Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

BÀI tập GIỮA kì đường lối cách mạng đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.65 KB, 48 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

--------------

BÀI TẬP GIỮA KÌ
Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam
ĐỀ TÀI
1. Phân tích thực trạng của giáo dục đại học ở VN hiện nay?
2. Sinh viên cần chuẩn bị hành trang gì để khi tốt nghiệp có thể
xin được việc làm?

Giảng viên:Lê Thị Hòa
Sinh Viên:

Nhóm 9
Lớp ĐL 5_308 GĐ2

Ha Noi, 2013


Phần I. Phân tích thực trạng hệ thống giáo dục Đại
học ở Việt Nam
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là
động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu
hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến
chiến lược phát triển đất nước như vây?
- Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát
triển kinh tế.
- Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xă hội.


- Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số
phát triển con người.
Hiểu được điều này, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia rất
coi trọng sự phát triển của nền giáo dục, đã và đang củng cố xây dựng nền
giáo dục thực sự vững mạnh và có chất lượng. Vì vậy mà trong suốt những
năm qua Đảng và nhà nước đã luôn quan tâm và tập trung đầu tư rất nhiều
cho nền giáo dục Việt Nam.

I.

Hệ thống giáo dục Việt Nam

Hệ thống giáo dục này là một sự tiếp nối của hệ thống giáo dục thời
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và thừa hưởng một phần di sản của nền giáo
dục Việt Nam Cộng Hòa. Khi hai miền Nam và Bắc thống nhất năm 1976
thì khuôn mẫu giáo dục ở miền Bắc tiếp cận với hệ thống giáo dục đã được
thiết lập ở miền Nam; cụ thể nhất là học trình 10 năm tiểu học và trung học
ở miền Bắc phải điều chỉnh cho phù hợp với học trình 12 năm ở trong Nam.
Hai hệ thống này song hành; Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam
giữ hệ 12 năm từ năm 1976 đến năm 1989 thì cho áp dụng hệ 12 năm cho
toàn quốc. Năm 1975 cũng là năm giải thể tất cả những cơ sở giáo dục tư


thục từng hoạt động ở miền Nam Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng
hòa.
Giáo dục cấp nhà trẻ - mẫu giáo
Là nơi giữ trẻ không bắt buộc dành cho trẻ dưới độ tuổi đi học chính
thức (dưới 6 tuổi). Nhà trẻ và mẫu giáo dành cho trẻ dưới 6 tuổi (thậm chí
trẻ mới sinh vài tháng đã vào nhà trẻ) mục đích hình thành tư duy cho trẻ.
Tạo những thói quen, tập tính ngay trong giai đoạn này hay là nơi giúp trẻ

vui chơi để ba mẹ đi làm
Giáo dục cơ bản
Giáo dục cơ bản kéo dài 12 năm và được chia thành 3 cấp: cấp I
(tiểu học), cấp II (trung học cơ sở), và cấp III (trung học phổ thông).
Cấp tiểu học
Cấp tiểu học hay còn được gọi là cấp I, bắt đầu năm 6 tuổi đến hết
năm 11 tuổi. Cấp I gồm có 5 trình độ, từ lớp 1 đến lớp 5.
Cấp trung học cơ sở
Cấp II gồm có 4 trình độ, từ lớp 6 đến lớp 9, bắt đầu từ 11 đến 15
tuổi. Đây là một cấp học bắt buộc để công dân có thể có một nghề nghiệp
nhất định (tốt nghiệp cấp II có thể học nghề mà không cần học tiếp bậc
Trung học phổ thông).
Cấp trung học phổ thông
Học sinh phải tham gia kỳ thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông tại Việt
Nam của Bộ Giáo Dục và Đào tạo Việt Nam.Cấp III gồm 3 trình độ, từ lớp
10 đến lớp 12, bắt đầu từ 15 đến 18 tuổi.
*Giáo dục chuyên biệt
Trung tâm GDTX
Nơi phổ cập giáo dục cho tất cả các lứa tuổi
Trung học phổ thông chuyên, năng khiếu
Trường Phổ thông dân tộc nội trú.
Đây là các trường nội trú dặc biệt, có thể là cấp II hoặc có thể là cấp
III. Các trường này dành cho con em các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn về kinh tế - xã hội nhằm bồi dưỡng nguồn nhân


lực, tạo nguồn cán bộ cho các địa phương này. Học sinh được ở tại trường
và được cấp kinh phí ăn, ở.
Trường giáo dưỡng.
Đây là loại hình trường đặc biệt dành cho các thanh thiếu niên hư

hỏng, phạm tội. Trong trường, các học sinh này được học văn hoá, được
dạy nghề, giáo dục đạo đức để có thể ra trường, về địa phương sau một
vài năm. Các năm trước, các trường loại này do Bộ Công an Việt Nam
quản lý, nhưng bây giờ, Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội quản lý.
*Giáo dục sau phổ thông
Dự bị đại học. Trung cấp, dạy nghề
Cần tốt nghiệp cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông hay tương
đương để có thể học nghề, trung cấp.
Đây là chương trình học dạy nghề dành cho người không đủ điều
kiện vào đại học hoặc cao đẳng.
Cao đẳng
Cần tốt nghiệp cấp trung học cơ sở, trung cấp chuyên nghiệp, học
nghề hoặc tương đương để có thể học hay liên thông lên cấp cao đẳng.
Sinh viên phải tham gia kỳ thi tuyển sinh trực tiếp vào cao đẳng hoặc
điểm thi vào đại học thấp hơn điểm quy định nhưng lại đủ để vào cao đẳng
thì đăng ký vào học cao đẳng. Chương trình cao đẳng thông thường kéo
dài 3 năm. Tuy nhiên, một số trường cao đẳng có thể kéo dài đến 3,5 năm
hoặc 4 năm để phù hợp với chương trình học.
Cần tốt nghiệp cấp trung cấp phổ thông hay tương đương để có thể
trở thành dự bị đại học.
Các học sinh dân tộc ít người nếu không trúng tuyển vào đại học có
thể theo học tại các trường dự bị đại học. Sau một năm học tập, các học
sinh này có thể chọn một trong các trường đại học trong cả nước để theo
học (trừ Trường Đại học Ngoại thương và các trường thuộc ngành quân
sự).


Đại học
Chương trình bậc đại học của Việt Nam kéo dài từ 4 đến 6 năm; 2
năm đầu là chương trình đại học đại cương, 2 (hay 4) năm sau là chương

trình chuyên ngành. Dù là ngành gì, sinh viên phải học một số tiết về quốc
phòng an ninh.
Sau khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp bằng đại học với các tên gọi
như: cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ, nhạc sĩ,...
Tuyển sinh
Tất cả công dân tốt nghiệp trung học (trung học phổ thông hoặc trung
học chuyên nghiệp) đều được tham dự kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng
hằng năm, không phân biệt lứa tuổi, thành phần, tôn giáo, dân tộc và cả
quốc tịch nữa. Điểm thi tuyển sẽ được công bố công khai, rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Các thí sinh nếu thấy điểm của mình có
sai sót so với dự tính được quyền phúc tra xem xét lại bài. Các thí sinh nếu
đạt từ điểm chuẩn của trường đi ra trở lên được mời làm các thủ tục nhập
học.
Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng, có ưu tiên bằng cách cộng vào
tổng điểm thi một số điểm nhất định đối với các đối tượng sau: con Anh
hùng lao động, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân; của Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng; con thương binh; học sinh là người dân tộc thiểu số; học
sinh tốt nghiệp trung học tại các cùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi
khó khăn về kinh tế - xã hội; học sinh nông thôn. Dưới đây là các đối tượng
được ưu tiên:


Các đối tượng sau đây được ưu tiên xét tuyển: Học sinh đạt

giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia; tốt nghiệp trung học phổ thông loại
khá trở lên và thi phải đạt điểm sàn theo quy định của Bộ giáo dục & Đào
tạo Việt Nam.


Các đối tượng sau đây được tuyển thẳng: Anh hùng Lực


lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động đã tốt nghiệp trung học; học
sinh là thành viên đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự các kỳ thi Olympic
quốc tế hàng năm.


*Giáo dục sau đại học
Cao học
Các cá nhân sau khi tốt nghiệp đại học, có nhu cầu học cao học,
vượt qua được kỳ thi tuyển sinh cao học hằng năm sẽ được tham dự các
khoá đào tạo cao học.
Nghiên cứu sinh
Đây là bậc đào tạo cao nhất ở Việt Nam hiện nay. Tất cả các cá nhân
tốt nghiệp từ đại học trở lên đều có quyền làm nghiên cứu sinh với điều
kiện phải vượt qua kỳ thi tuyển nghiên cứu sinh hàng năm. Hiện nay, Bộ
Giáo dục và Đào tạo Việt Nam có có sự định thay đổi trong cách tuyển
chọn nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu sinh. Thời gian làm nghiên
cứu sinh thường là 4 năm với người có bằng cử nhân hay kỹ sư và 3 năm
với người có bằng thạc sĩ. Tuy nhiên, thời gian làm nghiên cứu sinh còn
phụ thuộc vào ngành học và loại hình học (học tập trung hay không tập
trung). Sau khi hoàn thành thời gian và bảo vệ thành công luận án, các
nghiên cứu sinh sẽ được cấp bằng tiến sĩ.

II.

Tình hình giáo dục Đại học ở Việt Nam hiện nay

Giáo dục có một ý nghĩa như là hướng tới tương lai tốt đẹp hơn,
văn minh hơn nên Cụ Hồ đã nhắc nhở: “Vì mục đích mười năm trồng cây,
vì mục đích trăm năm trồng người”. Những lo toan về giáo dục có thể tìm

thấy hàng ngày hiện nay trên mọi thông phương tiện thông tin đại chúng đủ
cho thấy vấn đề quan trọng như thế nào.
Hiện nay ngồi đâu, xem báo chí nào chúng ta cũng thấy sự phàn
nàn cũng như các sáng kiến về đổi mới, cải cách về giáo dục. Điều đó
không phủ nhận giáo dục Việt nam đã có những thành tựu đáng ghi nhận,
mà chỉ là phản ảnh sự lo toan đáng trân trọng trước những hiện tượng phi
giáo dục hiện nay.
Một vài ví dụ có thể minh chứng cho những thành tựu mà giáo dục
Viêt nam đạt được trong 20 năm đổi mới. Chưa bao giờ tỷ lệ người việt
nam biết ngoại ngữ cũng như sử dụng thành thạo máy tính cao như hiện
nay. Đối với thế hệ những người dưới 30 tuổi, việc hội nhập kinh tế không


làm cho họ gặp khó khăn về ngoại ngữ cũng như máy tính nếu tính theo
mức bình quân chung trong khu vực. Dù có nhiều vấn đề còn cần được
bàn thêm về cách thức, chất lượng…, người Việt nam đã tự tổ chức đào
tạo sau đại học và người nước ngoài từ nhiều quốc gia đã tham gia giảng
dạy cũng như học tập. Sự bùng nổ của các hoạt động xuất bản, sách Việt
cũng như sách dịch mà cách đây 20 năm hầu hết chúng ta không giám mơ
tới cho thấy nhu cầu học tập của người Việt nam ngày càng tăng như thế
nào...Có rất nhiều những thành tựu mà giáo dục Việt Nam đạt được trong
giáo dục trên thế giới :các cuộc thi quốc tế Việt Nam luôn được đánh giá
cao,có rất nhiều giáo sư, tiến sĩ, bác sĩ , kĩ sư giỏi…góp phần vào phát triển
đất nước.
Bên cạnh đấy giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại những điều bất
cập. Chính sách giáo dục hiện nay hầu như không tập trung vào hai vấn đề
cơ bản là giáo viên và giáo trình, mà chủ yếu chuyển gánh nặng vào vai
học trò. Chính sách đó không đúng nguyên lý được áp dụng khá phổ biến
hiện nay là điều chỉnh sự bất cân xứng thông tin để cân bằng các quan hệ
xã hội. Theo chính sách giáo dục hiện nay, người thầy có quá nhiều quyền

trong dạy học. Người thầy có quyền áp đặt sự học đối với người học bằng
cách bắt thuộc bài theo một giáo trình hay một bài giảng duy nhất. Đó là
nguyên nhân của tình trạng chữ thầy trả thầy, đồng thời cũng là nguyên
nhân chủ yếu đẫn đến sự lạm quyền, sự lười biếng, phi giáo dục của một
số giáo viên hiện nay. So với nhiều nước trên thế giới việc đầu tư hỗ trợ
cho giáo dục ở nước ta vẫn còn rất hạn chế do kinh phí chưa có nên nhiều
trường học không có đủ các phương thiết bị học tập điều này cũng ảnh
hưởng không nhỏ đối với chất lượng học sinh, sinh viên hiện nay….Ngoài
ra còn rất nhiều tiêu cực như việc bằng giả, quay cop trong thi cử, hối lộ
hay vấn đề bạo lực trong học đường …đã có nhiều những khoảng tối trong
nền giáo dục hiện nay của nước ta.
Thông qua việc tìm hiểu hệ thống giáo dục và tình hình giáo dục
nước ta nói chung ta có thể hiểu được rõ hơn nền giáo dục của nước
ta.Qua đó đưa ra những cách nhìn nhận đúng đắn về giáo dục Việt Nam.


III.

Số lượng các Trường Đại học –Cao đẳng ở Việt Nam hiện
nay

Nhiều người cho rằng tình trạng tuyển sinh khó khăn là hậu quả của
việc mở trường tràn lan. 412 trường ĐH, CĐ cho 90 triệu dân Việt Nam là
nhiều hay là ít? So với Trung Quốc có hơn 4.000 trường ĐH, CĐ trên 1,3 tỉ
dân, so với Singapore có khoảng 68 trường ĐH, CĐ trên 3 triệu dân (bao
gồm cả các trường nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Singapore, các
trường liên kết quốc tế, các viện nghiên cứu đào tạo cấp bằng cử nhân và
sau ĐH); so với Hoa Kỳ có 4.495 trường ĐH, CĐ trên 314 triệu dân... thì số
trường ĐH, CĐ mà Việt Nam đang có không phải là nhiều.
*Phân loại trường:

-Đại học công lập.
-Đại học dân lập.
-Đại học tư thục
*Loại hình tổ chức:
-Chính quy
-Vừa học vừa làm
-Liên thông
-Ngăn hạn
-Liên kết đào tạo
*Cơ sở vật chất:
-Tỷ lệ bình quân diện tích sử dụng của sinh viên Việt Nam nói chung
chỉ đạt 3.6 m2/ sinh viên, trong khi quy định chung ở Việt Nam là 6m2/sinh
viên và ở các nước phát triển là 9-15m2/sinh viên
-Hiện nay ở nhiều trường , khu vực học tập của sinh viên hầu hết
trong tình trạng lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng. Nhiều trường Đại học
vẫn phải thuê cơ sở bên ngoài làm nơi học tập hoặc bắt sinh viên học tăng
ca do thiếu giảng đường.


-Hầu hết các thiết bị thực hành , thí nghiệm đều đã lạc hậu và
xuống cấp. Tài liệu phục vụ cho nghiên cứu ,giảng dạy cũng thiếu thốn rất
nhiều.
*Quy mô đào tạo:
-Quy mô đào tạo đang được mở rộng quá sức khiến chất lượng
giảng dạy giảm sút.
*Giảng viên:
-Hiện nay có khoảng 84000 giảng viên ,bình quân mỗi năm tăng
3000 giảng viên. Tuy nhiên tỷ lệ sinh viên / giảng viên vẫn cao hơn so vs
các nước khác( 26 sinh viên/ giảng viên).
- Việc mở rộng quá sức quy mô đào tạo cũng khiến các giảng viên

phải giảng dạy quá nhiều, không đủ thời gian cho việc tự học, tự bồi
dưỡng, tham gia nghiên cứu và triển khai hoạt động khoa học & công nghệ.
- Việc chuẩn bị về trình độ chuyên môn và ngoại ngữ của giảng viên
các trường đại học, cao đẳng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được các
yêu cầu tuyển chọn của các đề án đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật ở
nước ngoài.
*Sinh viên:
-Số lượng đông, khoảng 2 204 000 sinh viên.
-Nhiều sinh viên kĩ năng chuyên môn , kĩ năng mềm còn kém, chưa
đáp ứng được cho thị trường .
*Chương trình giảng dạy:
- Quá dài: thời gian học 4 năm trên lớp là khoảng 2183h, nhiều hơn
60% so với chương trình giảng dạy của Mỹ.
-Tất cả các môn đều mang tính bắt buộc,sinh viên không được
quyền lựa chọn.
- Còn mang tính lí thuyết, chưa bám sát thực tế.

IV.

Thực trạng hệ thống giáo dục Đại học ở Việt Nam hiện
nay
1. Hình thức giáo dục Đại học:


a/ Đào tạo trình độ cao đẳng: gồm các loại hình đào tạo cao đẳng
(kỹ thuật-công nghệ, nghiệp vụ, nghề) đào tạo nhân lực thực hành nghề
nghiệp đa dạng ở trình độ cao đẳng được thực hiện từ 1 đến 3 năm học tuỳ
theo ngành nghề đào tạo. Đào tạo sau trung học lĩnh vực kỹ thuật, công
nghệ và dạy nghề ở trình độ cao đẳng được tách khỏi giáo dục đại học và
là trình độ cao nhất trong hệ thống dạy nghề;

b/ Đào tạo trình độ đại học: gồm các loại hình đào tạo cử nhân đại
học theo các chuyên ngành được thực hiện từ 1 đến 6 năm, tuỳ theo ngành
nghề đào tạo và bằng tốt nghiệp của người học;
c/ Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
d/ Đào tạo trình độ tiến sĩ: Thực hiện từ 4 đến 5 năm đối với người
có bằng tốt nghiệp đại học và từ 2 đến 3 năm đối với người có bằng thạc
sĩ;
e/ Đào tạo sau tiến sĩ: các khóa đào tạo-nghiên cứu sau tiến sĩ
( Post-Doctor) cấp các chứng chỉ chuyên sâu cao cấp theo các lĩnh vực
khoa học và kỹ thuật, công nghệ và có giá trị trong quá trình lấy các chứng
nhận, chức danh nghề nghiệp như: Trợ lý giáo sư, Phó giáo sư, nghiên cứu
viên cao cấp v.v... Về công tác quản lý giáo dục đại học, với các trường đại
học, cao đẳng công lập trực thuộc các Bộ, tỉnh, thành phố trước mắt Bộ
chủ quản, tỉnh, thành phố vẫn phối hợp vối Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý
nhà nước như hiện nay. Tuy nhiên cần phân cấp quản lý triệt để cho nhà
trường theo đúng sứ mệnh, chức năng và nhiệm vụ. Đảm bảo cho các
trường này có quyền tự chủ và thực hiện được trách nhiệm xã hội của
mình; Với các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập cần giao cho các
tỉnh, thành phố (trực thuộc địa phương) quản lý.Tỉnh và thành phố có trách
nhiệm phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để quản lý nhà nước như hiện
nay. Tuy nhiên cần phân cấp quản lý triệt để cho nhà trường theo đúng sứ
mệnh, chức năng và nhiệm vụ. Đảm bảo cho các trường này có quyền tự
chủ và thực hiện được trách nhiệm xã hội của mình.
2. Quy mô và Phân loại


Hiện nay trong cả nước có 146 trường đại học và cao đẳng (2);
trong đó, có 15 trường dân lập (do tư nhân quản lý), và ba trường bán
công. Số trường này được tổ chức theo 11 khối như sau: đại học quốc gia

và đại học vùng; khối kỹ thuật & xây dựng; khối y dược khoa; khối sư
phạm; khoa học tự nhiên; nông lâm nghiệp & thủy sản; kinh tế, tài chính và
luật; văn hóa nghệ thuật và thể thao; quân sự và công an; ngoại giao; và
các trường dân lập.
2.1.

Các Đại học quốc gia

Việt Nam có 2 đại học quốc gia, nằm ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh; hai đại học này cũng là đại học trọng điểm quốc
gia. Người đứng đầu của đại học quốc gia gọi là Giám đốc, người đứng
đầu của một trường đại học thành viên gọi là Hiệu trưởng. Mỗi đại học
quốc gia có các khoa và trường đại học thành viên phân chia theo lĩnh vực
và ngành nghề đào tạo.


Đại học Quốc gia Hà Nội, các khoa, trường, khoa trực thuộc

1.

Khoa Luật

2.

Khoa Quản trị Kinh doanh

3.

Khoa Quốc tế


4.

Khoa Y Dược

5.

Trường Đại học Công nghệ

6.

Trường Đại học Giáo dục

7.

Trường Đại học Kinh tế

8.

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

9.

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

sau:

10.Trường Đại học Ngoại ngữ


Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, các trường, khoa


trực thuộc:
1.

Khoa Y

2.

Trường Đại học Kinh tế - Luật

3.

Trường Đại học Bách khoa


4.

Trường Đại học Công nghệ Thông tin

5.

Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

6.

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

7.

Trường Đại học Quốc tế


Các đại học và trường đại học cấp vùng
Các đại học và trường đại học cấp vùng cũng có các thành viên trực
thuộc là các khoa và/hoặc các trường đại học (3 đại học vùng được giao
quyền tự chủ như các đại học quốc gia).Người đứng đầu của một đại học
vùng gọi là giám đốc; trong khi người đứng đầu của một trường đại học
cấp vùng gọi là hiệu trưởng.Các (trường) đại học cấp vùng này thường
nằm tại các khu vực kinh tế động lực của một vùng có nhiều các khu công
nghiệp, đô thị. Lưu ý: Các tên in đậm là đại học trọng điểm quốc gia.


Trường Đại học Tây Bắc: Trường đại học cấp vùng, ở miền núi

Tây Bắc Việt Nam.


Đại học Thái Nguyên: Đại học vùng, ở Vùng trung du và miền

núi phía Bắc Việt Nam, có trụ sở chính tại Thái Nguyên, gồm các thành
viên:
1.

Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông

2.

Trường Đại học Khoa học

3.


Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh

4.

Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp

5.

Trường Đại học Nông Lâm

6.

Trường Đại học Sư phạm

7.

Trường Đại học Y Dược

8.

Khoa Ngoại ngữ

9.

Khoa Quốc tế…



Trường Đại học Vinh: Trường đại học cấp vùng, ở Bắc Trung


bộ Việt Nam.


Đại học Huế: Đại học vùng Bắc Trung bộ Việt Nam, có trụ sở

chính tại thành phố Huế, đại học trọng điểm quốc gia, gồm các thành viên:
1.

Khoa Luật


2.

Khoa Du lịch

3.

Khoa Giáo dục thể chất

4.

Phân hiệu Đại học Huế tại Quảng Trị

5.

Trường Đại học Khoa học

6.

Trường Đại học Kinh tế


7.

Trường Đại học Nghệ thuật

8.

Trường Đại học Ngoại ngữ

9.

Trường Đại học Nông Lâm…



Đại học Đà Nẵng: Đại học vùng duyên hải Nam Trung bộ và

Tây Nguyên, có trụ sở chính tại Đà Nẵng, đại học trọng điểm quốc gia, gồm
các trường, khoa trực thuộc sau:
1.

Khoa Y Dược

2.

Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum

3.

Trường Đại học Bách khoa


4.

Trường Đại học Kinh tế

5.

Trường Đại học Ngoại ngữ

6.

Trường Đại học Sư phạm

7.

Trường Cao đẳng Công nghệ Đà Nẵng

8.

Trường Cao đẳng Công nghệ Thông tin



Trường Đại học Quy Nhơn: Trường đại học (cấp) vùng duyên

hải Nam Trung bộ, Việt Nam.


Trường Đại học Tây Nguyên: Trường đại học (cấp) vùng Tây


Nguyên, Việt Nam.


Trường Đại học Cần Thơ: Trường đại học (cấp) vùng Tây Nam

bộ, Việt Nam.
2.2.

Các trường đại học và học viện quân sự

Hiện nay ở Việt Nam có tất cả 22 trường đại học quân sự đào tạo sĩ
quan cho tất cả các ngành, cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng Việt
Nam. Trong đó có 20 trường tuyển học sinh phổ thông và hạ sĩ quan, binh
sĩ.Học viện Quốc phòng ở Hà Nội chỉ tuyển sinh các sĩ quan đã tốt nghiệp
các trường, học viện quân sự cấp trung. Học Viện Lục quân Đà Lạt chỉ


tuyển sinh các sĩ quan đã tốt nghiệp các trường Đại học Trần Quốc Tuấn,
Đại học Nguyễn Huệ, tăng - thiết giáp, công binh, pháo binh, phòng hóa,
thông tin, đặc công.
Các trường quân sự do Bộ Quốc Phòng phối hợp với Bộ Giáo dục và
Đào tạo quản lý, chỉ đạo về mặt nội dung chương trình đào tạo. Sinh viên
muốn dự thi vào các trường này cần phải đạt các tiêu chuẩn về sức khoẻ,
lý lịch.Ngoài ra, một số học viện có đào tạo hệ dân sự, phục vụ quá trình
phát triển của đất nước.Các sinh viên hệ dân sự phải đóng tiền học và
không phải đạt các tiêu chuẩn về sức khoẻ, chính trị.

2.3.

Các trường đại học và học viện công an


Các trường công an đào tạo sỹ quan công an. Các trường này cũng
mang tính chất đào tạo đặc thù riêng để phù hợp với ngành Công an. Các
trường công an do Bộ công an, mà trực tiếp là Tổng cục Xây dựng Lực
lượng Công an Nhân dân quản lý. Muốn được theo học tại các trường
công an, thí sinh cũng phải đạt được những tiêu chuẩn về thể chất và
phẩm chất chính trị. Hiện nay, mới chỉ có Trường Đại học Phòng cháy
Chữa cháy đào tạo hệ dân sự ngành Kỹ sư An toàn Phòng cháy Chữa
cháy.
1.

Học viện An ninh Nhân dân

2.

Học viện Cảnh sát Nhân dân

3.

Trường Đại học An ninh Nhân dân

4.

Trường Đại học Cảnh sát Nhân dân

5.

Trường Đại học Phòng cháy Chữa cháy

6.


Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Công an Nhân dân

Các trường đại học theo ngành dân sự
Gồm các trường đại học, học viện trực thuộc cùng lúc bộ giáo dục và
bộ ngành đào tạo, hoặc tổ chức, đoàn thể...
2.4.
1.

Các trường đại học công lập
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội


2.

Trường Đại học Công đoàn

3.

Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải

4.

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

5.

Trường Đại học Công nghiệp Quảng Ninh

6.


Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh

7.

Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí

8.

Trường Đại học Công nghiệp Việt Hung

9.

Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì

10.

Trường Đại học Dược Hà Nội……

2.5.

Các học viện

1.

Học viện Âm nhạc Huế

2.

Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam


3.

Học viện Báo chí và Tuyên truyền

4.

Học viện Chính sách và phát triển

5.

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

6.

Học viện Xây dựng Đảng

7.

Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

8.

Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông

9.

Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cơ sở 2, Thành phố

Minh


Hồ Chí Minh
10.

Học viện Hàng không Việt Nam

11.

Học viện Hành chính

12.

Học viện Hành chính cơ sở 2, Thành phố Hồ Chí Minh

13.

Học viện Khoa học xã hội

14.

Học viện Kỹ thuật Mật mã

15.

Học viện Ngân hàng

16.

Học viện Ngoại giao Việt Nam


17.

Học viện Phụ nữ Việt Nam

18.

Học viện Quản lý Giáo dục

19.

Học viện Tài chính


20.

Học viện Thanh thiếu niên

21.

Học viện Tư Pháp

22.

Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam

23.

Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh

V.


So sánh giáo dục Đại học ở Việt Nam so với các nước có
nền giáo dục tiên tiến

Trong một nền kinh tế toàn cầu có tính cạnh tranh cao trong Thế kỷ
21, trí tuệ là một nguồn nội lực cực kỳ quan trọng. Vì thế, ngày nay, người
ta thường hay nói nhiều đến một cuộc chạy đua về tri thức, bởi vì nước
nào không huy động được nguồn nội lực trí tuệ, nước đó sẽ bị lệ thuộc vào
trí tuệ của người khác và lại rơi vào tình trạng tụt hậu, nô lệ tri thức.
Các nước Tây phương, mà đặc biệt là Mỹ đang dẫn đầu cuộc chạy
đua về tri thức này. Các nước Tây phương đã sớm nhận ra vai trò của giáo
dục và đào tạo trong nền kinh tế và đã dày công xây dựng hệ thống giáo
dục đại học từ mấy trăm năm qua. Và cho đến nay, mặc dù. đã đạt được
một vị thế hàng đầu, họ vẫn không ngừng tìm cách phát triển giáo dục đại
học. Nhưng khác với các nước đang phát triển nhìn giáo dục như là một
đòn bẩy phát triển kinh tế và xã hội, họ thấy giáo dục là một phương tiện
chiến lược để duy trì sự thống trị của họ trên trường quốc tế.
Ðối với nước Mỹ, sau cuộc khủng hoảng dầu hỏa và sự cạnh tranh
công nghiệp gay gắt tiếp theo đó, các nhà lãnh đạo chính trị và kinh tế đã
nhận ra rằng họ đang bị mất dần sự độc quyền về công nghiệp nặng và kỹ
nghệ xe hơi; do đó, muốn duy trì uy thế tối cao của họ trước đây, họ cần
phải nắm độc quyền những "kỹ nghệ tri thức" (knowledge-based industries)
như kỹ nghệ máy tính, điện tử, không gian, thông tin viễn liên, và công
nghệ sinh học. Những kỹ nghệ này đặt trọng tâm vào nguồn vốn trí tuệ, mà
đại học là nguồn cung cấp chính. Ðại học, từ đó, trở thành một bộ phận của
guồng máy kinh tế mà trước đây họ chưa bao giờ nghĩ tới.


Không chỉ có Mỹ mà Pháp cũng rất chú trọng tới giáo dục Đại học.
Dưới đây là sự cụ thể hóa cho hệ thống giáo dục của Việt Nam với các

nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới: Việt Nam với Mỹ và Pháp.
a. Việt Nam và Mỹ
-Chương trình học ở Việt Nam quá dài :
Thời gian học 4 năm ở lớp tại Việt Nam là 2183 giờ so với 1380 giờ
ở Mỹ. Như vậy chương trình ở Việt Nam dài hơn gần 60%. Điều này có thể
là do thiếu sách vở nên thầy phải vào lớp đọc cho trò chép hoặc là quán
tính từ quá khứ để lại. Với thời gian ngồi lớp như vậy, học sinh sẽ còn ít thì
giờ để tự học, nghiên cứu.
- Chương trình ở Việt Nam không phải là dậy nghề cũng không phải
là đào tạo một người có kiến thức sâu và tính sáng tạo:
Chương trình học kinh tế đòi hỏi 1451 giờ học kinh tế so với ở Mỹ chỉ
đòi hỏi tối thiểu là 480 giờ (tức là 1/3 chương trình đại học), như vậy đòi hỏi
học các môn kinh tế gấp 3 lần số giờ ở đại học Mỹ. Nhìn chương trình
giảng dậy ở Đại học kinh tế thành phố HồChíMinh ta thấy, học sinh trong 4
năm phải học gần như tất cả mọi thứ trên đời về kinh tế mà nhà trường có
thể nghĩ ra được, từ các môn cơ bản như kinh tế vi mô và vĩ mô, đến các
môn như kinh tế lao động, quản trị xí nghiệp, kế toán, địa lý kinh tế, luật
kinh tế, dân số họ, chính sách thương mại, kinh tế tài nguyên và môi
trường, phân tích dự án kinh tế, thị trường chứng khoán, v.v. Đây là những
môn ít khi dậy ở cấp đại học 4 năm và có dậy thì chỉ là những môn để học
sinh có thể chọn lựa, và đây cũng là những môn mà trường đại học có thầy
đã và đang nghiên cứu chuyên sâu. Đòi hỏi mỗi thứ một tí, học sinh không
có khả năng hoặc thì giờ đi sâu vào bất cứ vấn đề gì và chắc chắn là thầy
cũng chỉđọc sách nói lại mà không hiểu thầy có hiểu không nữa. Theo các
tài liệu giáo khoa của trường thì nội dung rất là rất nặng lý thuyết mà nhiều
phần học sinh ở Mỹ chỉ học trong chương trình sau cử nhân. Như vậy
trường chỉ nhằm nhồi sọ kiến thức lý thuyết kinh tếnhưng sự phân chia chi
li các lớp học thì lại có vẻ thực dụng như dậy nghề.



- Chương trình ở Việt Nam không trang bị cho học sinh những kiến
thức cơ bản và toàn diện khoa học tự nhiên, nhân văn, văn chương và
nghệ thuật; không có một lớp nào về phương pháp nghiên cứu và viết luận
văn Chương trình ở Mỹ (ở các đại học danh tiếng) đòi hỏi học sinh phải
học một chương trình cơ bản dù là học ngành gì từ khoa học cơ bản, khoa
học ứng dụng, xã hội hoặc nhân văn. Đây chính là chương trình thể hiện
mục đích đào tạo những cá nhân có tri thức cơ bản, có phương phát suy
nghĩ và phân tích các vấn đề, có khả năng viết luận văn nghiên cứu.
Chương trình cơ bản bắt buộc này cũng chiếm 1/3 thời gian học 4 năm
như thời gian tối thiểu dành cho ngành học chính.
-Ở Đại học Việt Nam tất cả các môn có tính bắt buộc, học sinh không
có quyền tự chọn, ngược lại ở Mỹ học sinh có quyền tự chọn đến 1/3 thời
gian học dù học bất cứ ngành chính nào (như toán, vật lý, hoá học, kinh tế,
tâm lý, văn chương):
Việc tự chọn là rất quan trọng để học sinh mở mang kiến thức về
nhiều ngành học khác nhau. Việc hiểu biết liên ngành này cho phép học
sinh hợp tác nghiên cứu liên ngành, phân tích và nhìn vấn đề không bị cục
diện, bó hẹp vào chuyên môn của mình. Học sinh Đại học với quyền tự
chọn có thể chọn hai ngành chuyên môn, hoặc một ngành chính và một
ngành phụ. Sau khi ra trường, họ có thể làm việc ở nhiều chuyên môn khác
nhau chứ không bị bó vào ngành chuyên môn duy nhất mà mình học ở
trường, kể cả thay đổi hoàn toàn để theo một ngành khác. Triết lý giáo dục
ở Mỹ cho phép và trang bị cho sinh viên thực hiện việc đổi ngành mà không
bị hụt hẫng.
-Chương trình về chủ nghĩa Marx – Lenin, chính trị chủ nghĩa xã hội,
lịch sử Đảng chiếm 203 giờ, bằng 9% chương trình, quá nặng và cũng là lý
do làm tăng số giờ giảng dậy lên tới 2184: So với tổng giờ học thì việc dạy
chính trị Marx – Lenin bằng 9%, không phải là quá nhiều, nếu như đấy là
triết học, chính trị học, luân lý, xã hội học và mỹ học duy nhất cần biết.
Nhưng nếu học sinh cần được trang bị thêm về chính trị và triết học khác



thì số giờ có thể cắt bớt. Nếu giả thử nhà nước không muốn cắt thì việc
canh tân chương trình vẫn có thể thực hiện được.
b.Việt Nam và Pháp
-Giáo dục đại học ở Pháp được đặc trưng bởi sự đa dang và chất
lượng của các chương trình đào tạo. Uy tín bằng cấp của Pháp được xây
dựng trên một mạng lưới các cơ sở đào tạo và trung tâm nghiên cứu nổi
tiếng thế giới: trên 3000 cơ sở đào tạo trên khắp nước Pháp. Giáo dục
nước Pháp được đánh giá là nền giáo duc theo hướng tinh hoa chọn lọc vì
học sinh đang học phổ thông đã có ngã rẽ cho con đường học tập.
-GDĐH Pháp là nền giáo dục có từ lâu đời, là nền giáo dục có uy tín
trên thế giới. Trong khi giáo dục nước tar a đời cũng không phải là quá
muộn so với các nước khác nhưng đó là một sự chắp vá, sự kế thừa của
nhiều hệ thống giáo dục khác như Pháp, Mỹ, Liên Xô và cho đến nay hệ
thống đó không còn phù hợp nữa .
- Về mục tiêu đào tạo ĐH ở Pháp đặt ra cao hơn một bậc so với mục
tiêu đào tạo của nước ta. Mục tiêu của Pháp không chỉ dừng ở chỗ chỉ năm
vững kiến thức như của ta mà là phát triển nghiên cứu, và ứng dụng vào
để phát triển kinh tế, và phải làm sao cho mọi người phải tiếp cận được với
sự phát triển của văn hóa và của khoa học công nghệ.
-Phải nói rằng hệ thống bằng cấp của đào tạo đại học của Pháp rất
đa dạng và phức tạp, có nhiều giai đoạn học khác nhau, mỗi giai đoạn lại
có nhiều hướng khác nhau. Điều này đôi khi gây khó khăn cho sinh viên
mới chọn vào nghành muốn học. Nhưng nó đem lại những lợi ích cho
những người sử dụng lao động; những sinh viên có định hướng đi cho
cuộc đời của mình; góp phần Vào tiết kiệm chi phí đào tạo vì nếu sinh viên
chỉ muốn học ra để đi làm thì họ đăng ký vào những hướng để ra đi làm họ
sẽ không phải bỏ nhiều thời gian và tiền bạc để học những phần lý thuyết.
Ở nước ta hệ thống văn bằng tương đối đơn giản hơn. Do đó sinh viên

không có nhiều lựa chọn nghề nghiệp theo hướng nghiên cứu hay là
hướng thực hành điều đó cũng một phần ảnh hưởng đến chất lượng lao
động của nước ta.


- Về trình độ giảng viên của nước ta còn quá thấp so với trình độ
giảng viên của Pháp. Điều này đã làm cho chất lượng đào tạo ở nước ta
không thể đạt chuẩn so với khu vực và thế giới. Điều này đã chứng minh
qua việc bằng cấp mà nước ta đào tạo không được công nhận ở nhiều
nước trên thế giới.
-Về chế độ chính sách cho sinh viên ở nước ta chưa thể cao bằng
hính sách mà nhà nước Pháp dành cho sinh viên của họ. Vì do kinh tế
nước ta chưa thể phát triển bằng Pháp nên ta cũng chưa có thể có ngân
sách để miễn học phí cho tất cả các sinh viên học trường công lập. Ở nước
ta sinh viên cũng có thể vay tiền để theo học đại học nhưng con số này rất
khiêm tốn trong khi chính sách này đối với sinh viên nước ngoài thoáng
hơn.
- Tỉ lệ ngân sách đầu tư cho giáo dục nước ta không phải là thấp.
Nhưng do tổng thu nhập nước ta chưa cao nên số tiền đầu tư cho giáo dục
chưa thể sánh bằng một nước phát triển như Pháp. Nhưng một thực trạng
đáng buồn ở nước ta là nhà trường chưa thể tận dụng tối ưu kinh phí do
nhà nước cấp

VI.

Nguyên nhân và giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại
tiêu cực trong nền giáo dục Đại học Việt Nam

(*) Nguyên nhân
-Một là các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng trong giáo dục ĐH chưa

cụ thể và không rõ ràng, chưa có qui định cụ thể về kiến thức, kỹ năng
cũng như thái độ cần thiết cho từng trình độ đào tạo.
-Hai là hoạt động đánh giá và kiểm định các điều kiện đảm bảo chất
lượng vẫn đang ở giai đoạn đầu còn gặp nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ
chuyên gia có kinh nghiệm.
-Ba là chưa chú trọng đến nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong các
trường ĐH, nguồn lực dành cho đào tạo sau ĐH và nghiên cứu khoa học
quá ít ỏi, sử dụng thiếu hiệu quả, phân bổ theo chỉ tiêu đầu vào. Nhiều đề
tài khoa học và công nghệ chỉ dừng lại ở kết quả nghiên cứu lý thuyết,
không có điều kiện chế tạo thử và đưa vào sản xuất.


-Bốn là thiếu các nhà khoa học đầu ngành trong các trường ĐH.
Nhiều nhà khoa học hàng đầu đã đến tuổi nghỉ hưu, số còn lại đang làm
việc thì quá bận với hoạt động giảng dạy và quản lý, giảng viên trẻ thiếu
động lực trong nghiên cứu khoa học.
-Năm là hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học trong
giáo dục ĐH còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được các chương trình
nghiên cứu với sự tham gia hợp tác của các nhà khoa học nước ngoài.
-Sáu là các điều kiện đảm bảo chất lượng còn nhiều hạn chế. Đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ
và chưa đồng bộ về cơ cấu. Chương trình đào tạo, nội dung giảng dạy
chưa được đổi mới và cập nhật thường xuyên. Phương pháp giảng dạy và
học tập chưa phù hợp với điều kiện giảng dạy ĐH.
-Và cuối cùng: cơ chế tài chính, đầu tư cơ sở vật chất và chế độ học
phí còn bất cập. Hệ thống giảng đường, phòng thí nghiệm và trang thiết bị
phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của các trường còn thiếu, nghèo
nàn và lạc hậu. Hệ thống thư viện nhà trường nhỏ bé, không cung cấp đủ
thông tin, sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo cho nhu cầu ngày càng cao
của giảng viên,sinh viên

(*) giải pháp
Thứ nhất, xây dựng một chiến lược và triết lý giáo dục riêng. Hiện
nay, trên thế giới có ba mô hình giáo dục đại học lớn cần phải tham khảo
trong quá trình xây dựng chiến lược giáo dục đại học ở Việt Nam: một là,
mô hình kiểu Đức là nơi tạo dựng và phổ biến tri thức; hai là, mô hình kiểu
Pháp là nơi đào tạo người lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu
của phát triển và sử dụng nguồn nhân lực; ba là, mô hình kiểu Mỹ là tôi
luyện bản lĩnh sống cho tầng lớp trẻ, tôn trọng sự phát triển nhân cách cá
nhân, trung thực, không ngừng đổi mới. Theo chúng tôi, mỗi một mô hình
trên đều có những mặt tích cực có thể áp dụng, nhưng hoàn toàn không
thể rập khuôn máy móc khi tạo dựng triết lý cho giáo dục đại học hiện nay.
Nên chăng, nền giáo dục đại học ở Việt Nam cần hướng tới việc phổ biến,


ứng dụng và hiện thực hóa các tri thức khoa học, rút ngắn khoảng cách “độ
chênh về chất lượng”.
Thứ hai, cơ cấu lại ngành học cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn
phát triển của đất nước. Hiện nay, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng miền đang có sự mất cân đối. Việc tăng quy mô đào tạo hiện vẫn
chủ yếu diễn ra ở bậc đại học; số học sinh, sinh viên theo học các ngành kỹ
thuật, công nghệ ở bậc cao đẳng và trung học chuyên nghiệp còn thấp và
tăng chậm. Dường như trong những năm qua chúng ta chỉ chú trọng vào
những ngành học có vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận cao, chẳng hạn Luật, Kinh
tế, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin…, mà chưa thực sự đầu tư thích đáng
vào nhóm các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật công nghệ cao. Để hướng
tới một nền giáo dục bền vững, chúng ta phải có một chiến lược dài hạn,
đầu tư có trọng điểm vào những ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn,
đồng thời phải biết lựa chọn và thu hút được những sinh viên ưu tú, áp
dụng những chương trình tiên tiến của thế giới vào giảng dạy để đạt hiệu
quả cao. Chỉ có như vậy, chúng ta mới thực sự “đi tắt, đón đầu” và theo kịp

được với sự phát triển của khoa học – công nghệ tiên tiến hiện nay.
Thứ ba, cải cách hành chính và trao quyền tự chủ cho các trường đại
học. Đổi mới tư duy giáo dục đại học trong quản lý nhà nước để tiến đến
trao quyền tự chủ, gắn với tự chịu trách nhiệm cao của các trường đại học
chính là động lực của phát triển. Đó là yêu cầu tất yếu từ chính các trường
đại học trong cả nước hiện nay, như quyền tự chủ tài chính, nhân sự, công
tác tuyển sinh và nhất là xây dựng chương trình. Bởi, với chủ trương “đào
tạo theo nhu cầu” thì việc xây dựng chương trình phải xuất phát từ nhu cầu
của xã hội. Chỉ có như vậy, các trường đại học mới có thể tự quyết định
trong đầu tư cơ sở vật chất và chuyên môn hoá sâu về lĩnh vực đào tạo
của mình. Chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt của các cơ sở đào tạo đại
học phải dựa trên năng lực và hiệu quả công việc của từng cá nhân. Chất
lượng đào tạo của các trường đại học là một tiêu chí đáng tin cậy cho mức
độ phát triển của nền kinh tế. Hiện nay, các trường đại học của Việt Nam
chưa đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và chưa


có một trường đại học nào được các tổ chức kiểm định quốc tế thừa nhận.
Nếu như không có các biện pháp cấp thiết để cải cách giáo dục đại học thì
nước ta khó có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, thực hiện đồng bộ và nghiêm chỉnh công tác kiểm định chất
lượng đại học. Đã gần 3 năm qua, từ khi Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ
trương buộc các cơ sở đào tạo bậc đại học, cao đẳng phải công bố chuẩn
đầu ra, như người học hiểu biết gì, có kỹ năng gì, có năng lực hành vi như
thế nào, có thể đảm đương được công việc gì trong xã hội?… Nhưng cho
đến nay vẫn chưa có một trường đại học, cao đẳng nào thỏa mãn được bộ
tiêu chí trên. Vì vậy, chúng ta chưa có đủ cơ sở để đánh giá chất lượng
giáo dục của các trường một cách khách quan, toàn diện.
Từ thực tế trên cho thấy, việc thiết lập bộ tiêu chuẩn chất lượng

trường đại học và thực hiện nó là một yêu cầu bắt buộc đối với giáo dục đại
học Việt Nam hiện nay. Bởi nó chính là cơ sở để đánh giá kiểm định chất
lượng của một trường đại học hiện đại. Có được một bộ tiêu chuẩn chất
lượng minh bạch để quản lý các trường đại học thực sự là một bước đột
phá trong tiến trình phát triển của giáo dục đại học Việt Nam.
Thứ năm, kiên quyết ngừng các cơ sở đào tạo đại học không đạt
chuẩn. Trong những năm gần đây, do xuất phát từ mong muốn chủ quan là
phát triển đại học nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, song sự mở rộng quá nhanh quy mô đào
tạo lại không đi liền với việc đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực. Có
những trường đại học khi có quyết định thành lập và bắt đầu đi vào đào tạo
nhưng cơ sở vật chất lại chưa đáp ứng yêu cầu tối thiểu của một cơ sở
đào tạo đại học như báo chí đã nêu trong thời gian vừa qua. Như vậy, hiện
tượng mở trường tràn lan, những điều kiện vật chất không được đảm bảo,
đội ngũ giảng viên vừa thiếu, vừa yếu cũng là một nguyên nhân khiến chất
lượng đào tạo đại học ở nước ta ngày càng giảm sút.
Sự phát triển và thịnh vượng của mỗi quốc gia hiện nay phụ thuộc
trực tiếp vào quy mô và chất lượng của giáo dục đại học. Hầu hết các quốc


gia có thu nhập thấp và đang phát triển hiện nay đang đứng trước rất nhiều
nguy cơ, trong đó có nguy cơ tụt hậu xa hơn về giáo dục đại học so với
nhóm các nước phát triển. Trách nhiệm này đặt trên vai các nhà hoạch định
chiến lược giáo dục đại học. Giáo dục đại học Việt Nam phải thực sự góp
phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Tóm lại, Giáo dục đã, đang, và sẽ là một chỉ tiêu quyết định sự
khác biệt giữa các quốc gia, và giữa cá nhân. Ba chức năng chính của giáo
dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực có trình độ chuyên môn cao, và
nuôi dưỡng nhân tài. Hiện nay, nền giáo dục và đào tạo ở Việt Nam chỉ mới

làm được chức năng số một, còn hai chức năng sau thì còn rất hạn chế.
Việt Nam là một nước tương đối "trẻ", vì hơn 50% dân số dưới 25 tuổi. Nền
giáo dục phải làm sao trang bị cho lực lượng lao động này những kiến thức
chuyên môn cần thiết để tạo ra một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao, để
có cơ sánh vai với các nước tiên tiến trong vùng và trên thế giới.
Mặc dù, đã có nhiều tiến bộ, nhưng nói chung, trình độ dân trí của
nước ta còn rất thấp so với các nước đã phát triển trên thế giới và một số
nước đang phát triển trong vùng. Do đó, để tránh tình trạng bị nô lệ về tri
thức, Việt Nam cần phải có một chiến lược giáo dục khả thi nhằm trang bị
những tri thức hiện đại và nâng cao trình độ học vấn của dân chúng để Việt
Nam có thể chuẩn bị cho công cuộc công nghiệp hóa trong vòng vài thập
niên tới. Thiết nghĩ không có cách gì khác là Việt Nam phải, dùng chữ của
một nhà giáo trong nước, "chấn hưng toàn diện, cải cách mạnh mẽ, hiện
đại hóa" nền giáo dục.
Ở các nước Tây phương, những vấn đề này được coi là một sự
khủng hoảng. Ở Việt Nam, có thể nói một cách ngắn gọn và dứt khoát
rằng: thực trạng giáo dục là một trong những vấn đề lớn nhất, nghiêm trọng
nhất của xã hội hiện nay. Trong khi trên thế giới người ta không ngừng cải
tiến và hoàn thiện hệ thống giáo dục, ở nước ta hệ thống giáo dục vừa lạc


hậu, vừa cổ lỗ mà vẫn dẫm chân tại chỗ, vẫn thản nhiên bình chân như vại!
Không có vấn đề gì đáng lo lắng hơn cho tương lai của đất nước khi một
nền giáo dục như thế lại được duy trì hết thế hệ này sang thế hệ khác.
Do nền giáo dục như vậy, đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sinh
viên của nước ta. Và chính xác hơn thì sự tụt hậu về kiến thức của sinh
viên so với các tiêu chuẩn chất lượng là khá lớn. Sinh viên ra trường chưa
đảm nhận được công việc mà đáng lẽ những người được đào tạo như thế
phải làm được, vì thiếu ý thức chủ động trong làm việc, thiếu khả năng ứng
xử trong làm việc, thiếu năng khiếu về ngoại ngữ và quản lý, v.v... Một viên

chức người Việt thuộc Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
nhận xét: "Hệ thống GD-ÐT lâu nay của Việt Nam còn bất cập. Tỷ lệ người
được đào tạo ra đạt tiêu chuẩn quốc tế là rất ít. Mọi việc cứ diễn ra một
cách bình thường. Chỉ khi nào những tiêu chuẩn quốc tế được "soi" vào,
chúng ta mới giật mình. Thực tế là khi soi vào tiêu chuẩn của UNDP, hàng
loạt cán bộ chuyên viên của Việt Nam đã không đáp ứng được điều kiện
cần và đủ". Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Ðào tạo ở trong nước, hàng
năm có khoảng 20.000 sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng. Trong số
này, chỉ có 50% sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp;
và trong số tìm được việc, chỉ có 30% tìm được việc đúng ngành nghề.
Ngay cả những sinh viên đã tìm được việc làm, họ đều phải được huấn
luyện lại, nhất là ở các công ty ngoại quốc. Theo nghiên cứu của bà
Maureen Chao thuộc Trường Ðại học Seattle (Mỹ), trong nhiều công ty liên
doanh với Việt Nam, hầu hết sinh viên Việt Nam đều phải được đào tạo lại
cả về chuyên môn lẫn kỹ năng giao tiếp!
Ngay khi tốt nghiệp ra trường, các bạn sinh viên hăm hở bước vào
cuộc sống mới, với hy vọng sớm tìm được công việc và ổn định cuộc sống.
Thế nhưng cầm tấm “bằng đẹp” chưa hẳn là sẽ tìm được việc tốt. Vậy sinh
viên cần chuẩn bị những hành trang gì để khi tốt nghiệp có thể xin được
việc làm tốt?


×