Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Luận văn Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 84 trang )

d

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

ISO 9001:2015

NGÔ THỊ HỒNG NHỊ

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TRÀ VINH, NĂM 2019


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH

NGÔ THỊ HỒNG NHỊ

BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã ngành: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:


PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện

TRÀ VINH, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ “Bảo vệ người lao động chưa thành niên
theo pháp luật lao động Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số
liệu được sử dụng trong luận văn, các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Kết quả nghiên cứu này chưa được công bố trong các
công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước pháp luật về công trình nghiên cứu của mình.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Kinh tế, Luật Trường Đại học Trà
Vinh xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Ngô Thị Hồng Nhị

i


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình và

chu đáo của Thầy PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện – Phó Hiệu trưởng trường Đại học
Kinh tế - Luật (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Tôi cũng xin cảm ơn
sự chỉ bảo ân cần của thầy cô Khoa Kinh tế, Luật Trường Đại học Trà Vinh đã giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian qua, cảm ơn Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại học Trà
Vinh, các cơ quan đơn vị đã cung cấp số liệu, tài liệu, cảm ơn tập thể lớp Cao học Luật
Kinh tế (CH16LKT_TV5_2) và gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn Thạc sĩ.
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình, tôi đã có nhiều cố gắng, nỗ lực của
bản thân nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của Quý Thầy cô, bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................... i
DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT ................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................................... vii
TÓM TẮT ................................................................................................................... viii
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. TÍNH CẤP THIẾT ĐỀ TÀI ..................................................................................... 1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ...................................................................... 2
2.1. Mục tiêu chung ......................................................................................................... 2
2.2. Mục tiêu cụ thể ......................................................................................................... 2
3. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................ 3
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .................................................................................. 6
5. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI ................................................................................ 6
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 7
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN ............................................................................................. 7

PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN .................................................................................................. 8
1.1. LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ............................ 8
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến người chưa thành niên ....................................... 8
1.1.1.1. Khái niệm “người chưa thành niên” ................................................................. 8
1.1.1.2. Khái niệm người lao động chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam và lao
động trẻ em theo pháp luật quốc tế ................................................................................. 9
1.1.2. Vị trí, vai trò của người lao động chưa thành niên ............................................. 11
1.1.3. Pháp luật một số quốc gia về người lao động chưa thành niên........................... 13
1.2. SỰ CẦN THIẾT BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ..... 16
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ NGƯỜI
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN ......................................................................... 21
1.3.1. Giai đoạn 1975 đến 1994 (trước khi có BLLĐ năm 1994) ................................. 21
1.3.2. Giai đoạn 1994 đến 2012 (từ khi có BLLĐ năm 1994) ...................................... 24
1.3.4. Giai đoạn từ 2012 đến nay (từ khi có BLLĐ năm 2012) .................................... 27

iii


1.4. NHỮNG YÊU CẦU CẦN ĐẶT RA ĐỂ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN ................................................................................................ 29
1.4.1. Bảo đảm sự phát triển toàn diện của người lao động chưa thành niên ............... 29
1.4.2. Tôn trọng quyền được tham gia quan hệ lao động của người chưa thành niên .. 31
1.4.3. Bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam .......................... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 36
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA
THÀNH NIÊN THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN ............................................................................................................. 37
2.1. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC

TIỄN Ở VIỆT NAM.................................................................................................... 37
2.1.1. Pháp luật về hợp đồng lao động đối với người lao động chưa thành niên .......... 37
2.1.1.1. Các quy định của pháp luật về hợp đồng lao động ......................................... 37
2.1.1.2. Thực trạng thực hiện các quy định về giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp
đồng lao động ................................................................................................................ 40
2.1.2. Pháp luật về tiền lương đối với người lao động chưa thành niên ....................... 42
2.1.2.1. Các quy định của pháp luật về tiền lương ....................................................... 42
2.1.2.2. Thực trạng áp dụng quy định về tiền lương ..................................................... 45
2.1.3. Pháp luật về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi đối với người lao động chưa
thành niên ...................................................................................................................... 46
2.1.3.1. Các quy định của pháp luật về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi .......... 46
2.1.3.2. Thực trạng về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi .................................... 48
2.1.4. Pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người lao động chưa
thành niên ...................................................................................................................... 50
2.1.4.1. Các quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động ................ 50
2.1.4.2. Thực trạng chấp hành các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động ... 51
2.1.5. Pháp luật về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất đối với người lao động
chưa thành niên ............................................................................................................. 53
2.1.5.1. Các quy định của pháp luật về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất ....... 53
2.1.5.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất ... 56

iv


2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN ................................................................................................ 58
2.2.1. Về hợp đồng lao động ......................................................................................... 58
2.2.2. Tiền lương ........................................................................................................... 59
2.2.3. Thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi .............................................................. 60

2.2.4. An toàn lao động, vệ sinh lao động ..................................................................... 61
2.2.5. Về kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất ....................................................... 62
2.2.5.1. Về kỷ luật lao động ........................................................................................... 62
2.2.5.2. Về trách nhiệm vật chất.................................................................................... 63
2.2.5. Kiến nghị chung .................................................................................................. 63
2.2.6. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện về bảo vệ người lao động chưa thành niên
theo pháp luật việt nam ................................................................................................. 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................ 68
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

v


DANH MỤC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLLĐ:

Bộ luật Lao động

LĐTBXH:

Lao động - Thương binh và Xã hội

NCTN:

Người chưa thành niên


NLĐCTN:

Người lao động chưa thành niên

NLĐ:

Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

LĐCTN:

Lao động chưa thành niên

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế

FLSA:

Đạo luật Tiêu Chuẩn Lao động Công Bằng

UNICEF:

Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc

vi



DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu lao động năm 2018 .............................................................. 15
Bảng 1.2: Số lượng cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm theo khu vực kinh tế
..................................................................................................................... 16

vii


TÓM TẮT
Đề tài “Bảo vệ người lao động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt
Nam” được thực hiện gồm 03 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Ở
phần nội dung, luận văn cấu trúc gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ người lao động chưa
thành niên
Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ người lao
động chưa thành niên và kiến nghị hoàn thiện
Nội dung chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ người lao động
chưa thành niên
Trong chương này tác giả làm sáng tỏ về mặt lý luận quy định pháp luật Việt
Nam về NLĐCTN để hiểu rõ những quy định dành cho chủ thể đặc biệt này. Bên cạnh
đó, so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới và làm sáng tỏ nội dung
cơ bản của các Công ước quốc tề về “lao động trẻ em”, phân tích những thuận lợi, khó
khăn đối với Việt Nam khi thực thi các công ước quốc tế này. Luận văn cũng chỉ rõ cơ
sở để xác định khái niệm NLĐCTN, đặc điểm của NLĐCTN so với lao động khác.
Bên cạnh đó, xác định vị trí, vai trò NLĐCTN đối với sự phát triển kinh tế nước ta.
Đồng thời đưa ra những yêu cầu để bảo đảm sự phát triển toàn diện của NLĐCTN phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tác giả cũng nghiên cứu về các giai đoạn lịch sử hình thành pháp luật Việt

Nam về bảo vệ quyền lợi NLĐCTN. Trải qua nhiều thời kỳ xây dựng và phát triển đất
nước, các quy định về bảo vệ quyền NLĐCTN càng được mở rộng, cụ thể hoá và ngày
càng sâu sắc hơn về mặt nội dung trong các văn bản quy phạm pháp luật. Từ đó tác giả
đúc kết được những vấn đề cần được xem xét hoặc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
Nội dung chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ
người lao động chưa thành niên và kiến nghị hoàn thiện
Trong chương này tác giả nghiên cứu, đánh giá toàn diện thực trạng các quy
định pháp luật về NLĐCTN, đồng thời chỉ ra những ưu điểm và mặt còn hạn chế, bất
cập cần được khắc phục. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo vệ NLĐCTN. Bên cạnh đó đề
xuất một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ NLĐCTN.

viii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT ĐỀ TÀI
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của cải vật chất
và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao
là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, xã hội, gia đình và bản thân mỗi
NLĐ. Bất cứ một chế độ xã hội nào, lao động của con người cũng là một trong những
yếu tố quyết định nhất, năng động nhất trong sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở là nhờ NLĐ. Xây dựng giàu có, tự do dân chủ cũng
là nhờ NLĐ. Tri thức mở mang, cũng nhờ lao động. Vì vậy lao động là sức chính của
sự tiến bộ xã hội loài người”.
Pháp luật lao động điều chỉnh rất nhiều quan hệ liên quan đến quan hệ lao động,
trong đó có loại quan hệ lao động mà một bên của quan hệ là NCTN. NCTN là người
còn non nớt cả về thể chất, tinh thần lẫn khả năng nhận thức về thế giới bên ngoài. Do
những hoàn cảnh và nhu cầu khác nhau mà NCTN đã sớm tham gia vào các quan hệ
lao động. Sự tham gia sớm này đã kéo theo một loạt các vấn đề có liên quan cần phải

giải quyết giữa nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu bảo đảm xã hội. Việt Nam thời
gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phòng ngừa và giảm thiểu lao
động chưa thành niên, xây dựng khuôn khổ pháp lý, chính sách vững chắc để phù hợp
với các tiêu chuẩn quốc tế về lao động, đồng thời, cũng đã thực hiện một số chương
trình, dự án cấp trung ương và địa phương để giảm thiểu lao động chưa thành niên.
Nhiều mô hình được triển khai thí điểm tại một số địa phương đã cải thiện điều kiện
lao động và an toàn vệ sinh lao động, môi trường làng nghề, hoạt động du lịch và các
hoạt động trong nông nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, lao động chưa thành niên vẫn
còn tồn tại ở một số nơi, đặc biệt trong khu vực kinh tế phi chính thức. Tình trạng này
đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về tâm lý, sức khoẻ của NCTN, hạn chế cơ hội
học tập và ảnh hưởng đến cơ hội có việc làm bền vững của họ trong tương lai. Theo
kết qủa khảo sát quốc gia về lao động chưa thành niên do Tổng cục Thống kê phối
hợp với Bộ LĐTBXH Việt Nam và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thực hiện gần
đây cho thấy, Việt Nam có khoảng 1,75 triệu lao động chưa thành niên. Trong tổng số
trên 18,3 triệu trẻ em, có khoảng 2,83 triệu em đang tham gia hoạt động kinh tế, trong
đó 42,6% là trẻ em gái. Gần 86% tham gia lao động sinh sống ở nông thôn và gần 2/3
số này thuộc nhóm 15 - 17 tuổi. Do đặc thù của nền kinh tế còn phát triển ở giai đoạn
1


thấp, tuổi bắt đầu tham gia lao động khá sớm, phổ biến từ 12 tuổi trở lên. Việc tham
gia lao động sớm có ảnh hưởng đến tình hình học tập của trẻ, với khoảng 41,6%
NCTN tham gia HĐKT không đi học (trên 2% chưa từng đi học). Thời gian làm việc
của NCTN khá dài, với khoảng 27,4% làm việc trên 42 giờ/tuần. Trên 70% tham gia
hoạt động kinh tế trong trong nông nghiệp, 74% tham gia làm việc dưới hình thức là
lao động hộ gia đình không hưởng lương1.Thực tế hiện nay, một bộ phận lao động là
NCTN làm việc trong điều kiện lao động ngoài trời, đi lại nhiều dễ bị tai nạn, nguy
hiểm, điều kiện làm việc quá nóng, quá lạnh, môi trường có hoá chất độc hại và các
tổn thương khác đến sự phát triển thể chất của NCTN. Thậm chí, nhiều trường hợp
phải làm việc các nghề cấm sử dụng lao động chưa thành niên hoặc điều kiện lao động

có hại.
Để bảo vệ và tạo điều kiện cho NCTN vừa có thể tham gia quan hệ lao động lại
không ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí lực, pháp luật về lao động hiện hành
của Việt Nam cho phép đối tượng này được tham gia vào những quan hệ lao động phù
hợp với sức khỏe và năng lực của họ, đồng thời nghiêm cấm việc lạm dụng sức lao
động của NCTN vào làm những công việc năng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm việc
quá sức. Đối với lao động chưa thành niên, quy chế lao động riêng được quy định
nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thể lực, trí lực của họ. Việc cho phép và
tạo điều kiện cho họ tham gia quan hệ lao động là một bước tập dợt về chuyên môn tay
nghề, về ý thức tổ chức kỷ luật trước khi trở thành chủ nhân của xã hội.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ người lao
động chưa thành niên theo pháp luật lao động Việt Nam” để làm đề tài luận văn
thạc sỹ. Đây là đề tài có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu cơ sở lý luận về NLĐCTN và pháp luật lao động Việt Nam về bảo
vệ NLĐCTN. Từ đó, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành và đề
xuất cơ chế thực thi pháp luật hiệu quả hơn, đảm bảo pháp luật bảo vệ NLĐCTN này.
2.2. Mục tiêu cụ thể

1

Ấn phẩm “Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012 các kết quả chính” (2014), Tổ chức Lao động Quốc tế,
Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của Tổ chức Lao động Quốc tế, Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội và Tổng cục thống kê Việt Nam - Hà Nội: ILO.

2


Để đạt được mục tiêu chung đã đề ra, luận văn tập trung nghiên cứu các mục

tiêu cụ thể như sau:
- Mục tiêu 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về bảo vệ người lao động chưa thành
niên.
- Mục tiêu 2: Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bảo vệ
người lao động chưa thành niên. Đồng thời, đánh giá phân tích thực trạng, nguyên
nhân những vấn đề khó khăn trong bảo vệ người lao động chưa thành niên.
- Mục tiêu 3: Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bảo vệ của người lao động chưa thành niên.
Để thực hiện các mục tiêu đó, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ và có hệ thống lý luận chung của pháp luật quy
định về bảo vệ người lao động chưa thành niên.
- Phân tích, đánh giá thực trạng qui định pháp luật hiện hành về bảo vệ người
lao động chưa thành niên chỉ ra những nội dung, những vấn đề còn thiếu sót, chưa phù
hợp.
- Đề ra giải pháp và hướng hoàn thiện pháp luật hiện hành về bảo vệ người lao
động chưa thành niên.
3. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Tình trạng sử dụng, lạm dụng lao động trẻ em đã và đang là vấn đề nhức nhối,
gây ra hệ lụy nghiêm trọng đối với sự phát triển của trẻ em nói riêng và sự phát triển
của xã hội nói chung. Pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể, chi tiết về
việc sử dụng lao động là trẻ em, từ độ tuổi đến thời gian và loại công việc cho phép,
bảo đảm điều kiện, vệ sinh, an toàn lao động phù hợp lứa tuổi. Tuy nhiên, thực tế,
không ít người sử dụng lao động khi tuyển dụng thường không thực hiện đúng những
quy định, dẫn đến tình trạng nhiều lao động chưa đủ tuổi thành niên phải làm những
công việc vất vả, nguy hiểm, độc hại, làm việc quá nhiều giờ, mức thù lao thấp. Thời
gian vừa qua, ở nước ta đã có một số nhà khoa học, nhà quản lý nghiên cứu Pháp luật
lao động Việt Nam về bảo vệ quyền lợi lao động chưa thành niên, qua đó có đưa ra
những đánh giá hoặc thậm chí làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định về bảo
vệ quyền lợi lao động chưa thành niên. Vấn đề này được nghiên cứu dưới nhiều khía
cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:


3


- Tác giả Đỗ Ngân Bình (2009) với bài viết “Phòng, chống bạo lực đối với trẻ
em và lao động trẻ em - Pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Luật học số 2 năm 2009. Bài
viết đã phân tích để đưa ra khái niệm lao động vị thành niên, lao động trẻ em và thực
trạng bạo lực đối với lao động trẻ em cũng như chỉ rõ thực trạng quy định liên quan
đến phòng, chống bạo lực đối với trẻ em, lao động trẻ em để từ đó bước đầu đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định về phòng chống bạo lực đối với trẻ em và lao động trẻ em. Tuy nhiên, bài viết
này không đề cập một cách toàn diện về bảo vệ trẻ em và lao động trẻ em nói chung
mà chỉ đề cập đến khía cạnh phòng, chống bạo lực đối với trẻ em và lao động trẻ em.
- Tác giả Nguyễn Hữu Chí (2003), bài viết “Những vấn đề pháp lý về lao động
chưa thành niên”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2003. Tác giả đưa ra khái
niệm lao động chưa thành niên và nhận xét về thực trạng sử dụng lao động chưa thành
niên ở nước ta, đồng thời đề ra một số giải pháp nhằm bảo vệ nhóm đối tượng này.
Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi bài viết đăng trên tạp chí nên các nội dung được đề
cập chưa mang tính chuyên sâu.
- Tác giả Đào Mộng Điệp (2004) với bài viết “Một số vấn đề pháp lý về lao
động chưa thành niên”, đăng trên Thông tin khoa học số 13 năm 2004 của Trường Đại
học Huế. Tác giả đề cập sơ lược về một số quy định của pháp luật lao động liên quan
đến người lao động chưa thành niên như quy định về việc làm, hợp đồng lao động, tiền
lương, an toàn lao động, vệ sinh lao động.
- Tác giả Chu Mạnh Hùng (2005), bài viết “Vấn đề trẻ em gái giúp việc gia
đình tại các thành phố lớn”, đăng trên Tạp chí Luật học số 5 năm 2005.
- Tác giả Phạm Thị Thuý Nga (2006), bài “Lao động phục vụ gia đình”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật số 2 năm 2006. Các bài viết đã đề cập thực trạng và giải
pháp nhằm bảo vệ các em chưa thành niên lao động. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu
của hai bài viết này còn hẹp, mới chỉ đề cập đến vấn đề lao động của các em chưa

thành niên trong lĩnh vực giúp việc gia đình. Ngoài ra, tác giả chưa đi sâu phân tích
thực trạng và pháp luật về lao động trẻ em.
- Tác giả Đỗ Thị Dung (2012), với bài viết “Lao động trẻ em và vấn đề vi phạm
pháp luật đối với lao động trẻ em”, Tạp chí Luật học 2012. Bài báo tập trung phân tích
các qui định của pháp luật về nghề, công việc được nhận lao động trẻ em; qui định
điều kiện được nhận và sử dụng lao động trẻ em; qui định các hành vi bị cấm khi sử
4


dụng lao động trẻ em; các qui định về xử lý vi phạm pháp luật đối với lao động trẻ em.
Tác giả còn đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật đối với lao động trẻ em và đề xuất
các giải pháp phòng chống vi phạm pháp luật đối với lao động trẻ em
Ngoài ra còn có một số đề tài nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi lao động chưa
thành niên ở nhiều gốc độ khác nhau, như:
- Luận văn “Chế độ pháp lý về lao động chưa thành niên” của tác giả Vũ Thị
Hằng năm 2000.
- Luận văn “Pháp luật về lao động chưa thành niên ở Việt Nam” của tác giả
Phan Văn Hùng năm 2002.
- Luận văn “Những vấn đề pháp lý cơ bản về lao động chưa thành niên” của
tác giả Dương Thị Kiều Oanh năm 2003.
- Luận văn “Chế độ pháp lý về bảo vệ lao động chưa thành niên theo luật lao
động Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đình Tự năm 2004.
- Luận văn “Một số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành niên theo quy định
của pháp luật lao động Việt Nam” của tác giả Lê Việt Hà năm 2006.
- Luận văn “Hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện
hội nhập quốc tế” của tác giả Trần Thắng Lợi, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2012.
Tuy nhiên, các luận văn trên chưa nghiên cứu, phân tích sâu và toàn diện các
quy định đối với người lao động chưa thành niên, đặc biệt thực trạng pháp luật về lao
động chưa thành niên chưa được làm rõ cả về sự bất cập của pháp luật cũng như tổ

chức thực hiện, chưa đánh giá được mức độ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội,
nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. Mặt khác, các kiến nghị hoàn thiện pháp luật
còn chưa cụ thể, rõ ràng, mới chỉ dừng lại ở những đề xuất mang tính định hướng,
chung chung. Nhiều kiến nghị không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội hiện
nay. Tóm lại, đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới các dạng khác nhau
về vấn đề người lao động chưa thành niên hay lao động trẻ em nhưng các công trình
nghiên cứu này chỉ ở mức độ nhỏ lẻ; tính toàn diện, đầy đủ chưa cao, nhiều vấn đề còn
bỏ ngỏ chưa được nghiên cứu.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về người lao động chưa thành niên. Tuy
nhiên, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những tư tưởng khoa học và một số vấn đề lý thuyết
cũng như thực tiễn ứng áp dụng pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ người lao
5


động chưa thành niên từ các công trình khoa học đã nghiên cứu. Tác giả cho rằng, đây
là vấn đề cần được nghiên cứu. Vì vậy, đề tài này nghiên cứu pháp luật lao động Việt
Nam về bảo vệ người lao động chưa thành niên từ các góc độ pháp lý:
- Thứ nhất, đề tài góp phần luận giải hệ thống lý luận về lao động chưa thành
niên và pháp luật điều chỉnh đối tượng này trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Thứ hai, đề tài đưa ra sự đánh giá toàn diện về thực trạng pháp luật đối với
người lao động chưa thành niên ở Việt Nam và chỉ ra những vấn đề cần phải sửa đổi,
bổ sung trong hệ thống pháp luật.
- Thứ ba, đề tài đã xác định những yêu cầu cần thiết của việc hoàn thiện các
quy định hiện hành về người lao động chưa thành niên, đề xuất thêm một số giải pháp
kèm theo luận giải cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về người lao động chưa thành
niên.
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu đề tài chủ yếu là các quy định pháp luật lao động trong
BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLLĐ. Ngoài ra, đối tượng
nghiên cứu còn bao gồm một số nội dung trong các văn bản pháp luật khác như: một

số quy định trong BLLĐ năm 2012, Luật trẻ em năm 2016, BLDS năm 2015, Bộ Luật
Tố tụng dân sự năm 2015 và một số văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bảo vệ
NLĐCTN.
5. PHẠM VI GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Về nguyên tắc NLĐCTN bao gồm nhiều đối tượng khác nhau, nếu hiểu theo
nghĩa rộng, NLĐCTN gồm tất cả những người dưới 18 tuổi thực hiện hoạt động lao
động, còn hiểu theo nghĩa hẹp, NLĐCTN là những người dưới 18 tuổi làm công cho
NSDLĐ để được trả lương. Tuy nhiên, phù hợp với tên gọi của đề tài và chuyên ngành
nghiên cứu, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật lao động về NLĐCTN trong mối
quan hệ lao động “làm công ăn lương” là đối tượng điều chỉnh của BLLĐ Việt Nam.
Mặt khác, để đề tài có độ rộng và độ sâu cần thiết, tác giả cũng mở rộng phạm vi
nghiên cứu cả pháp luật lao động về NLĐCTN trong giai đoạn “tiền quan hệ lao động”
(nghĩa là trong lĩnh vực việc làm, học nghề) và trong các mối quan hệ xã hội có liên
quan trực tiếp với quan hệ lao động.
Nhằm góp phần đảm bảo thi hành tốt các chính sách về bảo vệ lao động chưa
thành niên. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ tập trung chủ yếu nghiên
6


cứu về các vấn đề đối với NLĐCTN trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi theo
BLLĐ năm 2012.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đề tài được thực hiện trên cơ sở sử dụng các phương
pháp như: phương pháp luật viết đối với các văn bản pháp luật liên quan; phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu; phương pháp thu thập đánh giá… nhằm làm
sáng tỏ các vấn đề đang nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở Chương 1 để nêu cơ sở lý luận
và pháp lý về bảo vệ người lao động chưa thành niên. Phương pháp này cũng được sử
dụng để tổng hợp những hạn chế của quy định pháp luật và đưa ra những đề xuất hoàn

thiện pháp luật liên quan.
Phương pháp phân tích, chủ yếu là phương pháp phân tích luật được sử dụng
chủ yếu ở Chương 2 để nghiên cứu thực tiễn áp dụng về bảo vệ NLĐCTN nhằm tìm ra
những ưu điểm, hạn chế trong việc quy định về nội dung điều chỉnh pháp luật đối với
NLĐCTN.
Phương pháp so sánh luật được sử dụng chủ yếu để so sánh các văn bản, quy
định để tìm hiểu những điểm còn mâu thuẫn, bất hợp lý từ đó đưa ra đề xuất hướng
khắc phục.
Phương pháp đánh giá để rút ra kết luận trong luận văn.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn cấu trúc
thành 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ người lao động chưa thành niên
Chương 2: Thực trạng quy định bảo vệ người lao động chưa thành niên theo
pháp luật lao động Việt Nam và giải pháp hoàn thiện

7


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ
NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến người chưa thành niên
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Trong quá trình phát triển của con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành được
chia thành nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn chuyển tiếp từ ấu thơ sang
trưởng thành đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của con người, đây là giai
đoạn phát triển đặc biệt mạnh mẽ và phức tạp, bao gồm sự phát triển về thể chất và sự
biến đổi về tâm lý, thời kỳ đó được gọi là thời kỳ chưa thành niên. Chưa thành niên là thời

kỳ quá độ từ trẻ em sang người lớn, luôn gắn liền với những biến đổi tâm sinh lý mà bất
kỳ người nào cũng phải trải qua. Trong lúc này, NCTN không hẳn là trẻ em cũng chưa
hẳn là người trưởng thành, bản thân NCTN chưa có kinh nghiệm sống, thiếu kiến thức và
dễ dàng thay đổi do điều kiện sống tác động.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về NCTN, từ góc độ khác nhau mà có cách hiểu
khác nhau như:
Theo luật pháp quốc tế: Tại Điều 1 Công quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội
đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 20/11/1989 ghi nhận “trong phạm vi Công ước
này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với
trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Theo Quy tắc của Liên Hiệp Quốc về
bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày
14/12/1990, tại mục I, điểm 11 nêu rõ: “NCTN là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi
dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của
NCTN”. Như vậy, theo quy định của pháp luật quốc tế thì NCTN được xác định là
những người dưới 18 tuổi2. Ở mỗi quốc gia sẽ có quy định khác nhau phụ thuộc vào
từng điều kiện phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, tiêu chí để xác định “người thành
niên” hay “chưa thành niên” dựa trên cơ sở các đặc điểm tâm lý, sinh lý, sức khỏe và
nhận thức về độ tuổi.

2

Cao Việt Hoàng, Nguyễn Đức Hiếu (2014), Một số vấn đề tư pháp phù hợp với trẻ em, Nghiên cứu khoa học
Trang thông tin điện tử Học viện Tòa án

8


Trong hệ thống pháp luật Việt Nam việc quy định độ tuổi NCTN được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013, BLDS năm 2015, BLLĐ năm 2012, Luật trẻ em năm 2016
và một số văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như:

Theo Luật trẻ em năm 2016, tại Điều 1 ghi nhận “Trẻ em là người dưới 16
tuổi”, khái niệm này không còn giới hạn trẻ em là công dân Việt Nam, mà đối tượng
áp dụng của Luật còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam theo
pháp luật Việt Nam thì NCTN bao gồm cả trẻ em và người từ trên 16 tuổi đến dưới 18
tuổi.
Trong BLDS năm 2015, tại Điều 20 quy định “NCTN là người từ đủ 18 tuổi trở
lên”, có thể thấy BLDS coi tất cả những người dưới 18 tuổi là NCTN, quy định này
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự.
Như vậy, theo pháp luật Việt Nam mỗi ngành luật khác nhau điều có định nghĩa
về NCTN khác nhau nhưng chung quy điều thống nhất quy định tuổi của NCTN là
những người dưới 18 tuổi.
Từ những phân tích trên, có thể thấy khái niệm NCTN được xây dựng dựa trên
sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới
hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, pháp luật quy
định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Vì vậy, có thể đưa ra
khái niệm: NCTN là những người đang trong quá trình phát triển về mặt tự nhiên và
xã hội; chưa có sự trưởng thành đầy đủ về thể chất, trí tuệ và chưa đạt đến một độ tuổi
nhất định theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm người lao động chưa thành niên theo pháp luật Việt Nam và
lao động trẻ em theo pháp luật quốc tế
Cũng như các nước đang phát triển, nước ta thừa nhận về sự tồn tại của
NLĐCTN như tiến trình tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội. Có thể thấy
NLĐCTN có một số đặc điểm cơ bản như thể lực, trình độ nhận thức của họ chưa hoàn
thiện, thiếu kinh nghiệm sống và làm việc nên dễ bị tác động bởi môi trường xung
quanh, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều hạn chế. Chính vì thế mà
NLĐCTN được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mức độ cao hơn so với
người lao động thành niên. Luật pháp nước ta chiếu theo luật pháp quốc tế với sự cân
đối và hoàn chỉnh cho phù hợp với đặc điểm quốc gia, đã ban hành các quy định cụ
thể:
9



Theo Hiến pháp năm 2013, tại Điều 35 đã ghi nhận: “Công dân có quyền làm
việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Như vậy, chế định về quyền lao
động, việc làm trong Hiến pháp nước ta đã cho thấy sự tương thích với các Điều ước
quốc tế về nhân quyền.
BLLĐ năm 2012 có đưa ra định nghĩa: “NLĐ là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có
khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản
lý, điều hành của NSDLĐ”. Theo quy định thì NLĐ cần đảm bảo những đặc điểm như:
phải đủ 15 tuổi, ở đây độ tuổi 15 được quy định trên cơ sở dữ liệu quốc gia khoa học
và thực tiễn về mặt hình thức năng lực cá nhân3; bên cạnh đó NLĐ có khả năng lao
động và phải chịu sự quản lý của NSDLĐ. Theo đó, tại Điều 161 quy định “NLĐCTN
là NLĐ dưới 18 tuổi”, do những hạn chế mang tính chất tự nhiên của NCTN mà pháp
luật quy định hạn chế sự tham gia trong các hoạt động lao động. Như vậy, cả hai điều
luật trên cho thấy độ tuổi của NLĐCTN là từ đủ 15 tuổi cho tới dưới 18 tuổi. Đây là sự
phù hợp với quy định của BLDS về độ tuổi. Từ đó có thể hiểu NLĐCTN là nhóm lao
động đặc thù và có những đặc điểm riêng biệt, chính vì thế trong BLLĐ năm 2012
dành riêng chương IX để quy định về lao động chưa thành niên.
Theo quan niệm quốc tế thì người trẻ tuổi bao gồm trẻ em, NCTN và thanh
niên. Trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, NCTN (Juvenile) là người từ 15 đến 18
tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi 4. Theo quy định của Công ước
Liên hợp quốc (dưới 18 tuổi)5 tương ứng với khái niệm NCTN (dưới 18 tuổi) của
pháp luật Việt Nam. Đa phần các văn bản pháp lý quốc tế, kể cả Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, gọi chung là “lao động trẻ em”, tức là lao động của những người dưới
18 tuổi.
Cũng như vấn đề trẻ em và NCTN, trên thế giới hiện không có một khái niệm
thống nhất về LĐCTN. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam đã bao hàm lao động trẻ em
trong khái niệm NLĐCTN. Như vậy, về phạm vi, đối tượng được coi là “lao động trẻ
em” của Tổ chức lao động quốc tế tương tự với phạm vi, đối tượng mà pháp luật Việt
Nam quy định về LĐCTN.

Pháp luật về NCTN ở Việt Nam có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến
3

Lưu Bình Nhưỡng (2015), Bình luận khoa học Bộ luật lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2012, Nxb Lao động, trang 13
4
Điều 2, Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tối tệ
nhất, 1999 , thông qua ngày 17/6/1999, (có hiệu lực ngày 18/6/1999)
5
Điều 1, Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em , thông qua ngày 20/11/1989, (có hiệu lực ngày 02/9/1990)

10


nhiều nhóm quan hệ xã hội khác nhau, nhiều ngành luật khác nhau như: Luật hiến
Pháp, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Lao
động,…điều bảo vệ quyền và lợi ích của NCTN theo đặc thù riêng của ngành mình.
Trên bình diện quốc tế, trong các Công ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh quan hệ về lao
động trẻ em thì Công ước của Tổ chức lao động quốc tế như Công ước 138 về tuổi tối
thiểu làm công và Công ước số 182 về cấm hành động ngay lập tức để hạn chế và xóa
bỏ hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Tóm lại: Có thể đưa ra khái niệm về LĐCTN sẽ bao gồm lao động từ đủ 15 đến
dưới 18 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động.
1.1.2. Vị trí, vai trò của người lao động chưa thành niên
NLĐCTN là những NLĐ có năng lực hành vi lao động hạn chế vì thể lực của
họ chưa phát triển hoàn toàn đầy đủ. Ở giai đoạn này, thể lực và trí lực của họ đang
phát triển chưa ổn định bởi các em mới bắt đầu bước vào tuổi dậy thì với nhiều điều
mới mẽ cần khám phá. Cũng chính vì thế mà quá trình tiếp thu của các em khá nhanh,
có sức dẻo dai trong công việc. Đây là một lực lượng trẻ trong cơ cấu dân số quốc gia
và xuất phát từ nhu cầu về việc làm và giải quyết việc làm của thị trường lao động mà

việc sử dụng lao động là NCTN là một tất yếu. Chính vì thế, đầu tư và phát triển của
lứa tuổi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong chiến lược dân số nước ta hiện nay.
Pháp luật lao động hiện hành cho phép đối tượng này được tham gia vào những công
việc phù hợp với sức khỏe và năng lực của họ theo quy định, đồng thời nghiêm cấm
hành vi lạm dụng sức lao động của NLĐCTN vào những công việc độc hại, nguy
hiểm. Việc tạo điều kiện cho NCTN được tham gia lao động là một bước tập dợt về
chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật và nâng cao kiến thức về xã hội trước khi trở
thành chủ nhân của xã hội.
Nhìn nhận được vai trò đặc biệt quan trọng trong thế hệ lao động trẻ tương lai
của đất nước, chính vì thế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều sự quan tâm đối
với thế hệ trẻ trong đó gồm thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là
lực lượng quan trọng góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong quá trình công
nghiệp hóa, đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực đảm bảo về số lượng và chất lượng.
Tuy NCTN chưa được công nhận là lao động chính thức trong xã hội nhưng đây là
người chủ của đất nước trong tương lai tạo ra của cải vật chất cho đất nước.
Ngày nay, ở mỗi quốc gia đã và đang phát triển vẫn còn nhiều hiện tượng
11


NCTN mồ côi không nơi nương tựa, NCTN sống trong gia đình mà bố mẹ bị ốm đau,
tai nạn, bị mất khả năng lao động, hoặc do kinh tế thu nhập không đủ để trang trải
cuộc sống…khi hoàn cảnh gia đình rơi vào cảnh đói nghèo thì việc NCTN tham gia
lao động là điều khó tránh khỏi nên pháp luật cần thừa nhận và tôn trọng quyền tham
gia quan hệ lao động của họ6. Thể hiện qua các quy định pháp luật về quyền được tự
do lao động với những công việc và ngành nghề phù hợp với lứa tuổi để đảm bảo phù
hợp với sự phát triển thể chất, tinh thần của NCTN.
NLĐCTN đã trở thành chủ đề được thế giới quan tâm trong nhiều năm qua, đặc
biệt là Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và đối với các chính phủ các nước. Trên thế
giới có rất nhiều những nghiên cứu đã được thực hiện; đồng thời cũng có nhiều dự án
và chương trình hành động cũng như các chiến dịch truyền thông đã được phát động

nhằm chia sẽ thông tin và giải quyết tình trạng này. Ở Việt Nam, NLĐCTN xuất hiện
từ khá lâu trong lịch sử, ngày nay thì số lượng NLĐCTN không ngừng tăng.
NLĐCTN là đối tượng được phép tham gia lao động nhưng là lao động đặc biệt vì
phải tuân theo những mục đích và tính chất lao động riêng biệt để đảm bảo quyền học
tập, phát triển và tạo điều kiện cho NCTN được tham gia quan hệ lao động, học hỏi
thêm kinh nghiệm mà không ảnh hưởng đến thời gian học tập, vui chơi giải trí và hạn
chế những nguy cơ dẫn đến trẻ bị thiệt hại về các quyền lợi cũng là bảo vệ một lực
lượng lao động tương lai của một đất nước, luật pháp nước ta chiếu theo luật pháp thế
giới với sự cân đối cho phù hợp với đặc điểm quốc gia và tạo điều kiện cho NCTN
vừa tham gia lao động mà không ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực và trí lực.
BLLĐ đã dành Mục 1 của Chương XI từ Điều 161 đến Điều 165 để quy định
riêng đối với NLĐCTN, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐCTN khi
tham gia quan hệ lao động. Theo quy định của bộ luật thì NSDLĐ chỉ được sử dụng
lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khỏe bảo đảm sự phát
triển thể lực, trí tuệ và nhân cách của NCTN. Người sử dụng lao động cần phải có
trách nhiệm quan tâm chăm sóc NLĐCTN về các mặt lao động, tiền lương, thời gian
làm việc, thời gian nghỉ ngơi, an toàn lao động vệ sinh lao động… Bên cạnh đó chỉ
cho phép NCTN tham gia vào những công việc phù hợp với sức khỏe và khả năng của
họ và thời gian làm việc cho NLĐCTN: người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không

6

Trần Thắng Lợi (2012), Hoàn thiện Pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế,
Luận án Tiến sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 30.

12


được làm việc quá 8 giờ trong 1 ngày và 40 giờ trong 1 tuần; Người dưới 15 tuổi
không được vượt quá 4 giờ trong 1 ngày và 20 giờ trong 1 tuần và không được sử

dụng NCTN làm thêm giờ. Đồng thời Bộ LĐTBXH cũng quy định NSDLĐ chỉ được
sử dụng lao động ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến đủ 15 tuổi và làm các công việc nhẹ theo
danh mục được quy định tại Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH, ngày 10/6/2013
của Bộ LĐTBXH.
Tiếp theo đó Luật trẻ em năm 2016, tại Điều 26 cũng quy định: Trẻ em có
quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị bóc lột sức lao động; không phải
lao động trước tuổi, quá thời gian hoặc làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm
theo quy định của pháp luật; không bị bố trí công việc hoặc nơi làm việc có ảnh hưởng
xấu đến nhân cách và sự phát triển toàn diện của trẻ em.
Từ những quy định trên có thể thấy pháp luật cho phép NCTN tham gia lao
động nhưng là lao động đặc biệt và phải tuân thủ các quy định của pháp luật để đảm
bảo quyền học tập, phát triển, quyền được bảo vệ. Song song đó cũng phải tôn trọng
thành quả lao động, kết quả đóng góp cho xã hội mà NCTN mang lại.
1.1.3. Pháp luật một số quốc gia về người lao động chưa thành niên
Ở Trung Quốc, tại Điều 38 Luật về bảo vệ NCTN năm 2006 quy định “không
tổ chức, cá nhân nào có quyền thuê mướn bất kỳ NCTN dưới 16 tuổi, trừ trường hợp
có quy định khác của Nhà nước. Bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào mà, theo quy định
có liên quan của Nhà nước thuê NCTN từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chấp hành các
quy định của Nhà nước về loại công việc, thời giờ làm việc, cường độ lao động và
biện pháp bảo đảm, và cơ quan hoặc cá nhân này không thể phân công họ làm các
công việc quá căng thẳng, công việc ở môi trường mang tính chất độc hại nguy hiểm,
hoặc các công việc khác mà ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần, hoặc bất kỳ hoạt
động nguy hiểm nào”. Bên cạnh đó, Điều 64 Luật lao động nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, thông qua ngày 05/7/1994 quy định “không NLĐCTN nào bị bắt buộc phải
làm việc dưới hầm mỏ, với sự độc hại, với cường độ lao động mạnh cấp IV theo quy định
của nhà nước hoặc làm các công việc không phù hợp”.
Pháp luật Hoa kỳ cũng ban hành Đạo luật Tiêu Chuẩn Lao động Công Bằng
(FLSA) và Luật lao động trẻ em (được công bố ở Qui luật 29 CFR, Phần 570, thành
lập những tiêu chuẩn về giờ làm việc và những nghề cho các em trẻ tuổi), trong đạo
luật này quy định tuổi tối thiểu đi làm là 16 tuổi, bên cạnh đó trẻ em ở độ tuổi 16 và

13


17 tuổi có thể đi làm với các nghề nghiệp mà Bộ trưởng của Bộ lao động nước này
không tuyên bố là nguy hiểm, khi trẻ em đến độ tuổi 18 tuổi thì không còn lệ thuộc
bởi Luật lao động trẻ em của Liên Bang này nữa.
Pháp luật Philippin: Luật lao động Philippin cụ thể hóa Công ước 182 theo
hướng cụ thể hóa nội dung, bên cạnh đó lại có những văn bản quy định riêng để quy
định thành danh mục ngành nghề, công việc cấm sử dụng lao động dưới 18 tuổi. Lệnh
số 65-04 về Nguyên tắc và quy định thực hiện Luật công số 9231, sửa đổi Luật số
7610 của Philippin tại Mục 5 đã quy định cụ thể điểm (b) Điều 3 Công số 138 như
sau: công việc, mà tính chất hay trong các trường hợp được thực hiện mà nguy hiểm
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, an toàn hoặc đạo đức của trẻ em như: tước đoạt, hạ
thấp danh dự nhân phẩm của trẻ em; khiến trẻ em bị lạm dụng về thể chất, tinh thần
hoặc tình dục, hoặc có nguy cơ cao gây tổn hại đến đạo đức, tâm lý của trẻ em, được
thực hiện dưới mặt đất, dưới nước hoặc ở độ cao nguy hiểm; liên quan đến việc sử
dụng máy móc nguy hiểm, thiết bị, công vụ nguy hiểm; khiến trẻ tiếp xúc với nguy
hiểm; được thực hiện trong môi trường không đảm bảo sức khỏe, khiến trẻ tiếp xúc
với điều kiện độc hại, chất, nhân tố gây nguy hại hay quá trình xử lý liên quan đến
chất phóng xạ, lửa, chất dễ cháy, chất độc hại hoặc tương tự hoặc với nhiệt độ cao,
tiếng ồn, độ rung quá mức; được thực hiện trong điều kiện khó khăn; khiến trẻ tiếp
xúc với các nhân tố như vi khuẩn, virus, mầm bệnh; liên quan đến sản xuất hoặc kiểm
soát chất nổ. Bên cạnh đó, Luật công số 7610 của Philippin năm 1992 còn quy định về
cấm tuyển dụng trẻ em trong các công việc quảng cáo tiêu thụ rượu bia, nước uống có
cồn, thuốc lá và các sản phẩm mang tính bạo lực.
Ở mỗi quốc gia quy định ngưỡng tuổi tối thiểu lao động trẻ em khác nhau ví dụ
như: Tại Ấn Độ, đạo Luật trẻ em năm 1986 quy định cấm sử dụng trẻ em dưới 14 tuổi
làm việc trong một số ngành công nghiệp “nguy hiểm” như sản xuất pháo hoa và kính,
chỉ được làm các ngành nghề gia công và có độ an toàn cao7. Ở Peru, độ tuổi lao động
trẻ em thay đổi từ 14 đến 18 tuổi tùy ngành nghề (14 tuổi được làm nông nghiệp, 15

tuổi được làm công nghiệp, 16 tuổi được làm những công việc đánh bắt cá ngoài khơi
và 18 tuổi được làm việc ở cảng, đi biển). Nhìn chung các quốc gia phân độ tuổi theo
mức độ nặng nhọc, nguy hiểm khác nhau.

7

Việt Linh (2006), Ấn Độ cấm lao động trẻ em, (truy cập ngày 22/3/2019)

14


Hiện nay có khoảng 27 Công ước, 14 Khuyến nghị liên quan đến lao động trẻ
em; trong đó có 11 Công ước và 5 Khuyến nghị liên quan đến tuổi lao động khuyến
nghị. Các văn bản quốc tế này khác nhau về trọng tâm và chi tiết song đều tập trung
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ trẻ em chống lại các công việc độc hại
không thích hợp. Những văn bản quốc tế mà các quốc gia ký kết với nhau vì quyền lợi
của trật tự và công lý quốc tế, hình thành nền tảng mà dựa vào đó, người ta có thể xây
dựng luật pháp quốc gia và các chính sách của họ8. Để tìm hiểu rõ hơn quy định pháp
luật ở một số quốc gia về bảo vệ “lao động trẻ em”, tác giả đã tham khảo một số Công
ước quốc tế liên quan:
Xem xét cần thiết thông qua những văn kiện mới đổi với việc nghiêm cấm và
xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, như một mối ưu tiên chính của
hành động quốc gia và quốc tế, chính vì thế Công ước số 182 được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 17/6/1999 đã ra đời. Đây là sự nối tiếp cụ thể của Công ước
và Khuyến nghị về Tuổi tối thiểu được phép đi làm, đây vẫn là văn kiện cơ bản về lao
động trẻ em; Tuyên bố của ILO về các Nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc và
những hoạt động triển khai được Hội nghị Lao động quốc tế thông qua tại kỳ họp thứ
86 năm 1998. Bên cạnh đó Tổ chức Lao động quốc tế đã đồng thời thông qua Khuyến
nghị số 190 về việc cấm và loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, tại
Điều 2 trong chương hành động Khuyến nghị đã xác định hủy bỏ những hình thức lao

động tồi tệ nhất, bên cạnh đó ngăn chặn việc đưa trẻ em tham gia vào hoặc đưa trẻ em
ra khỏi những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, bảo vệ trẻ em khỏi những hành
động trả thù và giúp các em phục hồi và hòa nhập xã hội thông qua các biện pháp đáp
ứng được các nhu cầu về giáo dục và tâm lý cho trẻ em; đặc biệt chú ý tới những trẻ
em ở lứa tuổi nhỏ hơn, những trẻ em gái, những nơi làm việc được giấu kín mà trẻ em
gái đặc biệt gặp nguy cơ cao, những trẻ em khác có nguy cơ bị tôt thương cao hoặc
nhu cầu đặc biệt, xác định, vươn tới và làm việc với các cộng đồng mà ở đó trẻ em có
rủi ro.
Trong những Công ước quốc tế về lao động trẻ em phải nhắc đến Công ước số
138 của ILO, được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 26/7/1974, Việt Nam
gia nhập ngày 24/6/2003. Công ước này quy định độ tuổi tối thiểu được tuyển dụng

8

Lê Thị Huyền Trang (2008), Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên ở Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 34.

15


×