Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa quân tây sơn trong đại phá quân thanh năm 1789

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.53 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN THÙY QUYÊN

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC
HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN CỦA
NGHĨA QUÂN TÂY SƠN TRONG ĐẠI
PHÁ QUÂN THANH NĂM 1789
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh

HÀ NỘI- 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

NGUYỄN THÙY QUYÊN

NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC
HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN CỦA
NGHĨA QUÂN TÂY SƠN TRONG ĐẠI
PHÁ QUÂN THANH NĂM 1789
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học

ĐẠI TÁ ĐÀO VĂN CHUNG

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn thầy giáo Đại tá Đào Văn Chung đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, cán bộ, giảng viên Trung
tâm GDQPAN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại Trung tâm và hoàn thành
tốt khóa luận tốt nghiệp.
Em xin được cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn
bè, người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và thực hiện khóa luận.
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn, nên khóa luận không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô
và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thùy Quyên


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành là kết quả
nghiên cứu và do sự cố gắng nỗ lực của bản thân.
Nội dung khóa luận tốt nghiệp này không trùng với các kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thùy Quyên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................ 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................... 3
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài ...................................................................... 3
Chương 1- NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ
THỰC HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH CỦA
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN
CỦA NGHĨA QUÂN TÂY SƠN ĐẠI PHÁ QUÂN THANH NĂM 1789 ........... 4
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn
của quân và dân ta .......................................................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn ............ 4
1.1.2. Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn trong lịch sử chống
giặc ngoại xâm của dân tộc ta ...................................................................................... 4
1.2. Các yếu tố hình thành nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn
của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789 ................................. 8
1.2.1. Cơ sở hình thành nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của
nghĩa quân Tây Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh ............................. 8
1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh ....................... 12
Kết luận chương 1 ........................................................................................................ 15
Chương 2- NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH NHỮNG TRẬN

ĐÁNH LỚN CỦA NGHĨA QUÂN TÂY SƠN ĐẠI PHÁ QUÂN THANH NĂM
1789 VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA ........................................................ 16


2.1 Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn
đại phá quân Thanh năm 1789 .................................................................................... 16
2.1.1. Quan niệm về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của
nghĩa quân Tây Sơn đại phá quân Thanh năm 1789................................................ 16
2.1.2. Diễn biến, kết quả các trận đánh quan trọng ................................................. 19
2.2. Những kinh nghiệm rút ra từ nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh
lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789 ......................... 22
2.2.1. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đối tượng tác chiến,
đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay................................. 22
2.2.2. Những bài học kinh nghiệm .............................................................................. 31
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 38
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 40


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

TT

KÝ HIỆU VIẾT TẮT

CHỮ VIÊT ĐẦY ĐỦ

1

CNH


Công nghiệp hóa

2

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

3

HĐH

Hiện đại hóa

4

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trên con đường lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc
ta đã phải chống lại những kẻ thù xâm lược lớn hơn ta rất nhiều lần về cả mặt
quân sự, kinh tế, nhưng ta vẫn chiến đấu kiên cường và đã chiến thắng một
cách oanh liệt. Truyền thống đánh giặc giữ nước đó viết nên những trang sử
hào hùng của dân tộc, với những chiến thắng lớn như trận Bạch Đằng, Như

Nguyệt, Chương Dương,... gắn liền với tên tuổi của các vị tướng tài: Ngô
Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,...
Những cuộc chiến tranh giữ nước và chống giặc ngoại xâm của ông cha
ta đều mang tính chất nhân dân và thể hiện rõ rệt vai trò chủ động định đoạt
và tự giác của nhân dân. Cách đây 228 năm, mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789,
nghĩa quân Tây Sơn dũng mãnh, dưới sự chỉ huy của người Anh hùng áo vải
Quang Trung - Nguyễn Huệ đã tiến công thần tốc, mãnh liệt, đánh tan hàng
vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, giải phóng kinh thành Thăng
Long, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Ngược dòng lịch sử, Triều đình Mãn Thanh từ khi được thiết lập đã rắp
tâm xâm lược nước ta, nhưng chưa tìm được cớ gây hấn. Lợi dụng hành động
"rước voi về giày mồ" của bè lũ phong kiến phản động Lê Chiêu Thống, quân
Thanh đã tràn sang xâm chiếm nước ta với một lực lượng viễn chinh lớn gồm
20 vạn quân.
Trước tình hình thù trong, giặc ngoài, nhận thấy nguy cơ chủ yếu là
bọn phong kiến xâm lược phương bắc, Nguyễn Huệ đã làm lễ lên ngôi Hoàng
đế, lấy niên hiệu Quang Trung, rồi nhanh chóng tiến công ra bắc. Ngày
15/1/1789, Nguyễn Huệ cùng đại quân (sau khi đã tăng quân số lên đến 10
vạn người) và một đội tượng binh lớn gồm vài trăm voi chiến đã ra đến Tam
1


Điệp, hội quân với Đại tư mã Ngô Văn Sở, chuẩn bị phản công quân Thanh.
Sự chỉ huy tài tình của Nguyễn Huệ và nghệ thuật quân sự tuyệt vời đã giúp
triều đình Tây Sơn giành đại thắng trận Ngọc Hồi- Đống Đa. Đó là nghệ thuật
tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn. Chiến
thắng Ngọc Hồi- Đống Đa mùa xuân năm 1789 không chỉ là cuộc chiến thắng
về sức mạnh mà nó còn là cuộc đại thắng về nghệ thuật tổ chức và thực hành
những trận đánh lớn của triều đình Tây Sơn chống quân Thanh xâm lược.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghệ thuật tổ

chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong
đại phá quân Thanh năm 1789” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn
của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789. Từ đó, rút ra
được những bài học kinh nghiệm từ những nghệ thuật đó và vận dụng một
cách hiệu quả vào phát triển nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về nền quân sự nước ta dưới thời Quang Trung, khả năng
tác chiến, điều quân của Quang Trung.
Nghiên cứu về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn
của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789.
Rút ra những bài học kinh nghiệm từ nghệ thuật tổ chức và thực hành những
trận đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa quân
Tây Sơn đại phá quân Thanh năm 1789.
2


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa xuân Kỷ Dậu 1789 của nghĩa quân
Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Quang Trung- Nguyễn Huệ.
Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự rút ra từ chiến thắng
đại phá quân Thanh năm 1789.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu và trình bày các tư liệu lịch sử có liên
quan đến triều đình Tây Sơn và nhất là chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa.

Phương pháp nghiên cứu về cơ sở, phương pháp luận về logic: Nghiên
cứu tổng quát về cách đánh giặc của triều Tây Sơn, từ đó làm rõ về nghệ thuật
tổ chức và thực hành những trận đánh lớn trong chiến thắng Ngọc Hồi- Đống
Đa năm 1789.
6. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học
Tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận
đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789 qua đó
làm rõ về nội dung, bối cảnh, cách tổ chức và thực hành các trận đánh của vị
anh hùng áo vải Quang Trung- Nguyễn Huệ và rút ra những kinh nghiệm, bài
học quý giá nhằm phát triển nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần vào việc làm rõ về nghệ thuật đánh giặc của triều Tây
Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789.
Dùng làm tài liệu để học sinh, sinh viên, giáo viên tham khảo và sử
dụng trong quá trình học tập và giảng dạy ở trường THPT.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC
HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH LỚN VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH CỦA
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH
LỚN CỦA NGHĨA QUÂN TÂY SƠN ĐẠI PHÁ
QUÂN THANH NĂM 1789
1.1. Những vấn đề cơ bản về nghệ thuật tổ chức và thực hành những
trận đánh lớn của quân và dân ta
1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận

đánh lớn
Trong nghệ thuật quân sự, việc tổ chức và thực hành các trận đánh lớn
và then chốt giữ vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến thắng
lợi hay thất bại của chiến dịch. Có thể nói, trận then chốt chiến dịch là cốt lõi,
là linh hồn của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Đó có thể là một trận chiến đấu
lớn hoặc một số trận chiến đấu diễn ra đồng thời hoặc kế tiếp nhau, liên kết
với nhau, trong một không gian và thời gian nhất định, nhằm đạt được mục
đích nhất định về quân sự trên chiến trường; do một bộ phận lực lượng quan
trọng tiến hành, chịu sự chỉ huy điều hành theo một ý định và kế hoạch thống
nhất của người chỉ huy. Trận then chốt chiến dịch là nhân tố quan trọng tạo
nên chuyển biến có lợi hoặc quyết định cho sự thành công của các trận then
chốt chiến dịch trong kháng chiến chống quân xâm lược.
1.1.2. Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn trong
lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã bắt đầu thời đại dựng nước và giữ nước ngay
từ khi Vua Hùng mở ra nhà nước Văn Lang. Từ đó, lịch sử đã đặt ra cho dân tộc
ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhưng
4


với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, với truyền thống đoàn kết vươn
lên trong đấu tranh và xây dựng, với tài thao lược kiệt xuất của cha ông, nhân
dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc
nền độc lập dân tộc. Từ trong thực tiễn chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình
thành nghệ thuật chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Trong quá
trình đó, nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của ông cha ta
từng bước phát triển và được thể hiện rất sinh động trong các cuộc khởi nghĩa.
Trong các triều đại phong kiến, ông cha ta đã tổ chức và thực hành các trận đánh
lớn để giải phóng đất nước, kết thúc chiến tranh.

Thời nhà Lí có phòng ngự sông Cầu (Như Nguyệt), đây là một điển
hình về kết hợp chặt chẽ hai hình thức tác chiến phòng ngự và phản công trên
cả quy mô chiến lược, chiến thuật. Trận đánh trên sông Như Nguyệt nằm
trong tổng thể ý đồ tác chiến chiến lược của Lý Thường Kiệt (tiến công sang
đất địch- tổ chức phòng ngự chiến lược đề phản công đánh bại hoàn toàn ý đồ
xâm lược của chúng) là bước phát triền của nghệ thuật giữ nước, khẳng định
chủ quyền dân tộc. Ta đã chủ động phòng ngự, phòng ngự trong thế giặc
mạnh và phòng ngự thắng lợi. Trong tác chiến, ta đã kết hợp phòng ngự chính
diện với đánh địch ở phía sau, khiến địch bị tiêu hao, mỏi mệt. Sau đó nắm
thời cơ, ta bất ngờ tung ra đòn phản công mạnh tiêu diệt tập đoàn chủ yếu của
địch, kết thúc chiến tranh. Cùng với các đòn tiến công sang đất địch, trận Như
Nguyệt một lần nữa khẳng định cách đánh giải quyết nhanh của quân đội nhà
Lý. Ở đây, lần đầu tiên đã xuất hiện một phương thức kết thúc chiến tranh với
giặc ngoại xâm: trong thế thắng, ta vẫn chủ động giảng hoà, mở đường cho
giặc rút về nước.
Thời nhà Trần, trong trận Bạch Đằng (9/4/1288), 8 vạn thuỷ quân và
400 thuyền chiến của địch đã bị ta tiêu diệt. Nghệ thuật quân sự của quân dân
thời Trần là phối hợp chặt chẽ giữa quân đội nhà vua (chủ lực) và dân binh
5


địa phương. Trong tác chiến đã sử dụng hình thức phục kích để tiêu diệt địch.
Về chiến lược, chiến thuật: chọn đạo quân thuỷ của địch làm đối tượng tiến
công, tiêu diệt trước và chủ yếu; đó là một quyết tâm rất chính xác vì so với
đạo bộ binh chủ lực, thì số lượng đạo quân thủy ít hơn, không giỏi chiến đấu
bằng và phải tốn nhiều công sức xây dựng. Quãng sông Bạch Đằng, nơi được
chọn làm địa điểm tác chiến là một khu vực hiểm yếu có đủ những điều kiện
cần thiết, đáp ứng được yêu cầu bố trí một trận mai phục trên sông với quy
mô lớn. Tuy vậy, muốn khai thác triệt để những điều kiện thuận lợi trên, còn
cần phải có một nghệ thuật tác chiến rất cao, như tìm cách cô lập hoàn toàn

đạo quân thuỷ của Ô Mã Nhi với đạo bộ binh chủ lực của Thoát Hoan, tách
rời đạo kỵ binh đi yểm hộ và dần dần điều động đạo quân thuỷ này từng bước
lọt vào đúng trận địa mai phục, theo đúng thời gian đã được xác định. Bởi
vậy, đạo thuỷ quân địch dù đông tới 8 vạn tên, được đề phòng rất cẩn mật,
nhưng vẫn gặp nhiều bất ngờ, lúng túng buộc phải bị động đối phó từ đầu đến
cuối, và kết quả là bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến thắng Bạch Đằng còn là kết
quả của sự phối hợp tác chiến có hiệu quả cao giữa thuỷ quân và bộ binh, giữa
quân chủ lực với các đội dân binh, giữa các lực lượng tham chiến về thời gian
và không gian. Thế là trong vòng ba mươi năm, quân dân ta đã ba lần đánh
thắng giặc Nguyên Mông, đội quân xâm lược mạnh nhất và hung hãn nhất của
thời đó, bảo vệ quyền độc lập tự chủ của đất nước, góp phần bảo vệ nền độc
lập của các nước Đông Nam Á. Sức mạnh để làm nên chiến thắng là khối
đoàn kết toàn dân như Trần Hưng Đạo đã nói, đó là ''vua tôi đồng lòng, anh
em hoà thuận, nước nhà chung sức". Chính nhờ khối đoàn kết đó mà một
cuộc chiến tranh nhân dân, ''cả nước đánh giặc ", "trăm họ là binh", mới có
thể thực hiện. Và sau cùng, nguyên nhân sâu xa hơn của chiến thắng là sự ổn
định kinh tế- xã hội thời Trần, được tạo ra từ đường lối "lấy dân làm gốc".
Nói đến những chiến công chống xâm lược thời Trần, chúng ta không thể

6


không nhớ tới câu nói tuyệt vời của Trần Hưng đạo: ''Khoan thư sức dân làm
kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước''.
Thời nhà hậu Lê, sau 10 năm bền bỉ, gian khổ, ngoan cường, cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang giải
phóng dân tộc, giải phóng Thăng Long. Thắng lợi đó là kết quả của nhiều yếu
tố, trong đó nghệ thuật tổ chức và thực hành các trận đánh lớn giữ một vai trò
rất quan trọng, đặc biệt ở giai đoạn cuối của chiến tranh. Trong chỉ đạo tác
chiến, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương "lánh chỗ thực, đánh chỗ hư, tránh

nơi vững chắc, đánh nơi sơ hở". Khi nghe tin viện binh nhà Minh sắp sang,
nhiều tướng sĩ yêu cầu Lê Lợi hạ gấp thành Đông Quan (Thăng Long) để diệt
trừ nội ứng, rồi sau đó sẽ dốc toàn lực để đánh viện binh. Lê Lợi đã phân tích
một cách sáng suốt và quyết định: "Đánh thành là hạ sách...Sao bằng nuôi
dưỡng sức quân, giữ lấy nhuệ khí để đợi viện binh của giặc. Viện binh bị phá
thì thành tất phải hàng. Làm một việc mà được cả hai, đó mới là kế sách vẹn
toàn". Việc lựa chọn rất đúng mục tiêu tiến công chiến lược và kiệt xuất trong
tổ chức, thực hành trận quyết chiến Xương Giang - Chi Lăng, buộc lũ giặc
Vương Thông trong thành Đông Quan không đánh mà bị bắt đã chứng tỏ tài
năng quân sự xuất sắc của ông trong tổ chức và thực hành các trận đánh lớn
của ông cha ta.
Nghệ thuật quân sự của Nguyễn Huệ và triều đình Tây Sơn được biểu
hiện tập trung nhất, rực rỡ nhất trong việc tổ chức và thực hành các trận quyết
chiến chiến lược, đặc biệt là giải phóng Thăng Long trong mùa xuân Kỷ Dậu
1789. Khi chọn đánh vào Thăng Long, là địa bàn tập trung hầu hết quân địch,
là nơi bộ chỉ huy quân Thanh và triều đình Lê Chiêu Thống, Nguyễn Huệ đã
nhìn thấy rất rõ trong cái mạnh của địch, chúng bộc lộ những điểm yếu và sơ
hở. Điểm yếu cơ bản của quân tướng nhà Thanh là rất chủ quan, ngạo mạn,
cho rằng, Tây Sơn không dám và không thể tiến công chúng, do đó thế trận
rất lỏng lẻo. Trong thực hành tác chiến, Nguyễn Huệ đã thiết lập một hệ thống
7


tổ chức hành quân đạt hiệu quả tối đa, khiến quân địch hoàn toàn bị động.
Trong cách đánh, Nguyễn Huệ rất chú trọng hợp vây chiến dịch, chiến thuật
và tiến công địch bằng các đòn thọc sâu, hiểm hóc. Đây vừa là nghệ thuật kết
hợp tiến công chính diện với bên sườn, vừa là tiến hành nhiều trận đánh diễn
ra đồng thời, liên tiếp, nhanh mạnh, bất ngờ, khiến địch không thể ứng cứu
được cho nhau và nhanh chóng thất bại chống lại các thế lực xâm lược đất
nước ta.

1.2. Các yếu tố hình thành nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận
đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong đại phá quân Thanh năm 1789
1.2.1. Cơ sở hình thành nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận
đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh
Quang Trung hoàng đế có một niềm tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối
cùng mà đội quân của ông có thể giành được trước kẻ thù. Đó là những chiến
thắng được xây dựng từ nghệ thuật dụng binh thần tốc, táo bạo và nắm chắc
thời cơ.
Thế kỷ 16, Đại Việt chìm trong chia cắt: hết cuộc chiến giữa tập đoàn
phong kiến Trịnh - Mạc cho đến cuộc đối đầu triền miên giữa dòng họ TrịnhNguyễn. Cuối thế kỷ, cục diện đàng trong đàng ngoài chính thức hình thành
và kéo dài mãi từ đó đến gần hai thế kỷ sau.
Đất nước lâm nguy, vua chúa cả hai miền chỉ lo vơ vét của cải, ăn chơi
hưởng lạc, khiến nhân dân lầm than. Trong bối cảnh ấy, không ít cuộc khởi
nghĩa đã nổ ra. Tuy nhiên, chưa cuộc khởi nghĩa nào thắng lợi.
Năm 1771, trên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (An Khê, Gia Lai ngày
nay), 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ phất cờ khởi nghĩa.
Được nhân dân ủng hộ, trong vòng 12 năm, từ 1777-1789, nghĩa quân Tây
Sơn liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách: lật đổ 2 tập đoàn phong

8


kiến Trịnh - Nguyễn; đánh tan 5 vạn quân Xiêm và đè bẹp 29 vạn quân Thanh
Xâm lược.
Trong suốt chặng đường chiến đấu, Nguyễn Huệ đã không chỉ chứng tỏ
mình là nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc mà còn là một nhà cầm quân tài ba.
Những gì ông làm, không phải vị tướng nào cũng thực hiện được.
Táo bạo - Đòn phủ đầu không ngờ
Một trong những điểm nổi bật trong cách dụng binh của Nguyễn Huệ là
sự kết hợp giữa tài chỉ huy quân sự và tính cách cá nhân: táo bạo, thần tốc và

vô cùng tự tin.
Trong cuộc phản kích tiêu diệt quân Xiêm (1785), thay vì chọn khúc
sông Mỹ Tho có địa hình thuận lợi cho việc phục kích như đoạn từ Cái Bè
đến Bình Chánh Đông, ông lại chọn khúc Rạch Gầm - Xoài Mút - một khúc
sông rộng và địa hình trắc trở hơn để đặt phục binh.
Còn trong cuộc tiến công từ Phú Xuân ra Thăng Long tiêu diệt 29 vạn
quân Thanh (1789), Nguyễn Huệ - khi đó đã là vua Quang Trung - chọn cách
tấn công vào Thăng Long từ phía Nam. Đó là khu vực quân Thanh bố phòng
cực kỳ kỹ lưỡng. Nhưng đó cũng là hướng quân Thanh chủ quan nhất, vì
chúng đinh ninh rằng mình ít có khả năng bị tấn công, thế nên ông đã quyết
định ra đòn phủ đầu.
Đợt phản kích quân Thanh theo hướng này diễn ra rất chóng vánh: chỉ
trong vòng 6 ngày, kể từ khi xuất binh (Đêm 30 tết) đến khi tiêu diệt hoàn
toàn quân Thanh trong trận Đống Đa (ngày mồng 5 tết).
Biến thần tốc thành sức mạnh
Nhưng sự táo bạo chỉ phát huy được sức mạnh của nó nếu cuộc tấn
công được triển khai nhanh chóng, thần tốc và bất ngờ.

9


4 năm sau trận chiến một ngày ở Rạch Gầm - Xoài Mút, đội quân của
Nguyễn Huệ lại làm nên một điển hình mẫu mực trong lần truy diệt 29 vạn
quân Thanh năm 1789.
Nếu không tính đến cuộc hành quân nhanh kỳ lạ và đến giờ vẫn còn
gây nhiều tranh cãi của đội quân Tây Sơn từ Phú Xuân ra Bắc, thì chỉ nguyên
cuộc phản kích quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết Kỷ Dậu 1789 cũng đã là
một bài học tuyệt vời trong kho tàng nghệ thuật quân sự.
Đêm 30 tết, quân Tây Sơn bí mật vượt sông Gián Khẩu, tiêu diệt gọn
địch ở đồn tiền tiêu và cả nhóm quân do thám. Đêm mồng 3 tết, quân của ông

bí mật vây đồn Hà Hồi (Thường Tín, Hà Tây). Quân giặc bất ngờ, hoảng sợ hạ
khí giới đầu hàng. Mờ sáng 5 tết, trong khi cánh quân Tây Sơn do đích thân
Quang Trung chỉ huy bắt đầu tấn công đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) thì
một cánh quân Tây Sơn khác nhắm thẳng vào đồn Đống Đa (Hà Nội).
Cùng lúc với hai chiến thắng đó là hàng loạt chiến thắng khác: chiến
thắng Đại Áng, chiến thắng Đầm Mực, chiến thắng Nhân Mục, chiến thắng
Hạ Yên Quyết. Các cuộc tấn công trên đều diễn ra một cách nhanh chóng và
dồn dập đến độ quân Thanh không kịp trở tay. Chúng không còn có thời gian
để thông báo, hỗ trợ hay ứng cứu nhau.
Cách đánh bất ngờ, thần tốc này luôn là tâm điểm trong binh pháp của
ông. Đó là cách để bù đắp sự chênh lệch trước những đội quân đông hơn mình
gấp nhiều lần. Hơn thế nữa, không chỉ là người "nhạy cảm" với thời cơ, ông
còn biết cách tạo ra thời cơ để tận dụng tối đa thế mạnh của mình.
Nắm chắc thời cơ
Cuối năm 1788, quân Thanh đưa quân vào nước ta dưới danh nghĩa
giúp nhà Lê dẹp loạn. Với sự bảo trợ của vua Lê Chiêu Thống, cánh quân
Thanh được nhiều nhân sĩ trung thành với nhà Lê ủng hộ, nhân dân Thăng

10


Long chưa biết nên theo ai: Tây Sơn hay vua Lê. Tình thế hoàn toàn bất lợi
cho quân Tây Sơn.
Nhận được tin Lê Chiêu Thống "mời giặc vào nhà", Nguyễn Huệ nhanh
chóng làm lễ, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Ngay sau đó,
ông tập hợp quân đội, Bắc tiến, diệt quân Thanh. Tất cả những chuyện lên ngôi
hoàng đế, triệu tập quân đội, rồi xuất binh chỉ diễn ra trong vòng... 1 ngày.
Với một vị tướng nhiều kinh nghiệm trận mạc, hoàng đế Quang Trung
đã nhìn thấy: đây là thời cơ tốt để chinh phục lòng dân và tiêu diệt địch.
Sau này, trên đường ra bắc, ông đã dừng lại ở Nghệ An để lấy thêm

quân và tham khảo ý kiến La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp về thời cơ và cách
đánh quân Thanh. Câu trả lời của Nguyễn Thiếp khiến Nguyễn Huệ rất ưng ý.
Nguyễn Thiếp nói: "Quân Thanh đến từ xa không biết tình hình quân ta mạnh
hay yếu thế nào, không biết thế nên chiến hay nên thù thế nào. Vả nó có bụng
khinh địch, nếu đánh gấp không quá 10 ngày sẽ phá tan; nếu trì hoãn một chút
thì khó lòng được nó".
Hơn thế nữa, quân Thanh sẽ sớm lộ rõ âm mưu xâm lược. Đó là lúc đội
quân Tây Sơn sẽ có được sự ủng hộ và giúp sức của nhân dân.
Về phía giặc, sau khi vào Thăng Long dễ dàng, quân Tây Sơn thì đã rút
mãi về tận Tam Điệp (Ninh Bình) - Biện Sơn (Thanh Hóa), lại thêm được
nhiều quan quân nhà Lê ủng hộ, càng gần Tết, quân Thanh càng khinh đối thủ.
Tất cả những điều đó góp phần khẳng định: đó là thời cơ tốt nhất để tận
diệt quân Thanh. Cùng với việc củng cố quân đội, đốc thúc việc hành quân
nhanh chóng, ông còn lưu tâm đến việc làm kiêu binh địch, khiến địch ngày
càng chủ quan, tự mãn. Sự thất bại của quân thù chỉ còn là vấn đề thời gian.

11


1.2.2. Bối cảnh lịch sử trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh
Nước Đại Việt cuối thế kỷ 18 rất rối ren và phân liệt nhiều hơn sau hơn
200 năm chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Vua nhà Lê Trung Hưng chỉ
tồn tại trên danh nghĩa ở Đàng Ngoài, thực chất quyền hành trong tay các
chúa Trịnh; còn từ sông Gianh trở vào nam là Đàng Trong, đất đai do chúa
Nguyễn cai quản, cũng lấy danh nghĩa "phù Lê".
Năm 1771, ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và
Nguyễn Huệ nổi dậy khởi nghĩa chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sau hơn
10 năm kịch chiến, năm 1783, Nguyễn Nhạc lật đổ sự thống trị của chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, tự lập làm vua Thái Đức ở Quy Nhơn. Chúa Nguyễn
mới là Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm lưu vong.

Năm 1786, Nguyễn Nhạc cử em là Nguyễn Huệ mang quân đánh Phú
Xuân -kinh thành cũ của chúa Nguyễn, bị chúa Trịnh đánh chiếm năm 1775.
Nguyễn Huệ đánh lấy Phú Xuân rồi đánh thẳng ra Thăng Long với danh
nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", tiêu diệt chúa Trịnh. Anh em Tây Sơn giao hiếu
với vua Lê rồi rút quân về nam.
Do sự tranh chấp về quyền lực, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nổ ra
xung đột đầu năm 1787. Nguyễn Huệ thắng thế nhưng chấp nhận lời cầu hòa
của vua anh.
Nhân cơ hội đó, các lực lượng chống Tây Sơn trỗi dậy. Phía nam,
Nguyễn Ánh nhờ sự giúp đỡ của người Pháp, trở về đánh chiếm Gia Định.
Đông Định vương nhà Tây Sơn là Nguyễn Lữ bỏ Gia Định về Quy Nhơn.
Phía bắc, các lực lượng thân họ Trịnh dựng lại người trong tông tộc là Trịnh
Bồng lên ngôi, bị tướng Bắc Hà đã hàng Tây Sơn là Nguyễn Hữu Chỉnh từ
Nghệ An kéo ra đánh bại. Chỉnh ra cầm quyền ở Thăng Long mưu thay chúa
Trịnh chống Tây Sơn.

12


Cuối năm Mậu Thân (1788) nhân dân Thăng Long và nhiều vùng ở
Bắc Hà đang trải qua những ngày tháng cực kỳ đau thương và tủi nhục, căm
hờn và phẫn nộ. Lợi dụng hành động “rước voi về giày mồ” của bè lũ phong
kiến phản động Lê Chiêu Thống, quân Thanh đã tràn sang xâm chiếm nước
ta. Một lực lượng viễn chinh lớn gần 30 vạn quân chiến đấu và quân phục
dịch ào ạt vượt qua biên giới.
Tháng 11/1788, gần 30 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh chia
làm 4 đạo tiến vào nước ta. Đạo chủ lực do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp chỉ huy tiến
qua đường Lạng Sơn. Đạo thứ hai do Sầm Nghi Đống chỉ huy tiến theo đường
Cao Bằng. Đạo thứ ba do Ô Đại Kinh chỉ huy theo đường Quảng Ninh.
Hướng chung của các đạo quân này là tiến xuống hợp quân đánh chiếm

Thăng Long.
Quân Tây Sơn ở Bắc Hà bấy giờ chỉ có độ vài vạn quân do Ngô Văn
Sở chỉ huy. Tương quan lực lượng quá chênh lệch mà tình hình Bắc Hà cũng
không được ổn định do bọn phong kiến phản động vẫn ngầm chống lại quân
Tây Sơn, ngóng chờ Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh về.
Quân Tây Sơn, sau một số trận đánh ở biên giới không ngăn cản được
quân địch, Ngô Văn Sở theo mưu kế sáng suốt của Ngô Thì Nhậm chủ động
tổ chức cuộc rút lui chiến lược “Ta bảo toàn lấy quân lực mà rút lui. Cho
chúng ngủ trọ một đêm rồi lại đuổi chúng đi”. Quân Tây Sơn tập trung về
Thăng Long rồi rút lui theo kế hoạch. Bộ binh chốt giữ vùng núi Tam Điệp
(Ninh Bình), thuỷ binh về đóng giữ vùng Biện Sơn (Thanh Hoá), liên hệ với
nhau, lợi dụng địa hình lập thành một phòng tuyến chặn đường tiến quân của
địch vào Thanh Hoá, Nghệ An và cấp báo với Nguyễn Huệ.
Sau 20 ngày tiến quân, Tôn Sĩ Nghị đã vào được thành Thăng Long.
Trên đường từ biên giới đến Thăng Long, quân Thanh tiến khá thuận lợi. Tôn
Sĩ Nghị chủ quan, thoả mãn và huênh hoang cho rằng việc bắt sống Nguyễn
Huệ dễ như “thò tay lấy đồ vật ở trong túi”. Hắn cho tướng sĩ nghỉ ngơi 10
13


ngày chuẩn bị ăn Tết nguyên đán và dự định đến ngày 6 tháng giêng sẽ xuất
quân tiến vào phía nam. Tin thắng trận về đến triều Thanh. Càn Long khen
Tôn Sĩ Nghị là một “đại thần toàn tài” và phong tước Mưu dũng công hạng
nhất, thưởng cho quân lính mỗi người thêm từ 1-2 tháng lương.
Ngày 21/12/1788, ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ nhận được tin báo của
Ngô Văn Sở. Để có danh nghĩa chính thức lãnh đạo cả dân tộc chống ngoại
xâm, ngay ngày 22/12/1788, ông làm lễ lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là
Quang Trung, rồi lập tức thống lĩnh đại quân khoảng 5 vạn người tiến ra Bắc.
Bốn ngày sau, quân Quang Trung vượt gần 400km đến Nghệ An. Tại
đây, Quang Trung dừng quân 10 ngày, tuyển binh, phiên chế, duyệt binh biểu

dương lực lượng. Lúc này, quân Tây Sơn đã lên đến 10 vạn và tiếp tục hành
quân ra Bắc.
Ngày 25/1/1789, quân Tây Sơn đến Tam Điệp. Sau khi nắm tình hình,
ông đã quyết định một kế hoạch đánh địch vừa tổng thể vừa chi tiết, định hẳn
ngày thắng lợi hoàn toàn. Quang Trung mở tiệc khao quân, tuyên bố cho quân
sĩ “Ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến sang xuân, ngày 7 vào thành Thăng
Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lời ta xem có đúng thế không?”
Quang Trung chia quân thành 5 đạo cùng xuất phát thần tốc tiến ra Bắc.
Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp chỉ huy đánh thẳng vào hệ thống
phòng ngự chủ yếu của địch ở phía Nam.
Đạo thứ hai do đô đốc Long (có tài liệu cho là Đô đốc Đặng Tiến Đông
hoặc cả 2 đô đốc) chỉ huy đi vòng phía trái đánh vào Khương Thượng.
Đạo thứ ba do Đô đốc Bảo chỉ huy yểm hộ và phối hợp với đạo chủ lực.
Đạo thứ tư do Đô đốc Tuyết chỉ huy vượt biển đánh vào vùng Hải
Dương. Đạo quân thứ năm do đô đốc Lộc chỉ huy theo đường biển rồi vào
Bắc Giang bịt đường rút của quân Thanh.

14


Bằng một chiến dịch tấn công chớp nhoáng, đặc biệt cuộc tổng công
kích vào Ngọc Hồi, Đống Đa, quân Tây Sơn với thiên tài quân sự của vị
thống lĩnh Nguyễn Huệ, lại được nhân dân ủng hộ, phối hợp đã tiêu diệt đạo
quân xâm lược gần 30 vạn tên cùng đám nguỵ quân, giành thắng lợi trong
cuộc đại phá quân Thanh mùa xuân năm 1789.

Kết luận chương 1

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Thanh mà tiêu biểu và
quyết định là chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa là một trong những chiến công

hiển hách nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, mãi mãi là niềm tự
hào của người Việt Nam. Tự hào về sức sống kì diệu của một dân tộc anh
hùng sáng ngời lý tưởng độc lập tự do. Tự hào về vai trò chủ động và định
đoạt của nhân dân ta trong giờ phút hiểm nghèo của lịch sử dù cho chế độ
phong kiến suy tàn, giai cấp phong kiến phản bội dân tộc. Tự hào về nghệ
thuật quân sự Việt Nam giàu tính độc đáo, sáng tạo, về người anh hùng bách
chiến bách thắng, nhà quân sự thiên tài Nguyễn Huệ.

15


Chương 2
NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ THỰC HÀNH NHỮNG TRẬN ĐÁNH
LỚN CỦA NGHĨA QUÂN TÂY SƠN ĐẠI PHÁ QUÂN THANH NĂM
1789 VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA
2.1. Nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận đánh lớn của nghĩa
quân Tây Sơn đại phá quân Thanh năm 1789
2.1.1. Quan niệm về nghệ thuật tổ chức và thực hành những trận
đánh lớn của nghĩa quân Tây Sơn đại phá quân Thanh năm 1789
Thiên tài quân sự Quang Trung đã kế thừa sáng tạo tinh hoa nghệ thuật
quân sự, truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha, phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả dân tộc, tránh chỗ mạnh, đánh chố yếu, tương kế tựu kế, thế
trận uyển chuyển, hiệp đồng quy mô lớn, tốc độ cao trong thời gian ngắn,
đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi.
Trước hết, Hoàng đế Quang Trung đã phát huy tối đa truyền thống
đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của dân tộc, thiết lập thiên la địa võng
đánh giặc, trọng dụng nhân tài, cố kết lòng dân, thu phục nhân tâm, đặc biệt là
sĩ phu Bắc Hà, tướng tài dốc sức cầm quân, hàng vạn người hưởng ứng tòng
quân chống giặc. Trong trận Ngọc Hồi, nhân dân làm ván bùn, rơm ướt chống
đạn; rồng lửa bất ngờ rừng rực cháy bằng rơm tẩm dầu tiến đánh trại Đống Đa

làm đạo quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa sợ mất mật, tan vỡ. Chủ tướng
Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt bỏ chạy, gần sáu vạn quân Thanh đóng ở bắc sông
Hồng không bị đánh mà tan. Tàn quân chạy lên phía bắc bị quân của Đô đốc
Lộc cùng dân binh, chặn đường đón bắt. Đạo quân đóng ở Sơn Tây, nghe tin
Thăng Long thất thủ, vội vã tháo chạy về nước cũng vấp phải thế trận phục
sẵn của dân binh Đà Giang, Hưng Hóa đánh cho tơi tả.

16


Với khối óc nhạy cảm và tầm mắt sắc bén của một nhà quân sự kiệt
xuất, Quang Trung không những đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch
mà còn nhanh chóng phát hiện ra ý đồ và sai làm của quân địch.
Quân Thanh vốn có ưu thế về binh lực, đang trên đà tiến công thắng
lợi, bỗng dừng lại ở Thăng Long trong thời gian hơn một tháng. Tôn Sĩ Nghị
muốn để cho quân lính nghỉ ngơi ăn tết và chuẩn bị thêm vể lực lượng rồi dự
định ngày mùng 6 tháng giêng sẽ tiến công. Điều này cho thấy bộ chỉ huy
quân sự của địch đã phạm phải một sai lầm chiến lược vô cùng nghiêm trọng,
đó là chúng đã đánh giá quá thấp lực lượng đối phương, rồi chuyển từ thế tiến
công sang hình thái phòng ngự tạm thời. Do đó, chúng đã để mất quyền chủ
động vốn có ban đầu và không phát huy được ưu thế lực lượng. Từ đại tướng
Tôn Sĩ Nghị cho đến các tướng lĩnh và quân lính đều hết sức chủ quan, khinh
địch, chỉ lo cướp bóc, vơ vét và chuẩn bị ăn Tết, khiến cho kỷ luật và tinh
thần chiến đấu của quân lính gần như tê liệt.
Quang Trung tìm cách khoét sâu thêm sai lầm của địch, kích động thêm
tinh thần chủ quan của Tôn Sĩ Nghị bằng cách sai người đưa thư xin hàng với
lời lẽ nhã nhặn, khiêm tốn đến hắn. Tôn Sĩ Nghị càng ngạo mạn, ra lệnh cho
Quang Trung: “hãy rút quân về Thuận Hóa chờ ngày phán xử”.
Phát hiện và chớp được thời cơ chiến lược có một không hai đó, Quang
Trung quyết định giành quyền chủ động, tiến công tập kích chớp nhoáng để

đánh tan quân địch vào lúc chúng bất ngờ, sơ hở nhất.
Bộ tham mưu chiến đấu của nghĩa quân Tây Sơn nắm chắc, nghiên cứu
kỹ thế phòng thủ kiểu chiều dọc, mạnh về chính diện, nhưng dễ hở sườn từ
Gián Khẩu về Thăng Long, trong đó xác định mục tiêu chủ yếu là Ngọc Hồi
và cung Tây Long, các căn cứ khác sẽ tháo chạy khi bị uy hiếp mạnh. Kết hợp
chặt chẽ giữa tiến đánh phía trước với bao vây, vu hồi bên sườn phía sau;
cùng lúc bí mật tiếp cận, bất ngờ công kích chính diện Ngọc Hồi đột phá
17


mạnh tuyến phòng ngự cơ bản, kiên cố của địch, thu hút quân tiếp viện ứng
cứu, kết hợp thọc sâu táo bạo giáng đòn bất ngờ vào Thăng Long bằng lực
lượng tinh nhuệ trong thời gian chỉ vài canh giờ, đánh gấp rút, quyết liệt,
khiến đối phương lúng túng, không ứng cứu được cho nhau dẫn đến nhanh
chóng tan rã. Ta hình thành 5 mũi tiến công hiệp đồng thủy, bộ trên ba hướng:
Nam, Tây Nam và Đông Bắc Thăng Long. Nghệ thuật chọn hướng và thời
điểm tiến công thể hiện trí tuệ cao, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt
Nam của Quang Trung.
Lối đánh quyết liệt, biến hóa thế trận khôn lường, linh hoạt kết hợp
cương nhu, vừa gấp gáp vừa thư thả, đánh nhanh, thắng nhanh, xuyên thủng
liên tiếp, bất chợt dừng lại trước đồn Ngọc Hồi; hoãn binh không đánh, chỉ phô
trương thanh thế cho đạo quân của đô đốc Đặng Tiến Đông, tưởng như sẽ đánh
thẳng lên Sơn Tây thì lại rẽ bước ngoặt quyết định vào đồn Đống Đa, chọn
cánh quân ít nhất, yếu nhất của Sầm Nghi Đống. Nửa đêm, quân ta bất ngờ
đánh, thọc sườn tây Thăng Long. Đòn hiểm chí mạng đã làm vỡ toang thế trận
khiến Tôn Sĩ Nghị choáng váng đã bỏ chạy, quân Thanh hỗn loạn là thời cơ để
đích thân Quang Trung đốc chiến mũi chủ công ào ạt công phá Ngọc Hồi.
Sức mạnh quyết định thắng lợi là nghĩa binh Tây Sơn được huấn luyện
công phu, bài bản, tinh thần chiến đấu rất dũng cảm, quyết đánh, quyết thắng,
với nhiều loại vũ khí có uy lực mạnh, như hỏa hổ, đại bác đặt trên bành voi

chiến, thuyền chiến gắn đại bác… Lực lượng kỵ binh tinh nhuệ, kết hợp
tượng binh, thủy binh thiện chiến chính là mũi nhọn sắc thọc sâu bất ngờ vào
tận sào huyệt quân địch, quyết định cục diện chiến trường.
Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa hội đủ tài nghệ quân sự của Quang
Trung, sức mạnh của đại quân Tây Sơn; kết hợp cả thiên thời, địa lợi, nhân
hòa. Quân đi nhanh như nước chảy, thế trận hóc hiểm, uyển chuyển biến hóa,
tiến công bất ngờ, liên tục, kết hợp giữa chính binh với kỳ binh, giữa đánh
18


×