Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Bảo vệ quyền con người bằng các quy định về trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.95 KB, 34 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------

PHẠM NGỌC HÒA

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------o0o------

PHẠM NGỌC HÒA

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc

Hà Nội - 2016

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
quả được trình bày trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội
xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Ngọc Hòa

3


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................6

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẪN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰTRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM ..............................................................................................................14
1.1 Khái niệm Trách nhiệm hình sự và khái niệm Quyền con người ...................14
1.1.1 Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự .......................................................................................................14
1.1.2 Quyền con người và các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người ..........19
1.2 Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và quyền con người ............................28
1.2.1 Vị trí của chế định trách nhiệm hình sự trong bảo vệ quyền con người. ......28
1.2.2 Vai trò của chế định trách nhiệm hình sự trong bảo vệ quyền con người ....28
1.2.3 Ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự trong bảo vệ quyền con người
.......................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.4 Đặc điểm của việc bảo vệ quyền con người bằng quy định về trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam...... Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 1 ................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 2: BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG QUY ĐỊNH VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM. .... Error!
Bookmark not defined.
2.1 Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng quy định về cơ sở của
TNHS. ................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2 Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng quy định về tuổi chịu
TNHS. ................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3 Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng quy định về tình trạng
không có năng lực TNHS. .................................... Error! Bookmark not defined.

4


2.4 Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng quy định về thời hiệu
truy cứu TNHS. ..................................................... Error! Bookmark not defined.

2.5 Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng các quy định về trách
nhiệm hình sự trong phần các tội phạm ................ Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 2 ................................................... Error! Bookmark not defined.
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀO CÔNG
TÁC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI .................. Error! Bookmark not defined.
3.1 Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp
luật hình sự về trách nhiệm hình sự góp phần bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay. ....................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2 Những đề xuất nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định một số quy phạm cụ thể
trong Bộ luật hình sự ............................................ Error! Bookmark not defined.
3.2.1 Hoàn thiện nội dung về cơ sở của trách nhiệm hình sự. ................ Error!
Bookmark not defined.
3.2.2 Hoàn thiện nội dung về thời hiệu truy cứu TNHS. Error! Bookmark not
defined.
3.2.3 Hoàn thiện nội dung về tuổi chịu TNHS . Error! Bookmark not defined.
Kết luận chƣơng 3 ................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................31

5


MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền con người là những giá trị cao quý, là tinh hoa của nền văn minh nhân
loại. Đó tiếng nói chung, là phương tiện chung của tất cả các dân tộc trên thế giới
nhằm hướng đến mục tiêu cuối cùng: thúc đẩy và bảo vệ phẩm giá cũng như hạnh
phúc của mọi con người. Kể từ sau chiến tranh thế giới lần hai, quyền con người và
những đảm bảo pháp lý về quyền con người ngày càng được đề cao và phát triển
thành một hệ thống với những tiêu chuẩn quốc tế, mang tính bắt buộc đối với mọi

quốc gia. Như vậy, cùng với sự biến chuyển của thời cuộc, tôn trọng và bảo vệ các
quyền con người đã dần trở thành thước đo cơ bản cho trình độ văn minh của các
nước, các dân tộc trên toàn cầu.
Không nằm ngoài xu thế ấy, trong quá trình phát triển, hội nhập sâu rộng với
các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã cho thấy những nỗ lực không ngừng của
mình trong việc khẳng định và thúc đẩy quyền con người. Thực tiễn lịch sử dân tộc
ta chỉ ra rằng, việc nghiên cứu quyền con người và những cơ chế bảo vệ quyền con
người không hề mâu thuẫn với lý tưởng cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
Bởi, cuộc cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng cộng sản Việt Nam tiến
hành dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh không có mục đích gì hơn là
giành lại và giữ gìn, phát triển quyền con người cho toàn thể dân tộc cũng như mỗi
cá nhân người Việt Nam. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước được phản ánh nhất
quán từ tư tưởng chính sách đến những nguyên tắc phổ quát và từng quy định pháp
luật cụ thể trên tất cả các lĩnh vực từ trước đến nay.
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, việc xây
dựng được một hệ thống pháp luật đầy đủ và áp dụng được chúng một cách chính
xác, linh hoạt sẽ góp phần quan trọng trong việc đảm bảo những quyền và tự do cơ
bản của con người. Trong đó, không thể không kể đến pháp luật hình sự với tư cách
là một công cụ hữu hiệu trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; nâng
cao nhận thức pháp luật và ý thức pháp lý; từng bước tiến tới hạn chế đến mức thấp

6


nhất những ảnh hưởng của tội phạm gây ra. Từ đó, nâng cao pháp chế, giữ gìn trật
tự pháp luật, duy trì kỷ cương xã hội, bảo vệ và bảo đảm quyền con người.
Để đạt được mục tiêu này, việc xây dựng hoàn thiện và áp dụng chính xác
pháp luật hình sự được đặt ra như là một trong những yêu cầu cấp thiết của việc
khẳng định và bảo vệ quyền con người. Qua thực tiễn nghiên cứu cũng như thi hành
Bộ luật hình sự, mặc dù đã đạt được những thành tựu mang ý nghĩa tích cực trong

công tác phòng, chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, tuy nhiên thực tế đã
chỉ ra nhiều vướng mắc, thiếu sót cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Đặc biệt,
chúng ta có thể đề cập đến chế định trách nhiệm hình sự như là một trong ba chế
định quan trọng nhất bên cạnh tội phạm và hình phạt. Cụ thể, qua công tác nghiên
cứu lý luận luật hình sự cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, quy định
pháp luật hình sự nước ta còn thiếu quy định hoặc quy định chưa rõ về nhiều vấn
đề liên qua đến chế định vừa đề cập ở trên như: khái niệm về trách nhiệm hình sự,
cơ sở của trách nhiệm hình sự, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, quy định về trách nhiệm hình sự pháp nhân... Thêm vào đó,
công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự trong thời gian qua chưa
được quan tâm đúng mức nên một số quy phạm pháp luật hình sự, trong đó có các
quy phạm của chế định trách nhiệm hình sự, còn có những nhận thức không thống
nhất, gây khó khăn cho việc vận dụng pháp luật trong hoạt động thực tiễn.
Vì vậy, xuất phát từ những nguyên nhân kể trên, ta thấy được việc nghiên
cứu cụ thể vấn đề: “Bảo vệ quyền con người bằng các quy định về trách nhiệm
hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” là vô cùng cần thiết. Công tác nghiên cứu
góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng pháp luật đặc biệt là trong lĩnh vực
tư pháp hình sự và cụ thể là trong chế định về trách nhiệm hình sự. Từ đó, giúp cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ sở để tăng cường tính hiệu lực, hiệu qua trong
thực tế công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người trong
tình hình hiện nay.

7


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu khoa học về vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình
sự nói chung, trong đó có đề cập đến một số nội dung bảo vệ quyền con người
thông qua các quy định về TNHS là vấn đề quan trọng và cần thiết. Với vị trí đặc
biệt ấy, vấn đề này cần được xem xét một cách tổng thể, với sự tham khảo có chọn

lọc nhiều quan điểm, công trình nghiên cứu của các tác giả, với nhiều góc nhìn khác
nhau. Khi nghiên cứu về vấn đề TNHS, ít nhiều các tác giả đã đề cập đến phần nào
những nội dung liên quan đến quyền con người. Bởi, trách nhiệm hình sự là vấn đề
liên quan trực tiếp đến số phận pháp lý của một người. Do đó, trong quá trình
nghiên cứu, chúng ta không thể không đề cập đến những công trình nghiên cứu về
trách nhiệm hình sự.
Nhìn chung, trách nhiệm hình sự là một vấn đề khoa học phức tạp và nhận
được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài nước. Qua nghiên
cứu những công trình khoa học vô cùng có giá trị của GS. TSKS Lê Văn Cảm và
GS. TSKH Đào Trí Úc, người viết được tiếp cận với nhiều công trình nghiên cứu về
chế định này của các học giả của Liên Xô cũ, tiêu biểu trong số đó phải đề cập đến:
Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Xô Viết
của Brainhin Ia. M (năm 1963); Nhân thân người phạm tội và trách nhiệm hình sự
của Leikina N. X (năm 1968); Trách nhiệm hình sự và cấu thành tội phạm của
Karpusin M. P., Kurlianđxki V. I ( năm 1974); Trách nhiệm hình sự và hình phạt
của Bagri-Sakhmatov L. V ( năm 1976); hay Những vấn đề lý luận của trách nhiệm
hình sự của Xantalov A. I ( năm 1982)...
Ở nước ta, hiện nay khi nghiên cứu về chế định trách nhiệm hình sự nói riêng
và bảo vệ quyền con người bằng các quy định về trách nhiệm hình sự nói riêng ít
nhiều đã được đề cập đến tại các công trình đáng chú ý sau:
* Sách chuyên khảo, tham khảo và đề tài khoa học:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền, (Sách chuyên khảo) Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần

8


chung), (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; TS. Trần Quang
Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam,

(Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; GS.TSKH Lê Văn Cảm,
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai
đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QL. 04.03, Hà Nội, 2006...
* Cấp độ các bài viết, chúng ta có thể tham khảo một số ấn phẩm như:
GS.TSKH Lê Văn Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người
bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, các số: 11
(6/2006), 12 (6/2006), 13 (7/2006); 14 (7/2006); GS.TSKH Lê Văn Cảm, Bảo vệ
quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự - ý nghĩa của việc nghiên cứu, đăng
trên Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26 (2010); PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học, (Kinh tế - Luật),
số 23 (2007); Nguyễn Ngọc Chí - Trần Thu Hạnh. Hoàn thiện chế định TNHS - Yếu
tố quan trọng để xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 18 ; Trịnh Quốc Toản. Vấn đề TNHS pháp
nhân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 19 (2013); Hoàn thiện quy phạm về trách
nhiệm hình sự - yếu tố cơ bản và quan trọng nhất trong việc bảo vệ con người bằng
pháp luật hình sự ( Tạp chí Tòa án nhân dân các số 2,3,4 năm 1990); Đinh Thế Hưng,
Bảo vệ quyền con người bằng các nguyên tắc chuyên biệt của Luật hình sự,
, đăng ngày 17/3/2012...
Những tài liệu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về việc bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật hình sự nói chung và bảo vệ quyền con người bằng
các quy định về Trách nhiệm hình sự nói riêng. Những công trình trên đã nêu lên
những bình luận sắc sảo, giải quyết được phần nào những bức xúc về lý luận cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, qua công tác tham khảo cho thấy,
vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua các quy định của Bộ luật hình sự về trách

9



nhiệm hình sự là một vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng, nội dung nghiên cứu vẫn
còn là một đề tài tranh luận sôi nổi và chưa có sự đồng thuận từ các nhà khoa học.
Với tình hình đó, đề tài “Bảo vệ quyền con người bằng các quy định về trách
nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam” sẽ được nghiên cứu ở cấp độ luận
văn thạc sỹ một cách tương đối toàn diện, đảm bảo tính khoa học, logic và không
trùng lặp với những công trình đã được công bố.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi
của nó - Bảo vệ các quyền con người bằng các quy định về TNHS trong luật hình sự
Việt Nam. Tuy nhiên, bảo vệ quyền con người bằng các quy định về TNHS là
một đề tài vô cùng rộng lớn, cần phải nghiên cứu nhiều nội dung, từ nhiều khía cạnh
khác nhau, mà chỉ một công trình ở cấp độ cao hơn mới có thể, thể hiện được đủ
những đòi hỏi đó. Còn ở cấp độ luận văn thạc sĩ này, với trình độ có hạn, tác giả chỉ
dừng lại ở việc đề cập, nghiên cứu một cách tương đối có tính hệ thống một số nội
dung mà theo tác giả cho là chủ yếu đối với vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng
các quy phạm về TNHS được quy định trong phần chung và một số quy định trong
phần các tội phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
* Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý
luận và một phần nhỏ những vấn đề về thực tiễn bảo vệ các quyền con người bằng
các quy định về TNHS trong Phần chung và một số quy định trong phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. Luận văn đi sâu nghiên cứu sự bảo vệ
quyền con người thể hiện qua các quy định về trách nhiệm hình sự nói chung được
quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 và không đi
sâu vào nghiên cứu những vấn đề liên quan đến các yếu tố tăng nặng hay giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự do đây là nội dung thuộc một chế định khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ khái niệm, đặc điểm quyền cơ bản của con
người được bảo vệ thông qua các chế định về trách nhiệm hình sự trong pháp luật
hình sự. Đồng thời, người viết đi sâu phân tích tính nhân đạo của pháp luật hình


10


sự Việt Nam được thể hiện thông qua các quy định này. Trên cơ sở ấy, căn cứ vào
xu thế hội nhập, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực tiễn bảo vệ
pháp luật ở nước ta để đưa ra những đề xuất, giải pháp bảo đảm thực hiện, góp phần
hoàn thiện quy định về Trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam theo
hướng bảo vệ quyền con người.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Về lý luận: Trên cơ sở những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), có liên hệ với những quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015 trong các quy định về trách nhiệm hình sự phân tích khái niệm, bản
chất của các các quy định này để làm sáng tỏ ý nghĩa của sự bảo vệ quyền con
người.
- Về thực tiễn: Thông qua những ví dụ cụ thể, người viết đánh giá sự bảo vệ
quyền con người bằng quy định về Trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong Bộ
luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009). Từ đó, đóng góp một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về trách nhiệm hình sự theo hướng bảo
vệ quyền con người.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, về đấu tranh phòng chống tội phạm, trên cơ sở chính sách hình sự
của Nhà nước Việt Nam.
* Về phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương
pháp: Tổng hợp, phân tích, so sánh, lôgic, thống kê, tham khảo ý kiến các chuyên gia
về hình sự cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.


11


6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Đã khái quát một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền
con người bằng quy định về trách nhiệm hình sự trong các văn bản quy phạm pháp
luật Việt Nam.
- Có những phân tích, đánh giá ý nghĩa và hiệu lực của những quy định về
TNHS trong công tác bảo vệ quyền con người.
- Phân tích rõ nội dung bảo vệ quyền con người của từng chế định về lý luận
cũng như thực tiễn.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn tình hình bảo vệ quyền con người bằng những
quy định về TNHS trong Bộ luật hình sự năm 1999; thực tiễn áp dụng pháp luật và
chỉ ra những khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật.
- Đề xuất những giải pháp mang tính đồng bộ và toàn diện góp phần nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền con người bằng quy định về TNHS.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa về mặt lý luận
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, người viết đã phân tích và chỉ
ra một số nội dung bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm về TNHS
trong Phần chung và một số điều trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự, mà
theo tác giả cho là chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất. Đồng thời, đưa ra một số
kiến nghị, nhằm khắc phục phần nào những hạn chế còn tồn tại trong những quy
định của pháp luật thực định, hướng tới tăng cường bảo vệ các quyền con người.
* Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Cùng với ý nghĩa về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu, nhận ra một số tồn
tại, trong hoạt động thực tiễn,xét về bình diện bảo vệ các quyền con người bằng các
quy định về TNHS, đưa ra căn cứ và giải pháp nhằm khắc phục phần nào tồn tại và
hạn chế, nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ các quyền con người. Ngoài ra, luận

văn còn có ý nghĩa trong hoạt động nghiên cứu khoa học đối với các luật gia, học
viên, sinh viên chuyên ngành tư pháp hình sự, kể cả những người làm công tác thực
tiễn trong lĩnh vực tư pháp - hình sự, như trong hoạt động tố tụng hình sự.

12


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo vệ quyền con người bằng quy định về
TNHS trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Bảo vệ quyền con người bằng quy định trong Bộ luật hình sự Việt
Nam.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc áp dụng những
quy định về trách nhiệm hình sự vào công tác bảo vệ quyền con người.

13


Chƣơng 1: Những vấn đề chung về bảo vệ quyền con ngƣời bằng quy
định về TNHS trong luật hình sự Việt Nam
1.1 Khái niệm Trách nhiệm hình sự và khái niệm Quyền con ngƣời
1.1.1 Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của chế định trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự
Để hiểu rõ khái niệm trách nhiệm hình sự là gì, trước hết, ta cần định nghĩa
được thế nào là trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm là "điều phải làm, phải gánh vác
hoặc nhận lấy về mình" [19, tr 1621]. Trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ trách nhiệm
được hiểu theo một số cách như sau. Thứ nhất, trách nhiệm là việc chủ thể phải thực
hiện những nghĩa vụ pháp lý được xác lập trong phần quy định của các quy phạm

pháp luật; hoặc đó là việc chủ thể phải thực hiện một yêu cầu của cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền nhân danh Nhà nước buộc họ phải làm một công việc nào đó. Thứ
hai, trách nhiệm là việc chủ thể phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi được
quy định trong phần chế tài của các quy phạm pháp luật khi họ thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật hoặc khi có thiệt hại xảy ra do những nguyên nhân khác được pháp
luật quy định. Với cách hiểu như vậy, trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ mật thiết
với các hành vi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý là một quan hệ đặc biệt
giữa một bên là Nhà nước và bên còn lại là các chủ thể vi phạm pháp luật. Trong
mối quan hệ này, "Nhà nước có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế có tính
chất trừng phạt được quy định trong các chế tài của quy phạm pháp luật đối với chủ
thể vi phạm pháp luật và chủ thể đó có nghĩa vụ gánh chịu hậu quả bất lợi do hành
vi của mình gây ra" [34]. Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi vi
phạm pháp luật, các mối quan hệ được các ngành luật tương ứng điều chỉnh cũng
như tầm quan trọng của các khách thể được từng ngành luật điều chỉnh, chúng ta có
các loại trách nhiệm pháp lý như sau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hành chính và trách nhiệm pháp lý kỷ luật. Trong phạm vi nội dung luận văn,
người viết chỉ đề cập đến chế định "trách nhiệm hình sự".
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý
bất lợi mà một người phải gánh chịu trước nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm

14


tội của mình. Hành vi phạm tội có thể là các hành vi vi phạm những điều pháp luật
hình sự cấm, hoặc không thực hiện những nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện; từ đó
gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Nhà nước quy định TNHS để áp dụng đối với
người phạm tội theo một thủ tục duy nhất là thủ tục tố tụng hình sự. Việc áp dụng
thủ tục này không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người phạm tội, hoặc ý
muốn của người bị hại (trừ một số trường hợp đặc biệt được quy định tại những

điều khoản mang tính chất loại trừ được ghi nhận riêng biệt và cụ thể). Trách nhiệm
hình sự phát sinh từ khi có hành vi phạm tội, từ thời điểm đó Nhà nước có quyền
yêu cầu người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
Qua công tác tham khảo, nghiên cứu cho thấy, chế định trách nhiệm hình sự
là một vấn đề lý luận phức tạp. "Hiện nay giữa các nhà khoa học còn tồn tại nhiều
quan điểm khác nhau" [20, tr.41]. Chúng ta có thể nêu ra ra một số quan điểm nổi
bật như sau. Theo GS.TSKH. Đào Trí Úc định nghĩa: “TNHS là hậu quả pháp lý
của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành
vi của mình trước Nhà nước [20, tr 41]”. GS.TSKH. Lê Cảm khẳng định: “TNHS là
hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối
với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp chế của Nhà nước do Luật hình sự
quy định [23, tr.122]”. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang quan niệm: “TNHS là một dạng
trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội được quy định trong PLHS bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy
thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện
[28, tr.14]”. Trong cuốn sách chuyên khảo "Tội phạm và trách nhiệm hình sự", TS
Trịnh Tiến Việt coi trách nhiệm hình sự "là một dạng trách nhiệm pháp lý và là hậu
quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng
một hay nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do Bộ luật hình sự quy định đối
với người phạm tội" [35, tr. 224]. Trong cuốn từ điển giải thích thuật ngữ luật học
(Phần luật hình sự), trách nhiệm hình sự được hiểu "là dạng trách nhiệm pháp lý
bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình

15


sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS ( hình phạt, biện pháp tư
pháp) và mang án tích" [18].
Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chế định trách nhiệm hình sự,
tuy nhiên, tựu chung lại, các quan điểm này đều có một số điểm chung thống nhất.

Từ đó ta có thể rút ra năm đặc điểm của trách nhiệm hình sự như sau. Thứ nhất,
TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất phản ánh sự lên án của Nhà
nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội thể hiện thông qua những biện pháp
cưỡng chế về hình sự - bao gồm hình phạt và các biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế
một hay một số quyền, lợi ích hợp pháp áp dụng với đối tượng này. Thứ hai, TNHS
là hậu quả pháp lý bất lợi, là hệ quả tất yếu của việc thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định là tội phạm trong pháp luật hình sự. Thứ ba, TNHS được
xác lập bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành buộc một người phải chịu trách nhiệm về
hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Thứ tư, TNHS là trách nhiệm mà người phạm
tội phải chịu trước Nhà nước chứ không phải với đối tượng bị hành vi phạm tội của
người này xâm hại; vì vậy TNHS chỉ được giới hạn trong phạm vi quan hệ pháp
luật hình sự giữa hai chủ thể vừa nêu trên. Thứ năm, TNHS mang tính quyền lực
nhà nước, theo đó, chỉ có Nhà nước mới có quyền buộc người phạm tội phải chịu
TNHS thông qua bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật – việc phải chịu TNHS
của một người là chịu trách nhiệm trước nhà nước, phản ánh sự phủ định của Nhà
nước với các hành vi phạm tội, thể hiện sự lên án của cả cộng đồng xã hội chức
người phạm tội không phải chịu trách nhiệm trước bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.
* Vai trò của chế định TNHS trong luật hình sự Việt Nam
Tội phạm và trách nhiệm hình sự là cặp phạm trù có mối quan hệ logic, biện
chứng, là hai chế định trung tâm của pháp luật hình sự. Việc xác định tội phạm và
TNHS trong một ngành luật riêng biệt là sản phẩm tất yếu của quá trình vận động
xã hội. Theo đó, sự tư hữu xuất hiện dẫn đến hệ quả xã hội bắt đầu phân chia giai
cấp, từ đây, những hành vi nguy hại với tính chất, mức độ nguy hại cao, hậu quả để

16


lại sâu rộng, ảnh hưởng lớn đến đời sống đã phát sinh mà những quy phạm đạo đức
hay phong tục tập quán trước đây không còn đủ khả năng điều chỉnh. Do đó, yêu

cầu đặt ra là những hành vi ấy cần được điều chỉnh trong một hệ thống pháp luật
với các phương thức xử lý nghiêm khắc hơn, nhằm tiến tới đẩy lùi sự vi phạm,
thông qua đó hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả xấu do hành vi phạm tội
đem lại. Việc áp dụng chế tài pháp lý hình sự đối với các hành vi nêu trên trước hết
là sự lên án của Nhà nước với người phạm tội. Nhà nước là đại diện của nhân dân,
đại diện cho toàn xã hội, vì vậy, sự lên án của nhà nước đồng thời cũng là thái độ
phản đối của cả cộng đồng, xã hội với những người phạm tội. Một người thực hiện
tội phạm có thể phải chịu TNHS thông qua việc thực thi bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của tòa án với nội dung buộc họ phải chấp hành hình phạt hoặc các
biện pháp tư pháp hình sự khác. Tòa án là cơ quan đại diện thực thi quyền lực nhà
nước buộc người phạm tội phải chịu những sự tác động nhất định về pháp lý hình
sự. Tòa án đưa ra các quyết định, bản án xác định TNHS có hiệu lực pháp luật nhằm
trừng trị những người phạm tội. Sự trừng trị ấy không chỉ là biện pháp giáo dục đặc
biệt giúp người phạm tội nhận ra sai lầm của mình, mà còn là biện pháp răn đe hiệu
quả đối với những công dân khác trong xã hội. Thông qua việc buộc những người
phạm tội này phải chịu TNHS, Nhà nước hướng đến mục tiêu cuối cùng là hướng
họ trở lại làm người có ích cho xã hội, xây dựng cho họ ý thức tôn trọng pháp luật
và các quy tắc đời sống xã hội, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội sau khi đã bị trừng
phạt. Đây là mục tiêu cuối cùng, là kết quả mà mọi Nhà nước đều mong muốn đạt
được khi tiến hành xử lý tội phạm và người phạm tội. Điều đó cho thấy bản chất
nhân đạo và tính hướng thiện của pháp luật hình sự hiện đại. Trên cơ sở tổng hợp
đầy đủ những căn cứ, điều kiện, Nhà nước xác định TNHS một cách công minh,
công bằng sẽ là tiền đề vững chắc để giáo dục người phạm tội có thể trở lại với cuộc
sống lương thiện. Bên cạnh đó, đối tượng tác động của TNHS còn là tất cả các
thành viên khác trong xã hội. Nếu như TNHS tác động trực tiếp đến người phạm tội
thì đối với những thành viên khác trong xã hội đó là sự tác động mang tính gián
tiếp. Sự tác động ấy là tác động vào tâm lý của các thành viên còn lại trong xã hội,

17



đặc biệt là nhóm người đang có thái độ tâm lý chưa vững vàng, đang đứng trước
nguy cơ trở thành người phạm tội. Việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự sẽ
làm những đối tượng này thấy được hậu quả tất yếu mà mình phải gánh chịu khi
thực hiện hành vi phạm tội. Qua đó, làm cho những người này từ bỏ ý định phạm
tội và lựa chọn cách xử sự phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, tránh việc lựa
chọn xử sự phạm tội. Các quy định về trách nhiệm hình sự còn góp phần xây dựng
một bộ khung cho những xử sự của con người trong đời sống, từng bước nâng cao ý
thức pháp luật cho nhân dân, nâng cao tính tích cực của nhân dân trong công cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm; góp phần từng bước tăng cường hơn nữa công tác
bảo vệ quyền con người.
* Ý nghĩa của việc ghi nhận chế định TNHS trong luật hình sự Việt Nam:
Với vị trí và vai trò quan trọng nêu trên chúng ta có thể thấy được ý nghĩa to
lớn của chế định TNHS. Chế định TNHS là một bộ phận quan trọng cấu thành nên
pháp luật hình sự. Chế định trách nhiệm hình sự ra đời dựa trên các quan điểm, chủ
trương, đường lối của giai cấp cầm quyền phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa xã
hội, truyền thống pháp lý và thực tiễn đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở
mỗi quốc gia. Thông qua đó, phản ánh sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với các
hành vi phạm tội, là sự phủ định lại những hành vi mang tính chất nguy hiểm xâm
hại đến các khách thể được pháp luật hình sự xác lập và bảo vệ. Nói cách khác,
TNHS là một công cụ hữu hiệu góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của xã hội và mỗi công dân. Chế định TNHS góp phần xác định chính
xác hậu quả pháp lý của đối tượng phạm tội, đảm bảo công bằng, nhân đạo và đặc
biệt là không để xảy ra tình trạng oan – sai trong quá trình tố tụng. Qua đó cho thấy
trước hết là sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác đấu tranh, xử lý tội phạm và
các vi phạm pháp luật khác. Các quy định cụ thể về TNHS góp phần thể hiện hàng
loạt các nguyên tắc của luật hình sự trong đó có những nội dung liên quan trực tiếp
đến việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Một mặt, xử lý nghiêm minh đúng
pháp luật các hành vi vi phạm và người vi phạm. Mặt khác, chế định góp phần hạn
chế tối đa những sự xâm hại đến các quyền con người, quyền công dân gây ra bởi


18


các cơ quan và người thực thi pháp luật. Trách nhiệm hình sự cần được áp dụng
đúng người, đúng tội, đúng mức độ vi phạm và theo trình tự tố tụng chính xác. Từ
đây, chúng ta từng bước xây dựng được niềm tin của từng công dân và toàn xã hội
đối với sự nghiêm minh, công bằng và nhân đạo của pháp luật; từng bước hạn chế
tiến tới loại trừ những hành vi xâm hại đến quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự. Thêm nữa, chế định trách nhiệm hình sự nói riêng và toàn hệ thống tư pháp
hình sự nói chung còn góp phần nâng cao hiểu biết và nhận thức về pháp luật, góp
phần xây dựng văn hóa pháp lý, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Cuối cùng, xây dựng và hoàn thiện chế định TNHS còn là sự thể
hiện chính xác những nguyên tắc và giá trị cao cả của quyền con người vào từng
quy phạm pháp luật thực định.
1.1.2 Quyền con người và các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người
Quyền con người là khát vọng và thành quả đấu tranh của toàn nhân loại qua
các giai đoạn phát triển; là thước đo, là giá trị chung đánh giá mức độ văn minh của
một quốc gia. Quyền con người là một vấn đề khá phức tạp, liên quan đến nhiều
lĩnh vực như đạo đức, chính trị, pháp lý... Xét về ý nghĩa, bên cạnh thuật ngữ
“quyền con người”, có một thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng, đó là “nhân
quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ "human rights" - chúng
ta có thể được dịch là quyền con người (theo nghĩa thuần Việt) hoặc nhân quyền (
theo nghĩa Hán - Việt). Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền” chính là “quyền
con người”. Như vậy, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa, do đó,
chúng ta có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu cũng như trong thực tiễn.
Mặc dù có quá trình hình thành và phát triển lâu đời nhưng hiện nay, khái
niệm quyền con người vẫn được xác định là phức tạp với nhiều cách hiểu khác
nhau. Trong tiến trình lịch sử ấy, quyền con người được tiếp cận với nhiều trường
phái và môn học khác nhau. Với nội hàm rộng và có tính chất tổng hợp, đa ngành,

chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người. Ở mỗi định
nghĩa quyền con người được tiếp cận theo những khía cạnh riêng. Theo một tài liệu
của Liên hợp quốc, từ trước đến nay "có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người

19


đã được công bố" [54, Tr. 4] đã cho thấy đây là hướng nghiên cứu nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới. Khi nghiên cứu về quyền con
người , có hai trường phái nổi bật là trường phái quyền tự nhiên và trường phái
quyền pháp lý, với sự góp mặt của nhiều học giả nổi tiếng.
Các tác giả theo học thuyết quyền tự nhiên tiêu biểu là Thomas Hobbes, John
Locke, Thomas Paine coi "quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi
cá nhân đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại"
[13]. Mọi cá nhân sinh ra mặc nhiên đều có và đều được hưởng quyền này mà
không bị chi phối bởi bất kỳ yếu tố khách quan bên ngoài nào. Không một cá nhân
tổ chức, thiết chế xã hội nào có thể tạo ra hay phân phát quyền con người. Quyền
con người là tự nhiên vốn có, không phụ thuộc vào bất kỳ phong tục tập quán hay ý
chí của chủ thể nào; mặc dù quyền con người có liên hệ to lớn với các nhân tố vừa
nêu. Ngược lại, những học giả theo trường phái quyền pháp lý mà tiêu biểu là
Edmun Burke và Jeremy Bentham coi quyền con người "phải do các nhà nước xác
định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống
văn hóa" [13, tr. 39]. Quyền con người theo trường phái này chịu ảnh hưởng sâu sắc
của những yếu tố tác động bên ngoài, đặc biệt là ý chí của giai cấp thống trị và
những ảnh hưởng của đời sống xã hội. Hiểu theo cách này thì quyền con người ở
mỗi chế độ khác nhau sẽ có những cách hiểu, cách ghi nhận và thực thi khác nhau.
Một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc rất phổ biến thường
được trích dẫn bởi các học giả, theo đó: "Quyền con người là những bảo đảm pháp
lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến

nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người" [ 55, tr. 4]. Bên cạnh đó, nhân quyền trong tài liệu đã nêu
còn được định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con
người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người
[ 55, tr.4].

20


Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề quyền con người xuất phát
từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả
hai mặt tự nhiên và xã hội [10, tr.4]". Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con
người là "động vật xã hội" có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động
vật cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về khía cạnh này quyền con người
trước hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng vật",
do giai cấp thống trị ban phát thông qua Nhà nước mà quyền con người trong hình
thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được
sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con
người, xứng đáng với con người. Ở khía cạnh xã hội, con người chính là sản phẩm
của tiến trình lịch sử xã hội. C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội [10,tr.21]". Theo Mác: "Quyền con
người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là
thành viên xã hội loài người [11, tr. 14]". Định nghĩa quyền con người của chủ
nghĩa Mác - Lênin không phải chỉ là việc liệt kê đối với hai cách tiếp cận về quyền
con người nêu trên, mà từ phân tích cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội
của quyền con người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa
hai mặt đối lập. Phải khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác – Lênin coi "quyền con người
mang đặc tính tự nhiên nhưng có nội dung xã hội, bị chế ước bởi từng hoàn cảnh
lịch sử, từng chế độ xã hội, từng Nhà nước" [11,tr. 14].

Ở Việt Nam, trải qua quá trình đấu tranh đầy gian nan của cả dân tộc để
giành lấy độc lập được đánh dấu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, quyền con người đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp
năm 1946. Tất cả những nội dung về quyền con người này đều thể hiện được tư
tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhân quyền. Theo đó, quyền con người không
chỉ là các quyền thuộc về cá nhân, là giá trị nhân văn vốn có và thiêng liêng của mỗi
người, mà đó còn là giá trị văn hóa của cộng đồng, dân tộc, quốc gia - dân tộc.
Quyền con người gắn chặt với các quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ

21


quyền quốc gia, là bộ phận không thể tách rời của tiến trình phát triển của đất nước.
Quyền con người cơ bản này bao gồm quyền được tồn tại (quyền sống), độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã trở thành một phạm trù phổ quát của
luật quốc tế hiện đại. Điều đó cho thấy sự kế thừa một cách tinh tế và kết hợp tài
tình những giá trị nhân văn của nhân loại tiến bộ với những giá trị truyền thống của
dân tộc. Quyền con người ở nước ta được xây dựng dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, có
chọn lọc những tiêu chuẩn được cộng đồng các quốc gia tiến bộ thừa nhận rộng rãi.
Sự phát triển khái niệm quyền con người thành quyền dân tộc cơ bản của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được thể hiện sâu sắc trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945. Ở đó
đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của lý luận về quyền con người cũng như
của luật quốc tế về quyền con người khi lần đầu tiên trong lịch sử khái niệm quyền
sống, quyền tự do của các dân tộc đã được đồng nhất với quyền sống, quyền tự do
của con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 bằng những luận điểm đã
được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt

Nam, con người đã được xác định là trung tâm của mọi chính sách phát triển kinh tế
xã hội ở Việt Nam. Quan điểm mang tính chiến lược ấy về con người đã đặt ra yêu
cầu bức thiết về việc nghiên cứu quyền con người cũng như những vấn đề có liên
quan. Trải qua quá trình phát triển, quyền con được phát triển ở những bản Hiến
pháp sau này, đặc biệt là lần sửa đổi mới nhất năm 2013 gần đây, quyền con người
đã được ghi nhận tại riêng Chương 2, tại Điều 14 quy định:
"1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng "[1] .

22


Trong Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nôi, tập thể tác giả định nghĩa quyền con người là “những nhu
cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [13, tr. 38]. Ở một cuốn sách khác,
GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm quyền con người như sau: “Quyền con
người là một phạm trù lịch sử - cụ thể là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn
trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên
trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia – thành viên
Liên hợp quốc cũng như bởi cộng đồng quốc tế” [ 24, tr. 224]. TS Trần Quang Tiệp
cũng đưa ra định nghĩa về quyền con người một cách ngắn gọn, theo đó, quyền con
người “là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong
những điều kiện chính trị, văn hóa kinh tế, xã hội nhất định” [ 29, tr.14]. Một định
nghĩa được sử dụng tương đối phổ biến trong giảng dạy, nghiên cứu về nhân quyền
ở nước ta hiện nay coi: "Nhân quyền (hay quyền con người) là những năng lực và

nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân
loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế"
[17, tr. 10]. Những định nghĩa này không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung,
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp
lý quốc tế.
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai cơ sở chủ yếu là cơ
sở đạo đức và cơ sở pháp luật. Cơ sở đạo đức của quyền con người là giá trị xã hội
cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội,
tự do... Cơ sở pháp lý xác định những quyền cơ bản này thông qua việc thể chế hóa
chúng bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Qua các quan
điểm về quyền con người vừa nêu ta có thể chỉ ra một số đặc tính của quyền con

23


người như sau. Thứ nhất, tính phổ biến: tính phổ biến của quyền con người thể hiện
ở chỗ quyền con người được áp dụng chung cho tất cả mọi người, không phân biệt
màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Con người, dù ở
trong những chế độ xã hội riêng biệt, thuộc những truyền thống văn hóa khác nhau
vẫn được công nhận là con người và được hưởng những quyền và sự tự do cơ bản.
Thứ hai, tính đặc thù: Mặc dù tất cả mọi người đều được hưởng quyền con người
nhưng mức độ thụ hưởng quyền có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực cá nhân
của từng người, hoàn cảnh chính trị, truyền thống văn hóa xã hội mà người đó đang
sống. Ở mỗi vùng, mỗi quốc gia khác nhau, vấn đề quyền con người mang những
sắc thái, đặc trưng riêng gắn liền với trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực
đó. Thứ ba, tính không thể bị tước bỏ: Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người không thể tùy tiện bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Tuy nhiên, trong một

số trường hợp nhất định được pháp luật quy định trước, chỉ có những chủ thể đặc
biệt mới có thể hạn chế quyền con người trong một số trường hợp với các điều kiện
nhất định. Thứ tư, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quyền: Tất cả các
quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện tốt quyền này
sẽ là tiền đề để thực hiện quyền kia. Ngược lại, khi có một quyền bị xâm phạm thì
sẽ ảnh hưởng đến các quyền khác.
Từ việc nghiên cứu, tổng quát các khái niệm của các cơ quan, tổ chức, các
nhà luật học chuyên nghiên cứu về quyền con người, cũng như các văn bản luật của
quốc tế và quốc gia, người viết có thể đưa ra khái niệm về quyền con người như
sau: Quyền con người là tổng hợp những giá trị vốn có và cao quý nhất kết tinh từ
nền văn hóa của toàn thể nhân loại, là quyền mang tính chất tự nhiên – xã hội, vừa
là động lực vừa là cái đích để tất cả các dân tộc hướng tới nhằm bảo vệ và thúc đẩy
nhân phẩm và hạnh phúc con người. Có thể khẳng đinh chắc chắn rằng, quyền con
người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và mọi
giai đoạn lịch sử. Trong thời đại ngày nay, quyền con người không thể tách khỏi
hòa bình, dân chủ và phát triển.

24


* Các cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người:
Quyền con người là vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu trên
thế giới, là giá trị nhân bản cao quý nhất mà mọi quốc gia đều đề cao và bảo vệ. Dù
quyền con người được định nghĩa theo cách nào thì tựu chung lại vẫn có một mục
tiêu chung là xác lập, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Quyền con người chỉ
thực sự trở thành giá trị cao quý nhất của toàn nhân loại khi có một cơ chế bảo vệ
phù hợp, nhằm xác lập vị trí của chế định này một cách chắc chắn. Để bảo vệ quyền
con người, chúng ta cần có sự tổng hòa của rất nhiều yếu tố khách quan, chủ quan
mà trong đó, pháp luật được xác định là công cụ quan trọng nhất. Có được điều này
là bởi, pháp luật thừa nhận quyền con người như là một trong những giá trị cao quý

nhất của nhân loại, phản ánh được sự thống nhất ý chí của toàn xã hội, được toàn xã
hội ghi nhận. Từ đó, những quy phạm pháp luật cụ thể ra đời nhằm đảm bảo vị trí
tối cao và bất khả xâm phạm của quyền con người. Không chỉ ghi nhận, pháp luật
còn xác định những chế tài dành cho những hành vi xâm hại đến các quyền con
người. Khi cần thiết, Nhà nước có thể sử dụng pháp luật như một công cụ cưỡng
chế hữu hiệu đối với những sự xâm hại đến quyền con người. Bên cạnh đó, pháp
luật cũng xây dựng một khung pháp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động của các cơ
quan hữu quan nhằm phát hiện nhanh chóng và xử lý kịp thời những sự xâm hại
cũng như giới hạn hoạt động của những cơ quan này nhằm loại trừ những tác động
tiêu cực đến quyền con người. Pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước bảo vệ các
quyền con người và pháp luật cũng chính là công cụ hữu hiệu để mỗi cá nhân tự bảo
vệ mình trước mọi hành vi xâm hại, từ đó xác lập những xử sự trong một khung tiêu
chuẩn đảm bảo quyền con người. Pháp luật chính là cơ sở pháp lý cần thiết góp
phần cùng các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội khác bảo vệ quyền con người một
cách toàn diện. Ở đây pháp luật cần được hiểu theo nghĩa bao gồm cả pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế. Sau khi đã được xác định bằng những quy định cụ
thể chúng ta cần có "những biện pháp để bảo vệ các quyền khỏi bị vi phạm và thúc
đẩy sự tôn trọng và thực hiện các quyền trên thực tế" [13, tr. 327]. Từ đó, ta xác
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể cũng như cách thức thực thi những quyền

25


×