Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quản trị chất lượng tín dụng tại ngân hàng tmcp công thương việt nam chi nhánh ninh thuận (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

------------------------------------

PHAN GIA BẢO

QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM –
CHI NHÁNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP Hồ Chí Minh – Tháng 03 Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

------------------------------------

PHAN GIA BẢO

QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM –


CHI NHÁNH NINH THUẬN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số : 8.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học

: TS.TRẦN THỊ KỲ

TP Hồ Chí Minh – Tháng 03 Năm 2019


1

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT
LƢỢNG TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1.Khái niệm
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hoá. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã làm biến
đổi mạnh mẽ hệ thống ngân hàng thương mại từ những hệ thống ngân hàng giản
đơn, sơ khai ban đầu trở thành những ngân hàng hiện đại. Khi mới ra đời, Ngân
hàng thương mại hoạt động chủ yếu là cho vay đối với lĩnh vực thương mại nhưng
ngày nay hoạt động của nó đã mang tính tổng hợp và đa năng. Tuỳ thuộc vào đặc
thù hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia, từng đạo luật mà khái niệm ngân hàng
thương mại có thể được nhìn nhận dưới góc độ này hay góc độ khác.
Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung
cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.

- Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng
thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận
tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử
dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài
chính".
Theo cách tiếp cận thận trọng của Peter S.Rose tác giả cuốn Quản trị NHTM thì
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”
Luật số 47/ 2010/ QH12 Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam định nghĩa :
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động


2

ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này, nhằm mục
tiêu lợi nhuận”.
Như vậy, có thể nói rằng NHTM là định chế tài trung gian quan trọng trong nền
kinh tế thị trường, giao dịch trực tiếp với khách hàng là các doanh nghiệp, tổ chức
đoàn thể xã hội và cá nhân thực hiện huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
hoạt kỳ, tiền gửi định kỳ, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn huy
động được để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung
ứng các dịch vụ ngân hàng.
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Theo điều 4 Luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 06 năm 2010 của
Quốc hội khóa XII: Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường
xuyên một hoặc một số nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi
b) Cấp tín dụng

c) Cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Như vậy, hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm :
- Nhận tiền gửi: là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có
hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
- Cấp tín dụng: là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả
bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh
ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
- Cung cấp các dịch vụ thanh toán qua tài khoản: là việc cung ứng phương
tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
1.2. Lý luận về tín dụng ngân hàng :


3

1.2.1. Khái niệm
Khái niệm về tín dụng
Theo Từ điển Kinh tế - Tài chính Việt Nam: “Tín dụng là quan hệ vay mượn,
quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc
hoàn trả. Quan hệ này được xác lập trên cơ sở lòng tin hoặc tín nhiệm lẫn nhau giữa
các chủ thể trong quan hệ đó”
Ngày nay, do có nhiều hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp nên người có
khoản tiền nhàn rỗi và người thiếu hụt vốn không gặp nhau về mặt không gian, thời
gian, khối lượng, loại tiền, lãi suất, … và đặc biệt là độ tin cậy lẫn nhau, khiến cho
tín dụng trực tiếp không thể phát triển được mà phải thực hiện qua trung gian chủ
yếu là các NHTM. Như vậy ngân hàng thực hiện chức năng luân chuyển vốn giữa

các chủ thể trong nền kinh tế; thực hiện chức năng này, ngân hàng vừa giữ vai trò là
người đi vay (con nợ) và vai trò là người cho vay (chủ nợ)
Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể khác
trong xã hội. Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, do vậy trong quan hệ
tín dụng với các chủ thể kinh tế khác ngân hàng có thể vừa là người đi vay, vừa là
người cho vay.
- Với tư cách là người đi vay, ngân hàng huy động vốn dưới hình thức nhận
tiền gửi của các chủ thể kinh tế, các cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng.
- Với tư cách là người cho vay, ngân hàng cấp tín dụng đáp ứng kịp thời vốn
cho quá trình sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, cá nhân,
từ đó góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa ngày càng phát triển.
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là
quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên
cùng có lợi.


4

Liên quan đến khái niệm về tín dụng, tại khoản 14 điều 4 Luật số
47/2010/QH12 của Quốc hội về Luật các tổ chức tín dụng ghi : “Cấp tín dụng là
việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp
tín dụng khác”.
Liên quan đến khái niệm về tín dụng, tại khoản 14 điều 4 Luật số
47/2010/QH12 của Quốc hội về Luật các tổ chức tín dụng ghi: “Cấp tín dụng của
ngân hàng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam

kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ tín dụng khác”.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng mang đặc điểm của tín dụng nói chung, đó là: (1) Dựa
trên cơ sở lòng tin, ngân hàng chỉ cấp tín dụng khi có lòng tin vào việc khách hàng
sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ vay (gốc và
lãi) đúng hạn. (2) Ttín dụng là sự chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị cho
người đi vay trong một thời hạn nhất định, sau đó người cho vay được hoàn trả cả
gốc và lãi. (3) Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng: Việc thu hồi
tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ thuộc vào
môi trường hoạt động ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự biến động về giá
cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, thị trường, thiên tai... khi khách
hàng gặp khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi , dẫn đến khó khăn trong
việc trả nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng; (4) Tín dụng ngân
hàng trên sở cam kết hoàn trả vô điều kiện của người đi vay cho ngân hàng là người
cho vay: Quá trình cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như:
hợp đồng tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo lãnh... Trong đó bên đi vay phải
cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay và lãi cho ngân hàng khi đến hạn.


5

Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn mang đặc điểm riêng, khác với tín dụng
thương mại và tín dụng nhà nước : (1) tín dụng ngân hàng là quan hệ giữa ngân
hàng là người cho vay và các chủ thể trong nền kinh tế là người đi vay; (2) tín dụng
ngân hàng xét về thời gian gồm cả tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, trong
khi tín dụng thương mại thường chỉ là tín dụng ngắn hạn hoặc tín dụng nhà nước
chủ yếu là tín dụng trung và dài hạn; (3) quy mô tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu
cầu đa dạng của khách hàng và chủ yếu bằng tiền, còn tín dụng thương mại quy mô

tín dụng giới hạn trong phạm vị hàng hóa của người cho vay.
Từ các đặc điểm trên tín dụng ngân hàng phải đảm bảo được hai nguyên tắc
cơ bản sau:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc và lãi đúng điều khoản đã được cam
kết, thỏa thuận ghi trong hợp đồng.
1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Để phục vụ cho việc phân tích, quản lý hoạt động tín dụng hiệu quả, hạn chế
thấp nhất rủi ro phát sinh, cần phân loại tín dụng theo các tiêu chí khác nhau như
sau:
1.2.3.1. Theo mục đích sử dụng tiền vay
- Tín dụng sản xuất kinh doanh: ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu
sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế trên mọi lĩnh vực: công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải, bưu điện, dịch vụ…
- Tín dụng tiêu dùng: ngân hàng cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của các cá nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, như ô tô, mua nhà , đát, du học,
chữa bệnh…
1.2.3.2. Theo thời hạn sử dụng tiền vay
Theo cách này, tín dụng ngân hàng được chia thành ba loại:
- Tín dụng ngắn hạn: theo quy định của Việt Nam, tín dụng ngắn hạn có thời
hạn tối đa đến 12 tháng, cho vay ngắn hạn sử dụng chủ yếu để bù đắp nhu cầu vốn


6

lưu động tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm,
được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi
mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ… có thời hạn thu hồi vốn

nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng
để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
1.2.3.3. Theo hình thức đảm bảo tiền vay
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia thành hai loại:
- Tín dụng có bảo đảm: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ
sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp, cầm cố có
thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các tài sản hình
thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá... Ngoài ra, bảo đảm cho khoản vay
có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng chấp nhận.
- Tín dụng không có bảo đảm: trong trường hợp này ngân hàng cấp tín dụng
cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà dựa vào
uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này thường là
những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và đầy đủ các
khoản nợ của mình từ trước tới nay.
1.2.3.4. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Tín dụng trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải hoàn trả dần
vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: ngân hàng cho vay và khách hàng vay phải hoàn trả
toàn bộ vốn 1 lần khi đáo hạn, trả lãi có thể theo thoả thuận giữa hai bên.
- Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: là loại cho vay của ngân hàng mà việc thu
nợ được thực hiện theo yêu cầu hoàn trả của người đi vay trên cơ sở khả năng của
người đi vay và trong thời hạn hợp đồng đã thỏa thuận.
1.2.3.5. Theo phương thức cho vay:


7

Cho vay từng lần: Mỗi lần cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng thực
hiện thủ tục cho vay và ký kết thỏa thuận cho vay.

Cho vay hợp vốn: Là việc có từ hai tổ chức tín dụng trở lên cùng thực hiện
cho vay đối với khách hàng để thực hiện một phương án, dự án vay vốn.
Cho vay lƣu vụ: Là việc tổ chức tín dụng thực hiện cho vay đối với khách
hàng để nuôi trồng, chăm sóc các cây trồng, vật nuôi có tính chất mùa vụ theo chu
kỳ sản xuất liền kề trong năm hoặc các cây lưu gốc, cây công nghiệp có thu hoạch
hàng năm. Theo đó, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận dư nợ gốc của chu
kỳ trước tiếp tục được sử dụng cho chu kỳ sản xuất tiếp theo nhưng không vượt quá
thời gian của 02 chu kỳ sản xuất liên tiếp.
Cho vay theo hạn mức: Tổ chức tín dụng xác định và thỏa thuận với khách
hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất
định. Trong hạn mức cho vay, tổ chức tín dụng thực hiện cho vay từng lần. Một
năm ít nhất một lần, tổ chức tín dụng xem xét xác định lại mức dư nợ cho vay tối đa
và thời gian duy trì mức dư nợ này.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm
bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi mức cho vay dự phòng đã thỏa
thuận. Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức
cho vay dự phòng nhưng không vượt quá 01 (một) năm.
Cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng một mức thấu chi tối đa để thực hiện dịch vụ thanh toán trên tài khoản
thanh toán. Mức thấu chi tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian tối đa 01
(một) năm.
Cho vay quay vòng: Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận áp dụng
cho vay đối với nhu cầu vốn có chu kỳ hoạt động kinh doanh không quá 01 (một)
tháng, khách hàng được sử dụng dư nợ gốc của chu kỳ hoạt động kinh doanh trước
cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo nhưng thời hạn cho vay không vượt quá 03 (ba)
tháng.


8


Cho vay tuần hoàn (rollover): Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận
áp dụng cho vay ngắn hạn đối với khách hàng với điều kiện:
- Đến thời hạn trả nợ, khách hàng có quyền trả nợ hoặc kéo dài thời hạn trả
nợ thêm một khoảng thời gian nhất định đối với một phần hoặc toàn bộ số dư nợ
gốc của khoản vay.
- Tổng thời hạn vay vốn không vượt quá 12 tháng kể từ ngày giải ngân ban
đầu và không vượt quá một chu kỳ hoạt động kinh doanh.
- Tại thời điểm xem xét cho vay, khách hàng không có nợ xấu tại các tổ chức
tín dụng. Trong quá trình cho vay tuần hoàn, nếu khách hàng có nợ xấu tại các tổ
chức tín dụng thì không được thực hiện kéo dài thời hạn trả nợ theo thỏa thuận.
1.2.3.6. Căn cứ vào hình thức pháp lý
Chiết khấu thƣơng phiếu: Là hoạt động khách hàng đem thương phiếu mà
mình có được do mua bán chịu trong hoạt động kinh doanh nhưng do thương phiếu
đó chưa đến hạn để thanh toán mà khách hàng lại cần tiền và khách hàng sẽ mang
thương phiếu đó đến NHTM xin chiết khấu.
Cho vay: Là hình thức ngân hàng cho khách hàng mượn một lượng tiền nhất
định với cam kết trong hợp đồng tín dụng là khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi
trong một khoản thời gian nhất định
Bảo lãnh (tái bảo lãnh): Là hình thức ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa
vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù trong trường hợp này NHTM không
xuất tiền ra trực tiếp cho khách hàng của mình và chỉ thực hiện nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng khi khách hàng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ kịp thời
cho chủ nợ.
Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và sau đó mang
cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định về thời gian và giá cả…và để
được sử dụng tài sản thuê đó thì thì khách hàng cứ đến hàng tháng, quý hoặc năm
tùy theo thỏa thuận giữa hai bên mà phải thanh toán cho NHTM một khoản tiền
nhất định.



9

Bao thanh toán: Là hình thức cấp tín dụng mà các tổ chức tín dụng áp dụng
cho doanh nghiệp là bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát
sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận
trong hợp đồng mua bán hàng hóa. TCTD với vai trò là đơn vị bao thanh toán sẽ hỗ
trợ doanh nghiệp bổ sung vốn lưu động thúc đẩy hoạt động thương mại, bao gồm
thương mại trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, tín dụng còn có thể được phân loại theo: loại tiền, phạm vi quốc
gia, theo khách hàng…
1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động tín dụng ngân hàng
1.2.4.1. Chỉ tiêu đánh giá tăng trƣởng tín dụng

 Mức tăng hoặc giảm tuyệt đối của chỉ tiêu nghiên cứu –ký hiệu t (1.1)
 t (±) = Mức độ tuyệt đối của chỉ tiêu nghiên cứu kỳ (t) – Mức độ …kỳ (t-1)
Công thức (1.1) sử dụng để đánh giá quy mô tín dụng, cho người đọc thấy sự
biến động ( mức tăng hoặc giảm tuyệt đối ) giữa kỳ này với kỳ trước hoặc giữa thực
tế với kế hoạch về tổng dư nợ và mức dư nợ từng loại vay, bảo lãnh… theo các tiêu
chí phân loại thích hợp.

 Tốc độ tăng (+), giảm (-) của chỉ tiêu nghiên cứu (1.2)
 t (±)
Tốc độ tăng, giảm của chỉ tiêu nghiên cứu ( % ) =

x 100
Mức độ của chỉ tiêu kỳ (t-1)

Công thức (1.2) sử dụng để đánh giá tốc độ tăng (+) hoặc giảm (-) của các
chỉ tiêu về hoạt động tín dụng kỳ t so với kỳ t-1, như dư nợ tín dụng, doanh số cho

vay, doanh số thu nợ…
1.2.4.2. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu tín dụng
Cơ cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ, theo công
thức:
Mức dư nợ loại i
Tỷ trọng dư nợ loại i (%) =

*100
Tổng dư nợ


10

Phân tích cơ cấu dư nợ cho vay theo từng tiêu chí giúp ngân hàng phân tích,
đánh giá và có quyết định thích hợp, có hiệu quả - biết được cần đẩy mạnh cho vay
theo loại hình nào để cân đối với thực lực của ngân hàng.
Chỉ tiêu này cũng dùng để đánh giá tình hình thu lãi cho vay so với lãi phải
thu hoặc giúp đánh giá khả năng tiếp thị, tình hình mở rộng thị phần của ngân hàng
về hoạt động tín dụng.
1.2.4.3 Chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa sử dụng vốn và huy động vốn :
Ngân hàng chỉ có thể mở rộng quy mô cho vay nếu gia tăng được quy mô huy động
vốn, ngược lại, nếu gia tăng quy mô huy động vốn, nhưng sử dụng vốn không tăng
(hay cho vay không tăng) sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn được biểu thị bằng công thức:
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn (lần) =
Tổng vốn huy động
1.3. Lý luận về quản trị chất lƣợng tín dụng
1.3.1


Các khái niệm /quan niệm
Quan điểm về chất lƣợng tín dụng tại ngân hàng thƣơng mại
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, “Chất lượng tín dụng” là một khái

niệm không thông dụng, bởi tín dụng bao hàm các hoạt động khác nhau, khó đồng
nhất và đo lường, gồm: cho vay, bảo lãnh, phát hành L/C, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, …. Tuy nhiên do hoạt động cho vay là hình thức chủ yếu của
NHTM nên theo định nghĩa hẹp của một số nhà nghiên cứu thì chất lượng tín dụng
chính là chất lượng cho vay của NHTM.
Theo quan điểm dưới góc độ ngân hàng thương mại, chất lượng tín dụng là
mức độ an toàn và khả năng sinh lời do hoạt động tín dụng mang lại. Như vậy, khi
nới đến CLTD trước hết phải nói đến tính an toàn của khoản vay, đảm bảo nguyên
tắc hoàn trả đầy đủ và đúng hạn của khách hàng, sau đó là mang lại lợi nhuận cho
chính bản thân ngân hàng. Điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng phải được thể


11

hiện ở sự gia tăng lợi nhuận, còn tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu đảm bảo đúng mức quy
định và ngày càng giảm….
Với cách đề cập như vậy thì “Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của
khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng”. Để có được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng này
phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở tin cậy và uy tín.
Chất lượng tín dụng là khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán
được), vừa trừu tượng (thể hiện ở các chỉ tiêu định tính). Để tránh rủi ro và thu lợi
nhuận trong hoạt động tín dụng thì ngân hàng không ngừng phải nâng cao chất
lượng tín dụng.
Thực chất của quản trị chất lượng tín dụng là quản trị rủi ro tín dụng
Rủi ro tại ngân hàng thương mại là những biến cố không mong đợi khi xảy ra

dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng , giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự
kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp
vụ tài chính nhất định.
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn. (Sử Đình Thành, 2015). Theo khoản 1 điều 3 Thông tư
02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thì “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra
đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
của mình theo cam kết.”
Rủi ro tín dụng phát sinh do nhiều nguyên nhân: Nguyên nhân từ chủ quan của
các ngân hàng thương mại, tuwg khách hàng và từ nền kinh tế
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có
hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất,
mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro


12

Mục đích của quản trị chất lượng tín dụng là để hạn chế rủi ro tín dụng, nên có
thể nói: Quản trị chất lượng tín dụng là quản trị rủi ro tín dụng. Từ khái niệm về
quản trị rủi ro, có thể đưa ra quản trị rủi ro tín dụng như sau:
Quản trị chất lƣợng tín dụng là tập hợp các hoạt động nhận dạng, phân tích
rủi ro, đo lường rủi ro; kiểm soát và phòng ngừa rủi ro (thông qua kiểm tra, phát
hiện, xử lý) và tài trợ rủi ro nhằm giảm thiểu mức độ rủi ro có thể xảy ra, những ảnh
hưởng bất lợi của rủi ro, dẫn đến tổn thất, mất mát, nâng cao chất lượng và hiệu quả
tín dụng.
1.3.2 Quy trình quản trị chất lƣợng tín dụng
1.3.2.1


Nhận dạng rủi ro: là quá trình xác định liên tục và có hệ thống. Nhận

dạng rủi ro bao gồm: Theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn
bộ mọi hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ
những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro
mowsicos thể xuất hiện đối với ngân hàng
1.3.2.2

Phân tích rủi ro: Là việc xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro.

Phân tích rủi ro là nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro, trên cơ sở
tìm ra các nguyên nhân, tác động đến nguyên nhân thay đổi chúng, từ đó sẽ phòng
ngừa rủi ro
1.3.2.3

Đo lƣờng rủi ro: Là đo lường tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của

rủi ro-mức độ nghiêm trọng của tổn thất
1.3.2.4

Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro: Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro có thể

sử dụng các biện pháp: (1) Né tránh; (2) ngăn ngừa tổn thất; (3) Giảm thiểu tổn thất;
(4) chuyển giao tổn thất; (5) đa dạng rủi ro; (6) Quản trị thông tin…
1.3.2.5 Tài trợ rủi ro: Khi rủi đã xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính
xác những tổn thất về tài sản, về nguồn nhân lực, về giá trị pháp lý. Sau đó cần có
những biện pháp tài trợ rủi ro thích hợp : Hoặc tự khắc phục rủi ro hoặc chuyển
giao rủi ro
1.3.3 Nội dung quản trị chất lƣợng tín dụng

1.3.3.1 Dự báo rủi ro tín dụng


13

Để dự báo rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường xây dựng hoặc ứng dụng
các mô hình để lượng hóa rủi ro, đo lường rủi ro tín dụng, mức độ tổn thất khi rủi ro
xảy ra để xem xét khả năng chấp nhận của ngân hàng từ đó ra quyết định một cách
đúng đắn nhất, có biện pháp cụ thể để quản trị tốt những rủi ro ở các mức độ khác
nhau. Đo lường rủi ro tín dụng thường dùng các mô hình sau:
(i) Dùng tiêu chuẩn CAMPARI: (1-C) Character (tư cách của người vay);
(2-A) Ability (năng lực của người vay); (3-M) Margin (lãi cho vay); (4-P) Purpose
(mục đích vay); (5-A) Amount (số tiền vay); (6-R) Repayment (sự hoàn trả); (7-I)
Insurance (bảo hiểm);
(ii) Tiêu chuẩn 5C: (1-C) Character (tư cách của người vay), (2-C) Capital
(vốn), (3-C) Capicity (năng lực), (4-C) Collateral (bảo đảm ) và (5-C) Conditions
(điều kiện).
(iii) Mô hình điểm số Z :
Z= 1.2X1+1.4X2 + 3.3X3 + 0.6X4+1.0X5
Trong đó:
X1 là hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản
X2 là hệ số lợi nhuận chưa phân phối/ tổng tài sản
X3 là hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 là hệ số giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu /giá trị hạch toán của tổng
nợ
X5 là hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Nếu Z< 1.8 : Khách hàng có khả năng xảy ra rủi ro cao
1.8< Z < 3 : Không xác định được
Z > 3 : Khách hàng không có khả năng vỡ nợ.
*Phƣơng pháp ƣớc tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ

liệu đánh giá nội bộ IRB ( Internal Ratings Based)
EL = EAD x PD x LGD
Trong đó: EL ( expected loss) là tổn thất tín dụng dự kiến


14

EAD ( Exposure at Defaut) là tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách
hàng không trả được nợ
PD là xác suất không trả được nợ
LGD là tỷ trọng tổn thất ước tính.
Ngoài ra, có thể sử dụng mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard &
Poor’s; Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng…
1.3.3.2 Xây dựng chính sách tín dụng, quy trình tín dụng…
Chính sách tín dụng phải khoa học, phù hợp với đặc điểm của từng ngân
hàng, đặc điểm kinh tế, xã hội từng và pháp luật thời kỳ, với các quy định về
nguyên tắc tín dụng, điều kiện tín dụng…với mục tiêu an toàn hoạt động tín dụng,
gia tăng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng bằng phương pháp phân tán rủi ro, xác
định đúng khả năng trả nợ của khách hàng, sử dụng linh hoạt công cụ tín dụng phái
sinh, bảo hiểm tín dụng, dự phòng rủi ro tín dụng…
Quy trình tín dụng
Xây dựng quy trình tín dụng khoa học hợp lý, khoa học là công cụ nâng cao
chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro
Quy trình xếp hạng tín nhiệm nội bộ khách hàng: Xây dựng quy trình
xếp hạng tín nhiệm nội bộ khách hàng, hình thành hệ thống thông tin về khách
hàng, là công cụ giúp ngân hàng sớm phát hiện, xử lý rủi ro tín dụng, ngăn ngừa rủi
ro tín dụng, là một trong các căn cứ ra quyết định tín dụng
1.3.3.3 Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng, quy trình tín dụng…
Tổ chức thực hiện chính sách tín dụng, quy trình tín dụng…là đưa chính sách,
quy trình tín dụng đã được xây dựng vào thực tế thông qua việc ban hành, hướng

dẫn thực hiện, phân công, phân nhiệm cho các bộ phân, cá nhân bằng văn bản cùng
với chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm cũng như mối quan hệ và sự phối kết hợp
công việc giữa các cá nhân, bộ phận…
1.3.3.4 Kiểm tra, đánh giá thực hiện chính sách tín dụng, quy trình tín dụng..


15

Kiểm tra thực hiện chính sách tín dụng, quy trình tín dụng.., sau đó là phân
tích, đánh giá là cơ sở cho chỉnh sửa, bổ sung chính sách tín dụng và quy trình tín
dụng cũng như xử lý các sai phạm
1.4. Tăng cƣờng quản trị chất lƣợng tín dụng tại ngân hang thƣơng mại
1.4.1

Sự cần thiết tăng cƣờng quản trị chất lƣợng tín dụng

1.4.1.1 Quan điểm về tăng cƣờng đối với ngân hàng: Theo tác giả, tăng cường là
sự tăng lên về số lượng và chất lượng, thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá về hoạt
động quản trị chất lượng tín dụng kỳ này (hay kỳ sau) so với kỳ trước, kỳ trước so
với kỳ trước nữa theo chiều hướng ngày càng tốt hơn, mục tiêu quản trị đặt ra được
thực hiện.
1.4.1.2 Ý nghĩa của tăng cƣờng quản trị chất lƣợng tín dụng:
Đối với các ngân hàng thƣơng mại : Tăng cường quản trị chất lượng tín dụng góp
phần gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng, tăng uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng và
đặc biệt tăng tính an toàn trong hoạt động kinh doanh của một ngân hàng cũng như
hệ thống ngân hàng quốc gia, tăng tính cạnh tranh của ngân hàng đang ngày càng
gay gắt hiện nay:
Đối với nền kinh tế: Tăng cường quản trị chất lượng tín dụng tại các ngân hàng
thương mại sẽ có tác động tích cực tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội của Chính phủ trong từng thời kỳ, vì nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm tỷ

trọng đáng kể so với tổng nguồn vốn đầu tư của xã hội vào nền kinh tế của mỗi
quốc gia, đặc biệt là Việt Nam .
Đối với khách hàng: Tăng cường quản trị chất lượng tín dụng của các ngân hàng
giảm nguy cơ phá sản các ngân hàng, nguyên nhân chính gây tổn thất về tài sản của
khách hàng gửi tiền, đặc biệt nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng chủ yếu là
nguồn vốn huy động từ khách hàng
1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá tăng cƣờng quản trị chất lƣợng tín dụng
Các chỉ tiêu định lượng thường được các ngân hàng sử dụng để đánh giá quản
trị chất lượng tín dụng (hay quản trị rủi ro tín dụng), bao gồm:
1.4.2.1 Tỷ lệ nợ quá hạn / Tổng dƣ nợ tín dụng

Trong đó:


16

Nợ quá hạn là những khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn theo các
cấp độ khác nhau và không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ
Tổng dư nợ là tổng số tiền vay khách hàng còn nợ đến thời điểm nghiên cứu
bao gồm cả nợ trong hạn và quá hạn
Tỷ lệ này cao, phản ánh chất lượng tín dụng yếu kém, rủi ro tín dụng cao và
cũng phán ánh hoạt động quản trị rủi ro tín dụng chưa đạt mục tiêu đặt ra về hạn chế
rủi ro tín dụng
1.4.2.2 Tỷ lệ nợ xấu so với tổng dƣ nợ tín dụng
Nợ xấu (Non Performing Loans – NPL).
Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn, nhưng ở cấp độ nghiêm trọng hơn, do đó
được gọi là nợ xấu. Nợ xấu có thể gây ảnh hưởng nặng nề đến kết quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, do dó cần được theo dõi quản lý thật chặt chẽ.
Tỷ lệ nợ xấu.
Tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu so với tổng dư nợ ở thời điểm so sánh. Tỷ lệ nợ

xấu cho thấy chất lượng tín dụng thấp mà ngân hàng thương mại phải đối mặt.
Tỷ lệ nợ xấu = Tổng nợ xấu/ Tổng dư nợ.
Tỷ lệ nợ xấu càng cao chất tín dụng càng thấp và ngược lại
1.4.2.3

Hệ số rủi ro tín dụng.

Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn, nhưng đồng
thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng
được chia thành ba nhóm:
+ Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho
vay của ngân hàng.


17

+ Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho
ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư
nợ cho vay của ngân hàng.
+ Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng.
Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
1.4.2.4

Hệ số thu nợ
Hệ số thu nợ cao cho thấy hoạt động thu nợ đang tiến triển tốt, rủi ro tín


dụng thấp, chất lượng tín dụng tốt và ngược lại. Chỉ tiêu này còn biểu hiện khả năng
thu hồi nợ của ngân hàng từ việc cho khách hàng vay.

1.4.2.5

Vòng quay vốn tín dụng
Vòng quay vốn tín dụng dùng để đo lường tốc độ luân chuyển vốn của tín

dụng ngân hàng, nó cho thấy thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Nếu vòng quay
vốn tín dụng nhanh, tức việc đưa vốn vào sản xuất, kinh doanh của ngân hàng đạt
hiệu quả cao.

Vòng quay vốn tín dụng cao phản ánh chất lượng tín dụng tốt và cũng phản
ánh kết quả của quản trị rủi ro tín dụng tốt và ngược lại.
1.4.2.6

Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dƣ nợ

Chi phí TL DPRR trên tổng dư nợ là tỷ lệ giữa tổng số tiền được trích lập và
hạch toán vào chi phí hoạt động so với tổng dư nợ.
Tỷ lệ TL DPRR cụ thể so với tổng dư nợ (%) =

x 100.

Tỷ lệ giữa số tiền TL DPRR cụ thể so với tổng dư nợ tỷ lệ nghịch với chất
lượng tín dụng của NHTM: tỷ lệ này càng cao cho thấy chất lượng tín dụng càng


18


thấp.
Bên cạnh các chỉ tiêu định lượng, có thể sử dụng các chỉ tiêu định tính để
đánh giá hoạt động quản trị chất lượng tín dụng, như: Chất lượng tốt hay xấu của
hoạt động kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng; hệ thống thông tin tín dụng; …
1.4.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tăng cƣờng quản trị chất lƣợng tín dụng
1.4.3.1. Nhóm các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài
 Môi trƣờng pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là hệ thống luật và văn bản pháp luật có liên
quan đồng thời gắn liền với việc thực thi pháp luật một cách nghiêm túc.
Hệ thống pháp luật phù hợp, đầy đủ và đồng bộ, bên cạnh đó phải có cơ sở hạ
tầng cho việc thực thi một cách nghiêm túc sẽ tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi
cho hoạt động quản trị chất lượng tín dụng của NHTM và ngược lại.
 Môi trƣờng kinh tế trong và ngoài nƣớc
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế
trong và ngoài nước. Lạm phát, tăng trưởng hay suy thoái … trong nước đều ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng
trưởng, thu nhập xã hội tăng dẫn đến tiết kiệm tăng và ngân hàng dễ dàng hơn trong
việc huy động vốn. Bên cạnh đó tiêu dùng xã hội tăng làm gia tăng nhu cầu về các
sản phẩm, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, cá nhân, hộ SXKD, ngân hàng sẽ
có khả năng mở rộng tín dụng và chất lượng các khoản tín dụng sẽ được nâng lên.
Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp, cá nhân, hộ SXKD làm ăn
thua lỗ, khi đó chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng
xấu.
Trong môi trường kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay, tác động của kinh tế
quốc tế không chỉ gói gọn trong một số quốc gia, vùng lãnh thổ mà còn tác động
bao trùm toàn thế giới. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế,
là đối tác của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trong hoạt động kinh doanh. Khi kinh tế
quốc tế phát triển, nhu cầu hàng hóa, sản phẩm dịch vụ tăng, giao lưu thương mại
thông suốt, khối lượng giao dịch cao, ...sẽ tác động trực tiếp đến kinh tế trong nước,



19

góp phần thúc đẩy xuất khẩu và tiêu dùng gia tăng, nhu cầu đầu tư cho sản xuất
tăng, nhu cầu vốn tăng, hàng hóa quay vòng nhanh, thanh toán nhanh chóng, ... sẽ
tạo điều kiện cho người vay vốn gia tăng sản xuất, thu được lợi nhuận, do vậy tạo
thuận lợi cho hoạt động quản trị chất lượng tín dụng, góp phần hạn chế của ngân
hàng, tạ.
 Tác động của môi trƣờng chính trị, văn hóa và xã hội
Môi trường chính trị ở mỗi quốc gia có tác động ảnh hưởng quan trọng đến
hoạt động của ngân hàng. Môi trường chính trị thể hiện tư tưởng của giai cấp thống
trị, có tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động ngân hàng.
Đất nước ổn định về chính trị xã hội giúp các doanh nghiệp yên tâm thực hiện
đầu tư phát triển SXKD. Sự bất ổn chính trị - xã hội làm suy thoái đất nước, việc
SXKD của doanh nghiệp cũng như ngân hàng bị ngưng trệ, khó khăn trong thu hút
nguồn vốn của các nhà đầu tư nói chung và các NHTM nói riêng. Vì vậy sự ổn định
chính trị - xã hội cũng góp phần tạo thuận lợi quản trị chất lượng tín dụng của ngân
hàng và ngược lại.
Môi trường văn hóa cũng là yếu tố góp phần tạo dựng nên chất lượng tín dụng.
Môi trường văn hóa xã hội tác động đến tâm lý, tập quán kinh doanh, trình độ dân
trí ảnh hưởng đến khả năng phát triển sản phẩm dịch vụ NHTM.
 Do biến động của thị trƣờng
 Thị phần sản phẩm dịch vụ dần thu hẹp trên thị trường, tiền đề phát triển
trong tương lai của doanh nghiệp, cơ sở SXKD không nằm trong xu thế tiêu thụ của
thị trường.
 Xuất hiện các sản phẩm dịch vụ mới có tính thay thế và ưu việt hơn sản
phẩm dịch vụ hiện tại, làm thay đổi thị trường và khách hàng.
 Khủng hoảng, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới và trong nước làm cho nhu
cầu nhập khẩu hàng hóa, sản phẩm dịch vụ từ bên ngoài thu hẹp; nhu cầu tiêu dùng

trong nước ngưng trệ, tác động mạnh đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp, cơ sở
SXKD: hàng hóa sản xuất không có nơi tiêu thụ, giá thành tăng cao, khả năng cạnh
tranh thấp, bán hàng chậm thu hồi vốn, ...


20

Các yếu tố thị trường mặc dù xuất hiện và tồn tại bên ngoài khách hàng được
ngân hàng cấp tín dụng, tuy nhiên trong một số trường hợp có khả năng làm xấu đi
nghiêm trọng hoạt động SXKD của khách hàng, làm giảm chất lượng tín dụng của
ngân hàng.
 Do thiên tai, địch họa, chiến tranh, bạo loạn, đình công
Thiên tai, địch họa là các yếu tố không có khả năng lường trước, chỉ có thể
giàm nhẹ một phần rủi ro do chúng gây ra chứ không thể loại bỏ. Ngày nay chiến
tranh khu vực, xung đột cục bộ vẫn có nguy cơ tiềm tàng. Các yếu tố này dù do
nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động SXKD của người vay vốn, người được ngân hàng cấp tín dụng mà còn tác
động đến nhu cầu, nguồn lực, sức mua, ... của toàn xã hội, do vậy cũng tác động
trực tiếp đến chất lượng tín ngân hàng, đến mục tiêu quản trị chất lượng tín dụng.
1.4.3.2. Nhóm các yếu tố thuộc về khách hàng
 Năng lực quản trị doanh nghiệp của khách hàng yếu kém, biểu hiện như:
khách hàng chuyển đổi hình thức sở hữu không phù hợp, thay đổi tổ chức nhân sự,
người điều hành, cổ đông lớn không phù hợp với chiến lược kinh doanh, có dấu
hiệu mất đoàn kết trong nội bộ, phát sinh các vụ kiện cáo trong nội bộ doanh
nghiệp, chậm hoàn thiện hồ sơ pháp lý, …hoặc người lãnh đạo kém. Không có kinh
nghiệm trong hoạt động điều hành hoặc chưa được đào tạo cơ bản trong các lĩnh
vực liên quan đến hoạt động SXKD chủ yếu.
+ Phƣơng án kinh doanh của khách hàng: Nếu phương án kinh doanh
không phù hợp và yếu kém về năng lực quản lý điều hành của khách hàng, thể hiện:
(1) Bố trí hoạt động SXKD không hợp lý với quy mô, quy trình luân chuyển

SXKD và thị trường phân phối; (2) Xây dựng kế hoạch SXKD, kế hoạch tài
chính chƣa khoa học: kế hoạch vay vốn lưu động ngày càng tăng lên, không sát
với thực tế điều kiện bản thân; (3) Không có phản xạ nhạy bén với các thay đổi
của thị trƣờng và điều kiện kinh doanh; (4) Yếu kém trong quản lý điều hành
nhân sự, thể hiện qua thái độ làm việc của nhân viên giảm sút; khó khăn về nhân
sự, một số người có năng lực rời bỏ doanh nghiệp, cơ sở SXKD; (5) Những thay


21

đổi bất lợi trong cơ cấu nguồn vốn, thanh khoản hay mức độ hoạt động (doanh
thu trên hàng tồn kho, …) sẽ làm cho hoạt động SXKD của khách hàng khó có thể
phát triển và đặc biệt là gặp khó khăn, doanh số và lợi nhuận sụt giảm, sức khoẻ tài
chính yếu kém và có khả năng gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết, nghĩa
vụ với ngân hàng, tác động xấu đến chất lượng tín ngân hàng và ngược lại. Vì bản
chất của kinh doanh luôn ẩn chứa các rủi ro do chủ quan hay một số nguyên nhân
không thể kiểm soát được. Khi các phương án kinh doanh được ngân hàng tài trợ
gặp khó khăn thì khả năng trả nợ ngân hàng bị đe dọa. Khó khăn tạm thời về dòng
tiền của khách hàng làm chậm trễ kỳ thanh toán sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch thanh
khoản của ngân hàng. Trầm trọng hơn, khi kinh doanh bị mất vốn, khách hàng
không trả được nợ gây ra các khoản nợ khó đòi của ngân hàng.
+ Đạo đức của khách hàng
Nguyên tắc tín nhiệm trong quan hệ tín dụng sẽ bị phá bỏ do đạo đức của
khách hàng (khi khách hàng cố tình vi phạm các cam kết với ngân hàng) và các
ràng buộc chưa được ngân hàng quan tâm đúng mức dẫn đến việc phát sinh các
khoản nợ xấu cho ngân hàng, thể hiện:
(1) Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
Sử dụng vốn sai mục đích đã cam kết với ngân hàng, bao gồm những biểu
hiện: sử dụng vốn vay lưu động để tài trợ cho hoạt động TDH, đầu tư TDH; danh
mục đối tượng vay vốn đề giải ngân khác với danh mục do ngân hàng thẩm định và

xét duyệt cấp tín dụng, chủ thể thụ hưởng vốn vay khác với chủ thể do ngân hàng
thẩm định và xét duyệt cấp tín dụng, sử dụng vốn cho việc đảo nợ…. đây là rủi ro ở
mức độ cao tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng.
(2) Báo cáo tài chính không trung thực
Hiện nay quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ BCTC còn chưa chặt chẽ
và đồng bộ, một số chính sách báo cáo, khai báo thuế còn bị một số doanh nghiệp
lợi dụng vì mục đích gian lận nhằm có được bản BCTC đẹp, các chỉ tiêu tài chính
tốt khi đề nghị ngân hàng xét duyệt cho vay. Điều này vô cùng nguy hiểm không
chỉ cho ngân hàng mà toàn bộ nền kinh tế, nguyên nhân là nó tạo ra 02 hệ thống sổ


22

sách kế toán trong 01 doanh nghiệp, tạo ra thói quen gian lận, bất chấp luật pháp
của người vay vốn, bên cạnh đó ngân hàng khó có thể đánh giá chính xác tình hình
hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng dựa trên các số liệu sai lệch, giả
mạo; việc quản lý kinh tế toàn xã hội tầm vĩ mô cũng gặp khó khăn khi số liệu
thống kê hoạt động của các doanh nghiệp không chính xác, từ đó không thể đưa ra
các quyết định đúng đắn dễ dẫn đến rủi ro trong tương lai.
(3) Lừa đảo, chiếm đoạt vốn
Nếu sử dụng vốn sai mục đích, gian lận về sổ sách chứng từ mới tiềm ẩn rủi ro
tín dụng, có thể chưa làm ngân hàng mất vốn ngay nhưng lừa đảo, chiếm đoạt vốn
sẽ làm ngân hàng mất vốn ngay lập tức. Đây có thể xếp vào loại tội phạm hình sự.
Đối mặt với các rủi ro do nguyên nhân này gây ra, ngân hàng khó có khả năng thu
hồi hoặc có thu hồi cũng chỉ được một phần, thủ tục pháp lý và thời gian kéo dài.
1.4.3.3. Nhóm các yếu tố bên trong ngân hàng
 Chính sách cấp tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
Chính sách tín dụng là các quy định về các nguyên tắc, chính sách khách hàng,
lãi suất, điều kiện …do cấp có thẩm quyền của ngân hàng ban hành tạo sự sự thống
nhất về hoạt động tín dụng đảm bảo, an toàn, tuân thủ pháp luật và chính sách phát

triển kinh tế, xã hội của Đảng và nhà nước nhằm đạt được mục tiêu đặt ra
Chính sách tín dụng là nền tảng của hoạt động tín dụng, có ý nghĩa quyết định
đến sự thành công hay thất bại của mọi ngân hàng. Một chính sách tín dụng khoa
học, phù hợp và đúng đắn sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, thu hút được
nhiều khách hàng, mở rộng tín dụng, mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và
ngược lại
 Quy trình tín dụng của NHTM
Quy trình tín dụng là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng về
trình tự các bước cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ và sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bước nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng và đạt mục
tiêu lợi nhuận.


23

Quy trình tín dụng thường bắt đầu từ khi tiếp xúc với khách hàng, thu thập
thông tin về khách hàng, thẩm định, thiết lập hồ sơ, xét duyệt cho vay, phát tiền
vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thu lãi, thu hồi nợ...
Quy trình tín dụng được xây dựng khoa học, hợp lý và được kiểm tra, giám sát
chặt chẽ trong quá trình thực hiện sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng và
ngược lại
 Mô hình tổ chức cấp tín dụng của ngân hàng thƣơng mại
Mô hình tổ chức cấp tín dụng là cơ cấu tổ chức quản lý hoạt động tín dụng, thể
hiện qua việc tổ chức các phòng ban, các con người trong mỗi bộ phận và mối quan
hệ giữa các bộ phận, giữa các thành viên trong một bộ phận thông qua các quyết
định, văn bản quy định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận,
từng cá nhân của cấp có thẩm quyền.
Một mô hình tổ chức cấp tín dụng khoa học: thực hiện phân tách chức năng
hợp lý, không chồng chéo, không trùng lắp sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín
dụng và ngược lại

 Kiểm tra kiểm soát nội bộ về hoạt động tín dụng
Kiểm soát nội bộ là một quá trình chịu ảnh hưởng bởi Hội đồng quản trị, các
nhà quản lý và các nhân viên khác của một tổ chức, được thiết kế để cung cấp một
sự bảo đảm hợp lý trong việc thực hiện các mục tiêu mà Hội đồng quản trị mong
muốn là : (i) Hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động tín dụng; (2) Sự tin cậy của
thông tin trên báo cáo tài chính về hoạt động tín dụng và (3) sự tuân thủ các luật lệ
và quy định hiện hành.
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng hữu hiệu sẽ giúp
ngân hàng ngăn ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro hoạt động tín dụng , nâng cao
chất lượng tín dụng và ngược lại.
 Thông tin thị trƣờng, thông tin khách hàng
Thông tin thị trường, thông tin về khách hàng là căn cứ hết sức quan trọng và
vô cùng cần thiết để xem xét, quyết định cấp tín dụng và có các biện pháp hiệu quả
trong theo dõi, quản lý trong và sau khi cấp tín dụng, đảm bảo cấp tín dụng an toàn,


×