vận dụng vào quá trình
hoạch định những chủ trƣơng, đƣờng lối đúng đắn, sáng tạo, đƣa công cuộc đổi
mới ở nƣớc ta vững bƣớc đi lên trên con đƣờng xây dựng xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu "dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".


2


Xuất phát từ những vấn đề trên em đã chọn "Vai trò của Hồ Chí Minh
trong cao trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa giành chính quyền (19411945)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Làm sáng tỏ vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực hoạt động
cách mạng của Ngƣời những năm 1941 - 1945 liên quan đến sự nghiệp đấu
tranh giành chính quyền của nhân dân ta.
Rút ra một số vấn đề đặc sắc về sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền, làm cơ sở cho việc vận dụng vào giai đoạn
cách mạng mới hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Khẳng định công lao to lớn của Hồ Chí Minh về hoàn chỉnh chủ trƣơng
giải phóng dân tộc và quá trình cùng Trung ƣơng Đảng chuẩn bị mọi mặt cho
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1941 - 1945).
Làm rõ vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ƣơng Đảng
lãnh đạo toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong
cả nƣớc.
4. Đối tƣợng và pham vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
Hồ Chí Minh trong cao trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dành chính
quyền (1941 - 1945).
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ 1941 - 1945.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phƣơng pháp:
Phƣơng pháp lịch sử.
Phuơng pháp nghiên cứu tài liệu.


3


Phƣơng pháp lôgíc lịch sử.
Phƣơng pháp so sánh, thống kê, tổng kết lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
6.1. Ý nghĩa khoa học.
Khẳng định vai trò to lớn của Hồ Chí Minh với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng nƣớc ta nói chung, với cao trào giải phóng dân tộc và khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền những năm 1941 - 1945 nói riêng.
Làm cơ sở chống lại những luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc,
hạ thấp giá trị to lớn của cách mạng tháng Tám, của Hồ Chí Minh và dân tộc
Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, cần phát huy tƣ tƣởng sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tranh thủ sự đồng tình của quốc tế.
Góp phần nâng cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tạo nên ý chí và sức
mạnh thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nƣớc theo định hƣớng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

4


Chƣơng 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ
LÃNH ĐẠO TÀI TÌNH CỦA BÁC TRONG CAO TRÀO GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC (2/1941 - 3/1945)
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH.

1.1.1. Cơ sở lý luận.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc đƣợc “Luận cƣơng về những vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin. Từ đây Ngƣời sáng tỏ đƣợc nhiều điều đã
tìm ra con đƣờng để giải phóng dân tộc mình. Ngƣời đã rút ra kết luận: Muốn
cứu nƣớc và giải phóng dân tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng
cách mạng vô sản. Đó là con đƣờng cách mạng dân chủ tƣ sản kiểu mới do
Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và
phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện ngƣời cày có ruộng, sau
đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam. Đó là đƣờng lối giƣơng cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm
đi tới mục tiêu cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con ngƣời. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành cơ sở lý luận cho hệ tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh nói chung và về cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
1.1.2. Bối cảnh lịch sử tác động đến hành trình cứu nƣớc của Bác.
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam, sau khi hoàn thành
bình định về quân sự, chúng thi hành chính sách “khai thác thuộc địa” hết sức
tàn bạo đối với nƣớc ta, gây ra sự biến động to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội
Việt Nam, làm thay đổi kết cấu giai cấp, đảo lộn cuộc sống mọi tầng lớp nhân
dân. Việt Nam từ một nƣớc phong kiến độc lập trở thành nƣớc thuộc địa nửa
phong kiến.

5


Dƣới ách cai trị của thực dân Pháp, đời sống các tầng lớp nhân dân ngày
càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp xâm lƣợc và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu
thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa
chủ ngày càng gia tăng. Những mâu thuẫn trên trở thành lực cản kìm hãm sự

phát triển của xã hội Việt Nam.
Đứng trƣớc những mâu thuẫn dân tộc và giai cấp ngày càng gay gắt,
nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp và phong kiến tay sai nổ ra khắp nơi
với nhiều xu hƣớng cứu nƣớc khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống
Pháp dƣới ngọn cờ Cần vƣơng, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra, điển
hình là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dƣới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa
Thám kéo dài hơn 30 năm, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục do
các sỹ phu yêu nƣớc chịu ảnh hƣởng của tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản nhƣ Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo. Đó là trang sử vẻ vang của dân tộc trên
con đƣờng đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra rộng khắp cả nƣớc, nhƣng
tất cả các cuộc đấu tranh đều thất bại. Có thể nói, "Trong suốt gần một thế kỷ
thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam không ngừng phát triển, kẻ trƣớc ngã, ngƣời sau đứng dậy. Nhƣng tất cả
những cuộc khởi nghĩa yêu nƣớc ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây
đen lại bao phủ đất nƣớc Việt Nam". Hệ tƣ tƣởng phong kiến và tƣ sản đã
hoàn toàn bất lực trƣớc nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống
Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Vì vậy, đến đầu thế kỷ XX, việc tìm ra con
đƣờng cứu nƣớc, giành lại độc lập dân tộc, mở đƣờng cho đất nƣớc phát triển,
trở thành đòi hỏi khách quan, cấp bách của dân tộc Việt Nam.
Đƣợc sinh ra trong gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu
nƣớc, Nguyễn Tất Thành sớm mang trong mình lòng yêu nƣớc, thƣơng dân và
có tầm nhìn vƣợt xa những “lối mòn cứu nƣớc” của các bậc tiền bối. Những

6


năm tháng theo cha học hành, trong đó có thời gian sống gần Triều đình Huế
đã làm cho Ngƣời thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan
chức phong kiến, tay sai. Cho nên, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức
vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc cứu ngƣời, còn Nguyễn Tất Thành càng

nhận thức rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trƣờng. Thực tế này càng thôi
thúc Ngƣời quyết tâm ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc.
Từ những trải nghiệm cuộc sống và với trí tuệ vƣợt trội, Hồ Chí Minh đã
sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực
dân ở Việt Nam với cái lý tƣởng cao đẹp của nƣớc Pháp: "Tự do - Bình đẳng Bác ái", muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở nƣớc Pháp xa xôi!. Ngƣời cho rằng:
"Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Chính những nhận thức về bối cảnh
đất nƣớc và sự tìm hiểu của Nguyễn Tất Thành về nƣớc Pháp đã thôi thúc
Ngƣời đi tìm đƣờng cứu nƣớc.
1.2. HỒ CHÍ MINH CHỦ TRƢƠNG NÊU CAO NHIỆM VỤ GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI.

1.2.1. Tình thế cách mạng xuất hiện, vấn đề giải phóng dân tộc đặt ra cấp
thiết.
Ngày 1/9/1939, phát xít Đức bất ngờ đem quân tiến đánh Ba Lan - một
trong những nƣớc đồng minh của Anh, Pháp, Mỹ. Hai hôm sau, ngày 3/9,
Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, cuộc chiến tranh thế giới II chính thức
bùng nổ.
Tuy đã bị Đức lừa gạt, không thực hiện đúng những điều khoản đã đƣợc
ký kết trong "Hiệp ƣớc Muyních" ngày 29/9/1938, song do vẫn mang ảo
tƣởng có thể đi tới một sự "dàn xếp" để hƣớng sự tấn công của Đức sang Liên
Xô nên Anh, Pháp đã tạo ra một "Cuộc chiến tranh kỳ quặc", "dung dƣỡng"
cho những hành động tiếp theo của Đức. Lợi dụng thái độ đó của Anh, Pháp,
từ tháng 4/1940, sau khi thôn tính xong Ba Lan và chuẩn bị đầy đủ về mọi

7


mặt, phát xít Đức tập trung lực lƣợng đánh chiếm một loạt các nƣớc Tây Âu
nhƣ: Đan Mạch, Bỉ và Pháp. Bất lực trƣớc những đòn tấn công ồ ạt của phát
xít Đức, ngày 22/6/1940 Chính phủ Pháp ký hiệp ƣớc đầu hàng. Chính phủ bù

nhìn, tay sai cho Đức do Pêtanh đứng đầu đƣợc thành lập.
Sau những thắng lợi ban đầu, để phân chia khu vực thống trị thế giới,
ngày 27/9/1940, tại Béc - lin, Đức, Italia, Nhật Bản đã ký hiệp ƣớc "tay ba":
Nhật công nhận sự thống trị của Đức, Italia ở châu Âu. Đức, Italia công nhận
sự thống trị của Nhật ở Đông Á. Sự thống trị tàn bạo của các nƣớc phát xít đã
đẩy nhân loại đứng trƣớc một thảm hoạ khôn lƣờng, làm đảo lộn mọi hoạt
động trong xã hội của nhiều quốc gia. Lợi dụng tình hình chiến tranh, chính
phủ các nƣớc đế quốc thi hành chính sách phát xít cả ở chính quốc và thuộc
địa. Tại Pháp, ĐCS là lực lƣợng chống phát xít kiên quyết nhất bị gạt ra ngoài
vòng pháp luật. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, những ngƣời yêu nƣớc tiến bộ
bị khủng bố, tù đày.
Ở Đông Dƣơng, bọn phản động thuộc địa nhân cơ hội đó thi hành chính
sách cai trị thời chiến, nhằm tiêu diệt ĐCS và các tổ chức quần chúng do
Đảng lãnh đạo. Để làm cho xứ Đông Dƣơng đƣợc "yên ổn" và "trung thành
với nƣớc Pháp", ngày 28/9/1939 toàn quyền Đông Dƣơng ra nghị định ghi rõ:
"Cấm hết thảy mọi hoạt động có tính chất trực tiếp hay gián tiếp tuyên truyền
các khẩu hiệu của Quốc tế Cộng sản hay những tổ chức do Quốc tế Cộng sản
kiểm soát. Giải tán hết thảy các hội ái hữu, tổ chức hay cá nhân nào có liên hệ
với ĐCS" [9, tr.446]. Hành động đó của chúng đã thủ tiêu mọi quyền lợi mà
nhân dân ta đấu tranh giành đƣợc trong giai đoạn 1936 - 1939, báo chí tiến bộ
bị đóng cửa, hàng loạt cán bộ, đảng viên và quần chúng bị bắt bớ, đày đoạ
trong các nhà tù. Chỉ trong tháng 9/1939, riêng ở Bắc kỳ đã có đến 1051 cuộc
khám xét và bắt bớ. Trung kỳ và Nam kỳ cũng chẳng khác gì. Tàn bạo hơn,
thực dân Pháp còn đƣa nhiều chiến sỹ cách mạng đi đày ở các hòn đảo thuộc

8


địa của chúng ở châu Phi và Trung Mỹ để không còn cách nào vƣợt ngục
đƣợc. Với những cán bộ chủ chốt của Đảng, chúng tìm mọi cách để sát hại

nhƣ: đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai bị xử bắn
ngày 26/8/1941. Đồng chí Lê Hồng Phong, uỷ viên BCHTƢ ĐCS Đông
Dƣơng bị địch hành hạ đến chết trong nhà tù Côn Đảo ngày 6/9/1942.
Cùng với sự đàn áp, thực dân Pháp ra lệnh tổng động viên, bắt lính đƣa
sang Pháp phục vụ chính sách chiến tranh, bắt phu đi xây dựng các công trình
quân sự phòng thủ ở Đông Dƣơng. Để phục vụ chiến tranh, Pháp thực hiện
chính sách kinh tế thời chiến, nhằm vơ vét tối đa sức ngƣời, sức của ở Đông
Dƣơng. Chúng còn tăng cao thuế khoá làm giá cả tăng nhanh. Cùng với sự
tăng vọt của giá cả, việc kéo dài thời gian làm việc từ 48 giờ lên 60 giờ đối
với đàn ông, và 54 giờ trên một tuần đối với đàn bà và trẻ em mà không tăng
lƣơng, đã làm cho đời sống tầng lớp viên chức ngày càng trở nên tồi tệ. Đặc
biệt sau ngày Nhật vào Đông Dƣơng (9/1940) cùng thực dân Pháp cai trị nƣớc
ta, chúng đã đẩy dân ta vào cảnh "một cổ hai tròng", nền kinh tế do đó ngày
càng sa sút, đời sống của mọi tầng lớp nhân dân trở nên khốn đốn.
Có thể nói: Chính sách cai trị hà khắc và sự bóc lột tàn bạo của thực dân
Pháp, phát xít Nhật sau khi chiến tranh thế giới II bùng nổ đã làm cho mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với CNĐQ phát triển gay gắt tới đỉnh
tột cùng, trƣớc mắt đòi hỏi phải đƣợc giải quyết. Sự bùng nổ của các cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940) và binh
biến Đô Lƣơng (13/11/1941) là những minh chứng hùng hồn cho việc đòi hỏi
phải giải quyết những mâu thuẫn đó.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế giới do Liên Xô
làm trụ cột cũng tác động không nhỏ đến cách mạng Đông Dƣơng, giúp
phong trào cách mạng nƣớc ta vƣợt qua đƣợc những khó khăn thử thách,
vững niềm tin vào sự lãnh đạo của ĐCS, vào con đƣờng cách mạng đã đƣợc

9


xác định trong "Chính cƣơng sách lƣợc vắn tắt" năm 1930. Vì lẽ đó, trƣớc sự

đàn áp đẫm máu của kẻ thù, Đảng vẫn ngày càng phát triển cả về số lƣợng và
chất lƣợng, phong trào cách mạng không ngừng lớn mạnh.
Đối chiếu với lý luận Mác - Lênin và những điều kiện chủ quan, khách
quan của cách mạng nƣớc ta lúc này cho thấy: Tình thế cách mạng mới đã
xuất hiện, vấn đề giải phóng dân tộc đã đƣợc đặt ra cấp thiết. Lịch sử đang đặt
lên vai Đảng ta và Hồ Chí Minh sứ mệnh lịch sử nặng nề là lãnh đạo toàn dân
chớp thời cơ tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
1.2.2. Hồ Chí Minh về nƣớc hoàn chỉnh chủ trƣơng chuyển hƣớng chỉ
đạo chiến lƣợc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong
lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ vai trò vô cùng quan trọng của
lãnh tụ, những cá nhân kiệt xuất đối với sự phát triển của phong trào quần
chúng. Với khả năng nhìn xa, trông rộng, sớm nắm bắt chính xác xu thế phát
triển và những yêu cầu đòi hỏi mới của lịch sử, lãnh tụ luôn là ngƣời có
những chủ trƣơng, biện pháp đúng đắn sáng tạo nhằm tập trung lực lƣợng,
khơi dậy tiềm năng, sức mạnh của quần chúng nhân dân và tận dụng đƣợc
những điều kiện thuận lợi nhất để tổ chức, lãnh đạo mọi lực lƣợng, thực hiện
thắng lợi những yêu cầu, nhiệm vụ của lịch sử đặt ra. Với ý nghĩa đó, sự xuất
hiện vào đúng thời điểm lịch sử quan trọng của Bác khi cuộc chiến tranh thế
giới II bùng nổ, là minh chứng hùng hồn về vai trò quan trọng của lãnh tụ.
Cụ thể là: Khi trục phát xít Béclin - Rôma - Tôkiô đƣợc thành lập, nguy
cơ về cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai không còn xa nữa, Hồ Chí Minh đã
viết thƣ cho Ban thƣ ký của Quốc tế Cộng sản xin đƣợc về nƣớc qua con
đƣờng của ĐCS Trung Quốc. Đƣợc sự nhất trí của Quốc tế Cộng sản, Ngƣời
đã gấp rút chuẩn bị lên đƣờng. Đầu năm 1940, Ngƣời về đến Côn Minh
(Trung Quốc). Tại đây Ngƣời đã bắt liên lạc với bộ phận ở ngoài nƣớc của

10



Đảng ta là các đồng chí Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh. Sau đó lại
gặp thêm các đồng chí Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp ở trong nƣớc mới
sang. Qua nghe trao đổi tình hình trong nƣớc, quốc tế, Ngƣời đã giới thiệu
đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đi học trƣờng Quân chính của
ĐCS Trung Quốc. Thế nhƣng ngày 20/6/1940, đƣợc tin Paris rơi vào tay Đức
Quốc Xã, Ngƣời đã cho tổ chức một cuộc họp và nhận định: "Việc Pháp bại
trận là một cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách
về nƣớc ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng"
[7, tr.245]. Theo đó, Ngƣời đã chỉ thị hoãn việc đi học của hai đồng chí Phạm
Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, đồng thời báo tin cho đồng chí Lê Thiết Hùng
đang làm Sƣ đoàn trƣởng trong quân đội của Quốc dân Đảng Trung Hoa,
nhanh chóng tìm cách về nƣớc nhận công tác.
Để giúp dân tộc mình giành đƣợc độc lập khi thời cơ đến, Hồ Chí Minh
đã cho ngƣời về nƣớc tìm nơi dừng chân. Đến ngày 28/1/1941 sau 30 năm
hoạt động ở nƣớc ngoài, Hồ Chí Minh đã về tới Tổ quốc. Ngày 8/2, một số
cán bộ tỉnh Cao Bằng thay mặt nhân dân cả nƣớc hân hoan đón Ngƣời về Pác
Bó. Đây là một vùng sát biên giới Việt - Trung, có rừng cây rậm rạp, dân cƣ
thƣa thớt, phần lớn là đồng bào dân tộc Nùng. Việc liên lạc qua lại hết sức
khó khăn. Những ngày đầu Ngƣời ở hang Cốc Bó với bí danh Già Thu. Sau
để bảo đảm tuyệt đối bí mật, Hồ Chí Minh lại chuyển sang hang Lũng Lạn, cả
hai hang này đều nằm trên địa bàn của bản Pác Bó.
Thời gian này, cuộc sống và hoạt động của Ngƣời hết sức khó khăn,
Ngƣời vẫn làm việc say mê: Mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ; trực tiếp
xây dựng các đoàn thể cứu quốc ở Cao Bằng để rút kinh nghiệm và dịch bộ
"Lịch sử ĐCS Liên Xô". Nhƣng thời gian của Ngƣời chủ yếu là tập trung vào
các công việc chuẩn bị cho việc tổ chức Hội nghị lần thứ 8 của Trung ƣơng
Đảng, một Hội nghị có vai trò quan trọng bậc nhất đối với sự thắng lợi của

11



cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở nƣớc ta. Ngƣời say sƣa dồn hết tâm
trí vào công việc, bởi sau 30 năm rời xa Tổ quốc, giờ đây Ngƣời mới có điều
kiện để thực hiện tâm nguyện của mình: "Trở về nƣớc, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đƣa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập" [8, tr.48].
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị chu đáo tháng 5/1941, thay mặt Quốc tế
Cộng sản, Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ƣơng ĐCS Đông Dƣơng. Hội nghị đƣợc tiến hành từ ngày 10 đến ngày
19/5/1941 trong khu rừng Khuổi Nậm. Nơi họp là một lán nhỏ dựng tạm bên
bờ suối. Hội nghị triệu tập 15 đồng chí, song do vắng đại biểu xứ uỷ Nam Kỳ
nên chỉ có 9 đại biểu tới dự, gồm các đồng chí đại biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
đại diện bộ phận hoạt động ở nƣớc ngoài. Trƣớc khi khai mạc Hội nghị,
Ngƣời gặp riêng các đồng chí Trƣờng Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc
Việt để trao đổi tình hình. Dƣới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Hội nghị đi sâu
phân tích tình hình thế giới, trong nƣớc và làm rõ những yêu cầu, nhiệm vụ mới
của cách mạng nƣớc ta.
Về tình hình thế giới, Hội nghị chỉ rõ: Nguyên nhân gây ra cuộc chiến
tranh thế giới II là do mâu thuẫn giữa các nƣớc đế quốc đã hết sức "quyết
liệt, dữ dội". Nó không những giết hại nhân loại mà còn tự tiêu hao lực
lƣợng lẫn nhau.
Về tình hình Đông Dƣơng, Hội nghị chỉ rõ: Sự vơ vét, bóc lột tàn bạo
của thực dân Pháp, phát xít Nhật và ách thống trị hà khắc của chúng đã đẩy
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với CNĐQ lên đỉnh tột cùng, các
cuộc khởi nghĩa nổ ra báo hiệu cho một cuộc khởi nghĩa toàn quốc.
Từ những nhận định đó, Hội nghị cho rằng: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc
là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dƣơng. Chúng ta phải gấp rút
chuẩn bị lực lƣợng về mọi mặt để đón thời cơ giành thắng lợi quyết định cho sự

12



nghiệp giải phóng dân tộc. Để đòi lại "độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc",
Hội nghị quyết định tạm gác khẩu hiệu: "Cách mạng ruộng đất" của Hội nghị
Trung ƣơng 6 mà tập trung mũi nhọn vào chống đế quốc và tay sai, giành độc
lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, chia lại ruộng đất công, tiến tới
thực hiện ngƣời cày có ruộng.
Khi bàn về hình thức và nội dung của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam, có đại biểu đề nghị vẫn giữ tên "Mặt trận thống nhất phản đế Đông
Dƣơng", lại có ý kiến nên lấy tên là "Mặt trận phản đế Đông Dƣơng". Hồ Chí
Minh đề nghị lấy tên là "Việt Nam độc lập đồng minh", gọi tắt là "Việt Minh",
Hội nghị đã nhất trí với sáng kiến đó của Ngƣời. Để nhấn mạnh khẩu hiệu giải
phóng dân tộc, Hội nghị nêu rõ mục đích của các hội quần chúng trong Mặt
trận là cứu nƣớc nên tên các hội quần chúng đều thống nhất là "Hội cứu quốc".
Hội nghị còn quyết định thành lập các tổ chức vũ trang, nửa vũ trang và
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm. Hội nghị đặc biệt nhấn
mạnh công tác xây dựng Đảng nhằm lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dƣơng
đi đến toàn thắng. Cụ thể là: Việc đào tạo cán bộ nay đã thành công tác gấp
rút, không thể bỏ qua một giờ phút. Nhất trí với đề nghị của Hồ Chí Minh,
Hội nghị đã bầu ra BCHTƢ Đảng mới do đồng chí Trƣờng Chinh làm Tổng
bí thƣ và bầu ra Ban Thƣờng vụ gồm các đồng chí Trƣờng Chinh, Hoàng Văn
Thụ và Hoàng Quốc Việt.
Với những nội dung trên, Hội nghị lần thứ 8 BCHTƢ Đảng, dƣới sự chủ
trì của Hồ Chí Minh có một ý nghĩa hết sức to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh
chủ trƣơng chuyển hƣớng chỉ đạo chiến lƣợc do các HNTƢ lần thứ 6, 7 đề ra,
góp phần quan trọng, quyết định đến thắng lợi của cao trào cách mạng 1939 1945 và Cách mạng tháng Tám.
Nhƣ vậy, dƣới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, HNTƢ lần thứ 8 của Đảng
(5/1941) đã thành công rực rỡ. Nó không chỉ thể hiện sự sáng tạo của Đảng

13



trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam, mà còn biết biến tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc thành đƣờng lối, chính sách cụ thể, đáp ứng kịp thời những yêu cầu, đòi
hỏi mới của lịch sử đặt ra, đáp ứng đƣợc nguyện vọng tha thiết của mọi tầng
lớp nhân dân. Do đó, mọi chủ trƣơng, chính sách mà Trung ƣơng đề ra đã đƣợc
toàn Đảng, toàn dân chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần quan trọng tạo nên
thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Có đƣợc thành công đó,
công đầu thuộc về Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ tối cao của Đảng và của toàn thể
dân tộc, Ngƣời đã trực tiếp về nƣớc triệu tập và chủ trì Hội nghị, quyết định
những vấn đề hệ trọng, liên quan đến tiền đồ tƣơi sáng của cách mạng nƣớc ta.
1.3. HỒ CHÍ MINH CÙNG TRUNG ƢƠNG ĐẢNG CHUẨN BỊ KHỞI NGHĨA
GIÀNH CHÍNH QUYỀN.

1.3.1. Xây dựng lực lƣợng chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân trong khuôn khổ mặt trận dân tộc thống nhất.
Lực lƣợng cách mạng bao gồm lực lƣợng chính trị quần chúng và lực
lƣợng vũ trang nhân dân. Để có lực lƣợng chính trị, trên cơ sở thấu suốt quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
quần chúng nhân dân là ngƣời sáng tạo ra lịch sử. Không có sự tham gia tích
cực của quần chúng thì không có cuộc cách mạng nào trong lịch sử có thể
giành thắng lợi đƣợc. Đồng thời, kế thừa truyền thống đoàn kết gắn bó trong
lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam, ngay từ những năm 20
của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã hết sức quan tâm đến xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, nhằm tập hợp, huy động mọi lực lƣợng cách mạng, phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đấu tranh cho độc lập, tự do và xem đó
là bí quyết tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam. Điều đó thể hiện rất rõ
trong tác phẩm "Đƣờng cách mệnh" (1927) và "chính cƣơng sách lƣợc vắn
tắt" (1930) do Ngƣời soạn thảo: công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà


14


buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông, Cách mạng là việc chung
của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai ngƣời.
Từ quan điểm đó, khi cuộc chiến tranh thế giới II bùng nổ, dù đang ở
nƣớc ngoài hay khi đã về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đều tranh thủ thời gian, điều
kiện để xây dựng lực lƣợng chính trị, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, coi
đó là vấn để quan trọng bậc nhất của cách mạng. Vào tháng 10/1940, khi
đƣợc tin hơn 40 thanh niên các dân tộc ở Cao Bằng bị thực dân Pháp khủng
bố mạnh đã vƣợt biên giới sang Quảng Tây (Trung Quốc), Ngƣời đã chỉ đạo
một số đồng chí hoạt động ở Quế Lâm tổ chức cho anh em dự lớp huấn luyện
rồi đƣa về nƣớc củng cố và mở rộng phong trào ở Cao Bằng.
Đầu tháng 1/1941, tại Nậm Quang (Trung Quốc), Hồ Chí Minh đã tổ
chức lớp học và trực tiếp huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ cách mạng Việt
Nam. Cộng sự của Ngƣời có Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp. Nhờ sự huấn luyện của Ngƣời, những cán bộ tỉnh Cao Bằng
sau khi về nƣớc đã nhanh chóng xây dựng nhiều tổ chức cứu quốc ở các địa
phƣơng trong tỉnh. Chỉ tính từ tháng 2 đến tháng 4/1941, ở huyện Hòa An đã
có 6/7 tổng và huyện Hà Quảng có 10/27 xã xây dựng đƣợc các tổ chức cứu
quốc. Điều đó chứng tỏ chủ trƣơng xây dựng lực lƣợng chính trị, phát huy sức
mạnh đoàn kết trong khuôn khổ Mặt trận của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng
đắn. Căn cứ vào kết quả bƣớc đầu của việc xây dựng thí điểm các đoàn thể
cứu quốc, cuối tháng 4/1941, Hồ Chí Minh chỉ thị cho Tỉnh uỷ Cao Bằng tổ
chức Hội nghị cán bộ của ba huyện Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình, là
những nơi đã xây dựng đƣợc phong trào quần chúng khá mạnh để rút kinh
nghiệm ở bản Coọc Mu (Pác Bó). Hội nghị khẳng định: Thành công của công
tác xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc, mở đầu bằng lớp huấn luyện
cán bộ "Việt Minh" do Hồ Chí Minh trực tiếp phụ trách là một thắng lợi của

phong trào cách mạng. Chứng tỏ chủ trƣơng thành lập MTVM của Hồ Chí

15


Minh là đúng đắn, kịp thời, đáp ứng đƣợc yêu cầu của cách mạng, nguyện
vọng của nhân dân.
Để khơi dậy truyền thống yêu nƣớc, anh hùng, bất khuất, truyền thống
đoàn kết đang tiềm ẩn trong mỗi ngƣời dân, tháng 2/1942, Hồ Chí Minh lại
viết cuốn "Lịch sử nƣớc ta" theo thể thơ lục bát làm tài liệu cho cán bộ trong
các lớp huấn luyện ở căn cứ cách mạng và phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Mở đầu là câu:
"Dân ta phải biết sử ta
Cho tƣờng gốc tích nƣớc nhà Việt Nam"
Cũng trên báo Việt Lập số 117, ngày 1/2/1942, Hồ Chí Minh đã viết bài
"Nên học sử ta", khẳng định một bài học lớn là "Lúc nào dân tộc đoàn kết
muôn ngƣời nhƣ một thì nƣớc ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không
đoàn kết thì bị nƣớc ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết
mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi dƣới ngọn cờ Việt Minh để đánh đuổi
Tây, Nhật, khôi phục lại độc lập tự do." [6, tr.217]
Cùng với việc chỉ đạo, viết bài cho báo, tháng 10/1941, Tuyên ngôn,
Chƣơng trình, Điều lệ của Việt Minh dƣới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã
đƣợc công bố. Những văn kiện này đã thể hiện rõ tƣ tƣởng của Ngƣời và Nghị
quyết HNTƢ 8 về mở rộng xây dựng lực lƣợng chính trị, tăng cƣờng đoàn kết
toàn dân. Chủ trƣơng của MTVM là: "Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân
dân, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hƣớng chính trị nào, giai cấp
nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành quyền độc lập cho
xứ sở." [1, tr.149] Sau khi giành đƣợc độc lập sẽ thành lập một chính phủ
nhân dân của Việt Nam Dân chủ cộng hoà, thực hiện quyền tự do dân chủ
rộng rãi cho toàn dân, quyền bình đẳng cho nam nữ và các dân tộc, phát triển

kinh tế, văn hoá, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, bảo vệ
độc lập, bảo vệ hoà bình. Văn kiện chỉ rõ muốn đƣợc nhƣ vậy thì tất cả đồng

16


bào: "hãy mau mau gia nhập vào các đoàn thể cứu quốc của Việt Minh … hãy
mau mau đoàn kết thống nhất chung quanh bản chƣơng trình trên đây để đánh
Pháp, đuổi Nhật, giành lại quyền độc lập cho nƣớc Việt Nam." [1,tr.152-153]
Khoảng giữa năm 1941, tại Pác Bó, Hồ Chí Minh đã tổ chức lớp huấn
luyện chính trị, quân sự ngắn hạn cho cán bộ địa phƣơng. Ngƣời trực tiếp
giảng bài. Trong các buổi học, Ngƣời thƣờng nói về tình hình trong nƣớc và
các nhiệm vụ cách mạng trƣớc mắt, về năm bƣớc công tác quần chúng. Đầu
năm 1942, Hồ Chí Minh mở lớp chính trị tại hang Kéo Quảng. Học viên hầu
hết là cán bộ lãnh đạo của tỉnh uỷ Cao Bằng, nhƣ: Hoàng Đức Thạc, Hoàng
Sâm, Lê Quảng Ba, Bình Dƣơng, Xích Thắng và Bằng Giang.
Nhờ sự hoạt động không mệt mỏi của Hồ Chí Minh và Trung ƣơng
Đảng, đến đầu năm 1945, lực lƣợng chính trị cách mạng quần chúng đã phát
triển rộng lớn trên phạm vi cả nƣớc, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân
đƣợc nâng cao, uy tín của Đảng, của MTVM ngày càng phát triển, trở thành
niềm tin, chỗ dựa vững chắc của toàn dân.
1.3.2. Xây dựng lực lƣợng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Lý luận về cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định:
"Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Cách mạng bạo lực biểu hiện ở
hai hình thức cơ bản là khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Khởi
nghĩa phải dựa vào một bƣớc ngoặt lịch sử của cuộc cách mạng đang lên,
khởi nghĩa chỉ thành công khi có sự chuẩn bị lực lƣợng chu đáo và nổ ra đúng
thời cơ.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm đó và qua đúc rút những bài học kinh
nghiệm của nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh

đã xác định: Con đƣờng phát triển của cách mạng Việt Nam là con đƣờng
cách mạng bạo lực. Trong tác phẩm "Đƣờng cách mệnh" (1927), Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Để giành đƣợc thắng lợi, cách mạng Việt Nam phải đi theo

17


con đƣờng của cuộc Cách mạng tháng Mƣời Nga, phải học tập kinh nghiệm
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của Đảng Bônsêvích. Đến: "chính
cƣơng, sách lƣợc vắn tắt", một lần nữa Ngƣời khẳng định: cách mạng Việt
Nam phải tiến hành bằng sức mạnh bạo lực của quần chúng, phải đánh đổ
CNĐQ Pháp và bọn phong kiến, dựng ra chính phủ công - nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo, chứ không phải bằng con đƣờng "cải lƣơng, thỏa hiệp".
Trung thành với sự lựa chọn đó, khi trở về Tổ quốc, cùng với việc tích cực
thúc đẩy các hoạt động xây dựng lực lƣợng chính trị, Hồ Chí Minh đã từng
bƣớc tiến hành chỉ đạo xây dựng lực lƣợng vũ trang. Để chuẩn bị cho vấn đề
này, ngay từ giữa năm 1939, khi từ Liên Xô sang Trung Quốc để tìm đƣờng
về nƣớc, Ngƣời đã viết nhiều bài báo để tổng kết những vấn đề chiến lƣợc,
chiến thuật quân sự rút ra từ cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Quốc. Tại
Hội nghị Trung ƣơng 8 (5/1941) dƣới sự chỉ đạo của Ngƣời, cùng với việc
chủ trƣơng mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc ở nông thôn, rừng núi,
Hội nghị đã quyết định thành lập những đội tự vệ cứu quốc và những tiểu tổ
du kích cứu quốc làm lực lƣợng xung kích trong các cuộc khởi nghĩa ở địa
phƣơng và tổng khởi nghĩa. Tiếp theo đó Hồ Chí Minh đã mở lớp huấn luyện
chính trị - quân sự ngắn hạn cho một số cán bộ ở Pác Bó.
Khoảng đầu tháng 10/1941, Ngƣời đã giao cho Lê Thiết Hùng, Lê Quảng
Ba, Hoàng Sâm, cùng cộng tác mở lớp huấn luyện quân sự. Một thời gian sau
yêu cầu họ báo cáo về việc thành lập đội vũ trang và Ngƣời chỉ định: Lê Quảng
Ba làm đội trƣởng, Lê Thiết Hùng làm chính trị viên, Hoàng Sâm làm đội phó
[10, tr.138]. Đến đầu tháng 11, Ngƣời đến dự lễ thành lập đội vũ trang đầu tiên

ở Cao Bằng và nhắc nhở mọi ngƣời phải đoàn kết, chấp hành kỷ luật tốt, khiêm
tốn học hỏi, giúp nhau về chính trị, quân sự cũng nhƣ trong sinh hoạt, đối với
dân phải nhƣ cá với nƣớc. Sau đó trao cho Lê Quảng Ba tờ giấy ghi 10 điều kỷ
luật và những nguyên tắc hoạt động của đội [10, tr.141, 142] .

18


×