Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú theo pháp luật việt nam hiện nay từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.32 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SƠN THÀNH

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ LƯU TRÚ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SƠN THÀNH

ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ LƯU TRÚ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN MINH ĐỨC



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
được sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Minh Đức. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những số liệu
trong bài phục vụ cho việc phân tích, đánh giá được thu thập từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, Luận văn còn
sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ
quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có
bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận
văn của mình
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Sơn Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ LƯU TRÚ...........................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú...6
1.2. Cơ cấu pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú.......................15
1.3. Các yêu cầu đối với pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú. .24
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ
lưu trú.............................................................................................................. 27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH
DOANH DỊCH VỤ LƯU TRÚ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................................................33
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú. 33

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
tại thành phố Đà Nẵng.....................................................................................50
2.3. Những ưu điểm và hạn chế, bất cập về điều kiện kinh doanh dịch vụ
lưu trú tại thành phố Đà Nẵng.........................................................................63
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH DỊCH VỤ
LƯU TRÚ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG............................67
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng......................................................................67
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ
lưu trú từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng...........................................................69
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ
lưu trú từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng...........................................................70
KẾT LUẬN.................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam. Chiến
lược phát triển ngành du lịch của Việt Nam đã đề ra những mục tiêu đến năm
2020 “Phát triển khu vực dịch vụ hiệu quả, đạt chất lượng và năng lực cạnh tranh
quốc tế, phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng lớn, có sức cạnh tranh và
giá trị gia tăng cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đảm bảo tăng trưởng bền vững và dần tứng bước chuyển sang nền kinh tế tri
thức”. Từ đó có thể thấy dịch vụ có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia. Nhu cầu du lịch phát triển với tốc độ nhanh, đòi hỏi ngành du
lịch phát triển với tốc độ nhanh hơn với tốc độ tăng của GDP, trong đó, hệ thống
kinh doanh dịch vụ lưu trú giữ một vị trí quan trọng. Kinh doanh dịch vụ lưu trú
mang lại nhiều lợi ích kinh tế thông qua việc tác động mạnh đến lĩnh vực lưu

thông phân phối sản phẩm hàng hóa được sản xuất và lưu thông trong vùng.
Dịch vụ lưu trú phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành kinh tế trên địa
bàn, góp phần khai thác các tài nguyên du lịch, làm tăng thu nhập quốc dân, thúc
đẩy kinh tế địa phương phát triển, nâng cao đời sống văn hóa xã hội. Để một cá
nhân hay tổ chức có thể kinh doanh dịch vụ lưu trú thì trước hết phải đáp ứng
được các điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú theo luật định.
Trong các thành phố du lịch thì Đà Nẵng được xem là một điểm đến lý
tưởng với những điều kiện thiên nhiên ưu đãi, có các tiềm năng thế mạnh về phát
triển kinh tế du lịch, dịch vụ nghỉ dưỡng và các lễ hội văn hóa lớn. Hằng năm,
Đà Nẵng thu hút một lượng lớn khách du lịch tới tham quan và nghỉ dưỡng. Do
đó, cùng với sự phát triển của ngành du lịch Đà Nẵng thì ngành nghề kinh doanh
dịch vụ lưu trú cũng chiếm một vị thế rất quan trọng đối với

1


sự phát triển của ngành du lịch. Có thể nói hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú
còn mang tính tự phát và pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế vướng mắc ở vấn đề về điều kiện kinh doanh. Từ quy định pháp luật cho
tới việc thực tiễn triển khai áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, chưa có sự thống
nhất, gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh trong quá trình thực hiện, cơ
quan chuyên môn khó theo dõi, do đó cần có những quy định pháp luật hợp lý,
hiệu quả thực thi cao hơn để phù hợp với thể chế kinh tế thị trường trong xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng" để nghiên cứu và làm luận văn thạc sĩ. Đây là một đề tài có
tính cấp thiết trong hoạt động cạnh tranh về dịch vụ du lịch đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ trong thành phố Đà Nẵng cũng như trong cả nước và có xu
hướng ngày càng quốc tế hóa cao.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn về kinh doanh dịch vụ du lịch nói chung
cũng như pháp luật về điều kiện kinh doanh dich vụ lưu trú nói riêng mà trong
những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như:
- Luận án tiến sĩ (2012), “Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệp của một số nước Đông Á và gợi ý
chính sách cho Việt Nam” của Nguyễn Trùng Khánh, Học viện khoa học xã
hội.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế (2018), “Điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ
hành theo pháp luật Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Minh Thảo, Học
viện khoa học xã hội.
- Luận văn thạc sĩ luật kinh tế (2018), “Điều kiện kinh doanh dịch vụ
du lịch theo pháp luật việt Nam từ thực tiễn Ninh Bình” của Hoàng Thị Tâm,


Học viện khoa học xã hội.
- Luận văn thạc sĩ luật học (2017), “Xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự từ
thực tiễn tỉnh Bến Tre” của Cao Thị Nguyên, Học viện khoa học xã hội.
Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu liên quan đến dịch vụ
lưu trú ở thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện về lý luận và thực tiễn dưới
góc độ khoa học kinh tế chính trị. Vì vậy, sự lựa chọn đề tài "Điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng" là cần thiết và không trùng lặp với các công trình khoa học đã
được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch ở Đà Nẵng hiện nay, luận văn đã đề
xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh
dịch vụ lưu trú trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và khảo

sát thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng nhằm đảm bảo sự phát triển lâu dài cho ngành kinh doanh
dịch vụ lưu trú tại thành phố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú; Khảo sát, đánh giá thực trạng pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của pháp luật hiện hành
và tổ chức thực hiện pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú; Đề xuất
quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về
điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp
luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú, thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt
động kinh doanh dịch vụ lưu trú trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Trong đó, dịch
vụ lưu trú giới hạn và loại trừ hoạt động cung cấp cơ sở lưu trú dài hạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định về điều kiện kinh doanh dịch
vụ lưu trú tại Luật Du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc hội thông qua ngày
19/06/2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành kết hợp với việc nghiên cứu thực
trạng áp dụng pháp luật hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian 2018-2019 là chủ yếu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn vận dụng lý luận về kinh tế chính trị của chủ nghĩa MácLenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước và thành phố Đà Nẵng vào phát triển dịch vụ du lịch cũng
như phát triển dịch vụ lưu trú. Đồng thời, kế thừa những kết quả nghiên cứu về
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ lưu trú của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm:
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh để hoàn thành luận văn.
Phương pháp tổng hợp và phân tích: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận cũng như thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú ở Đà
Nẵng


Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê các văn bản quy phạm pháp
luật, các tài liệu liên quan đến đề tài.
Phương pháp so sánh: So sánh việc áp dụng các quy định pháp luật với
thực trạng áp dụng pháp luật tại các cơ sở lưu trú trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu giúp người đọc tiếp cận và đánh giá điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú dưới góc độ pháp luật và thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn này có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người muốn
tìm hiểu về pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú và thực tiễn thi
hành.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn về lý luận về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu
trú
Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu
trú và thực tiễn áp dụng tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về điều
kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú tại thành phố Đà Nẵng



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN KINH DOANH
DỊCH VỤ LƯU TRÚ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của điều kiện kinh doanh dịch
vụ lưu trú
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
Hiện nay, đời sống của nhân dân được nâng cao rất nhiều. Du lịch đã được
ghi nhận như là một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người,
kéo theo đó là nhu cầu du lịch phát triển với tốc độ nhanh, đòi hỏi ngành du lịch
phát triển với tốc độ nhanh hơn với tốc độ tăng của GDP, trong đó có hệ thống
kinh doanh dịch vụ lưu trú giữ vị trí quan trọng.
Kinh doanh dịch vụ lưu trú mang lại nhiều lợi ích kinh tế thông qua việc
tiêu dùng của khách du lịch. Kinh doanh dịch vụ lưu trú tác động mạnh đến lĩnh
vực lưu thông phân phối sản phẩm hàng hóa được sản xuất và lưu thông trong
vùng, nhờ đó có tác động sâu sắc đến những lĩnh vực khác của quá trình tái sản
xuất xã hội. Đồng thời, hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú có tác động làm
biến đổi cán cân thu chi tại địa phương nơi có khách du lịch là người nước ngoài
hay trong nước đến, với lượng tiền tệ tiêu dùng đem theo. Trong điều kiện hội
nhập khu vực và quốc tế, ngoài đối tượng du lịch thuần túy còn có số đông
khách công vụ và thương gia đến tìm kiếm cơ hội làm ăn. Đối tượng này có nhu
cầu đặc biệt cao về công nghệ thông tin, các điều kiện và phương tiện thanh toán
hiện đại cũng như kết cấu hạ tầng thuận lợi, ảnh hưởng đối với các ngành viễn
thông, ngân hàng, thương mại, xây dựng, văn hóa,… cũng hết sức to lớn. Nhờ
đó góp phần làm sống động kinh tế vùng du lịch, kích thích sự tăng trưởng kinh
tế ở các vùng sâu, vùng xa, ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của những
ngành kinh tế như công nghiệp,



nông nghiệp và dịch vụ. Khách du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa, vật tư được phục
vụ với chất lượng cao, phong phú về chủng loại và hình thức đẹp, hấp dẫn. Do
đó, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo cải tiến, phát triển
các loại hàng hóa, bắt buộc phải đầu tư điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú như
đầu tư trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay nghề
cao… đáp ứng được nhu cầu của du khách. Điều này chính là cơ hội và cũng là
thách thức lớn đối với những chủ đầu tư và cả những người có ý định phát triển
trong ngành kinh doanh dịch vụ lưu trú.
Để hiểu rõ về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú, trước hết cần làm rõ
một số khái niệm sau:
- Dịch vụ lưu trú
Du lịch được xem là ngành kinh tế dịch vụ, do nhà cung cấp dịch vụ du
lịch tương tác, đáp ứng nhu cầu cho khách du lịch, là tổng hợp các điều kiện, các
hiện tượng và các mối quan hệ tác động qua lại giữa khách du lịch với các nhà
cung cấp các sản phẩm du lịch, với chính quyền và cộng đồng dân cư ở địa
phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách du lịch, trong đó: Khách du
lịch là chủ thể của du lịch, là đối tượng phục vụ của các ngành tham gia hoạt
động du lịch; Tài nguyên du lịch là khách thể, nơi tạo ra sức thu hút con người
đến tham quan, du lịch; Các hoạt động du lịch gồm các doanh nghiệp cung ứng
các sản phẩm du lịch. Chính quyền trung ương và sở tại coi sự phát triển du lịch
là một trong những chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, xây dựng
các cơ chế, chính sách, luật pháp cho sự phát triển du lịch. Dân cư ở địa phương
coi du lịch là cơ hội để giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập và giao lưu
văn hóa.
Luật Du lịch năm 2017 quy định tại khoản 1 Điều 3 như sau: “Du lịch
là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,


nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục

đích hợp pháp khác” [27]. Từ khái niệm này cho thấy hoạt động du lịch được
giới hạn bởi mục đích tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài
nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác trong một thời gian
nhất định và sẽ trở lại nơi thường trú ban đầu sau khi kết thúc chuyến đi. Trong
những chuyến đi này, con người có xu hướng hưởng thụ các chuyến du lịch, cần
sử dụng dịch vụ lưu trú để đáp ứng nhu cầu ăn, ở, nghỉ ngơi.
Do đó, dịch vụ lưu trú được hiểu là một yếu tố nằm trong hoạt động kinh
doanh du lịch. Dịch vụ lưu trú là hoạt động kinh doanh cung cấp các cơ sở lưu
trú ngắn hạn cho những người có nhu cầu (công tác, du lịch…). Ngoài ra, kinh
doanh dịch vụ lưu trú còn bao gồm cả các loại hình dài hạn dành cho sinh viên,
công nhân… Ngoài cung cấp dịch vụ lưu trú thì một số cơ sở còn cung cấp thêm
các dịch vụ khác như ăn uống, giải trí, sức khỏe…
Tuy nhiên, dịch vụ lưu trú giới hạn và loại trừ hoạt động cung cấp cơ sở
lưu trú dài hạn, cụ thể như dịch vụ cho thuê căn hộ dịch vụ. Cùng là loại hình
dịch vụ lưu trú nhưng khách hàng của dịch vụ này lại có mục đích sử dụng khác.
Khách hàng chỉ sử dụng dịch vụ lưu trú ngắn hạn (dịch vụ khách sạn) trong thời
gian đi du lịch ngắn ngày, nên mối quan hệ giữa khách sạn và du khách là từng
giao dịch riêng lẻ, thủ tục đơn giản; trong khi khách hàng sử dụng căn hộ dịch
vụ thì phải kí kết hợp đồng thuê dài hạn, có nêu các thỏa thuận của các bên. Nói
cách khác, tính chất giao dịch của loại hình căn hộ dịch vụ là liên tục, có sự gắn
kết giữa khách hàng và doanh nghiệp trong suốt quá trình sử dụng dịch vụ.
Dịch vụ lưu trú là một trong những sản phẩm du lịch vô hình tồn tại dưới
dạng phi vật thể của hoạt động kinh doanh du lịch. Đối với hàng hóa (vật chất)
thông thường thì quá trình sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không


cùng trong một thời điểm. Các mặt hàng được sản xuất ra ở một nơi khác và ở
một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng. Ở một thời điểm khác thông qua
các kênh phân phối sản phẩm, thì người tiêu dùng chỉ cần bỏ tiền ra mua hàng
hóa đó là được quyền sở hữu sản phẩm.

Còn đối với dịch vụ lưu trú thì gần như thời gian sản xuất ra sản phẩm du
lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm và khi được thực hiện thì
không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người
mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch,
khách du lịch được ở trong những khách sạn sang trọng, được sử dụng phương
tiện vận chuyển để đi lại, được chơi các trò chơi, giải trí hấp dẫn, được thoải mái
tắm và nghỉ ngơi trên bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối
với chúng.
Bản thân sản phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên
không thể đem sản phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hóa
thông thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hằng ngày. Do tính đồng thời,
khùng khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví
dụ khi khách hàng mua dịch vụ tại khách sạn nào, thời gian nào thì khách sạn đó
sẽ cung ứng dịch vụ vào đúng thời gian đó. Lúc đó, chính là lúc sản phẩm du
lịch vừa được hình thành đồng thời với hành trình của khách và cảm nhận của
khách về chất lượng sản phẩm. Vì các cơ sở lưu trú vừa là nơi sản xuất, vừa là
nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được,
khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến các cơ sở lưu trú. Dịch vụ có đặc
trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường
vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè, các nhà hàng
trong khách sạn thường đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách
sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần. Chính
đặc tính cầu cao điểm của dịch vụ dẫn đến tình trạng


cung cầu dịch vụ dễ mất cân đối vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và
chất lượng dịch vụ có cơ giảm sút khi gặp cầu cao điểm.
Dịch vụ lưu trú cung cấp các dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản,
dịch vụ bổ sung.
Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ chính mà nhà cung ứng du lịch cung cấp

cho khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được khách
hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng,..[34]
Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm
thỏa mãn các nhu cầu không bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng vẫn có trong
chuyển hành trình của du khách. Ví dụ như là những dịch vụ thỏa mãn nhu cầu
đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí; các dịch vụ
khác đi kèm nếu khách hàng có nhu cầu thì cơ sở lưu trú sẽ cung ứng ngay như
dịch vụ trông trẻ, đổi tiền, thuê xe, cửa hàng đồ lưu niệm... Thông thường dịch
vụ bổ sung lại có tính chất quyết định cho sự lựa chọn của khách và có ảnh
hưởng quan trọng đến sự thỏa mãn toàn bộ của khách hàng đối với dịch vụ trọn
gói của cơ sở lưu trú. Chẳng hạn, nếu khách sạn có số lượng dịch vụ bổ sung
càng phong phú, chất lượng của dịch vụ cao thì ngay cả giá cả không rẻ khách
vẫn đến đông và khi đó khách sạn kinh doanh sẽ rất có hiệu quả vì hệ số sử dụng
phòng cao, khách quay lại thường cao hơn so với loại khách sạn có ít dịch vụ.
- Điều kiện kinh doanh
Theo khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014, “Kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”[30]. Như vậy, nếu một ngành nghề nào đó trong Danh mục có gắn
cụm từ “kinh doanh” thì sẽ được hiểu tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ của


ngành, nghề đó phải đáp ứng điều kiện kinh doanh.
Tuy nhiên, ở một số ngành, nghề không phải tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư đều tác động đến lợi ích công cộng mà chỉ là một hoặc một vài khâu
trong quá trình đó cần được kiểm soát. Do đó, nếu không phân tách rõ phạm vi
mà sử dụng chung cụm từ “kinh doanh” trước tên của ngành, nghề sẽ khiến cho
việc kiểm soát bằng điều kiện kinh doanh mở rộng ra quá mức cần thiết, ảnh
hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, quyền con người luôn được tôn trọng, đặt lên vị trí trọng
tâm hàng đầu, được cụ thể hóa thành các quyền trong Hiến pháp và pháp luật.
Trong các quyền con người, tự do kinh doanh là quyền được xác định rõ ràng
trong Hiến pháp năm 2013 tại Điều 33 “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Nhiều nghiên cứu cho rằng,
quyền tự do kinh doanh có nhiều ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi vì đây là sự tự
do trong hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội, mà
hoạt động kinh tế giữ một vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định hay
ảnh hưởng các mặt hoạt động của quốc gia [12, tr.19]. Tuy nhiên quyền tự do
kinh doanh luôn gắn liền với một hệ thống pháp luật cụ thể, một quốc gia nhất
định và trong một nước có pháp luật tự do nghĩa là được làm những cái nên làm
và không bị ép buộc làm điều không nên làm [2, tr.101].
Mặt khác, điều kiện kinh doanh được hiểu là tập hợp các công cụ mà
chính phủ sử dụng để đặt ra các yêu cầu đối với công dân và doanh nghiệp. Tại
Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Điều kiện kinh doanh là yêu cầu mà
doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể,
được thể hiện bằng giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp,
yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác”.Vì thế, có quan điểm cho rằng:
“Điều kiện kinh doanh là mọi sự can thiệp của cơ quan hành


chính vào quyền tự do kinh doanh của người dân, thường được cụ thể hóa bằng
những hành vi của nhân viên hành chính có quyền chấp nhận hoặc khước từ việc
đăng ký hoặc tổ chức những hoạt động kinh doanh cụ thể” [21, tr.23], “Kinh
doanh lưu trú là hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực sản xuất vật chất, cung cấp
các dịch vụ cho thuê buồng ngủ và các dịch vụ bổ sung khác trong thơi gian lưu
lại tạm thời tại các điểm du lịch nhằm mục đích có lãi” [18, tr.13].
Trong hoạt động kinh doanh của các cơ sở lưu trú thì kinh doanh lưu trú là
hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu phục vụ cho một nhu cầu thiết yếu của con

người là nhu cầu nghỉ ngơi. Nếu ở nhà thì điều kiện và môi trường quen thuộc,
còn ở cơ sở lưu trú thì có những điều mới lạ, do vậy cơ sở lưu trú không chỉ đáp
ứng nhu cầu bình thường là nghỉ ngơi lấy sức mà còn đáp ứng cả nhu cầu tâm lý
của khách hàng. Đáp lại khách sẽ chi trả cho sự cung cấp đó và sự thỏa mãn của
khách cũng như những gì khách sạn nhận được từ khách, đó chính là hoạt động
của cơ sở lưu trú.
Ngành nghề kinh doanh có điều kiện là khái niệm không hề mới trong hệ
thống pháp luật nước ta, tuy nhiên lại không có một định nghĩa chính thức nào
khái niệm này cho đến khi Luật Đầu tư 2014 ra đời. Tại khoản 1 Điều 7 Luật
Đầu tư quy định: “Ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện là ngành, nghề
mà việc thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong ngành, nghề đó phải đáp
ứng điều kiện vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” [31]. Trước năm 2014, các nhà chính sách vẫn
ban hành điều kiện kinh doanh đối với các ngành, nghề thuộc phạm vi quản lý
của mình mà không đưa ra lý do giải thích về các mục tiêu của các quy định đó
hoặc khi giải trình thường ít khi liên hệ tới các lợi ích công cộng. Vì không có
chuẩn chung nào để đánh giá tính hợp lý, cần thiết của các quy định về điều kiện
kinh doanh hay ngành, nghề kinh doanh có điều


kiện. Điều này vô hình chung khiến cho quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp bị hạn chế đáng kể.
Như vậy theo như quy định trên đây thì kinh doanh dịch vụ lưu trú là việc
cung cấp dịch vụ phục vụ nhu cầu lưu trú của khách du lịch, là ngành nghề kinh
doanh có điều kiện trừ tổ chức, cá nhân có nhà cho người Việt Nam hoặc người
nước ngoài thuê (có hợp đồng thuê nhà) để ở, học tập, làm việc. Và để một
doanh nghiệp có thể kinh doanh dịch vụ lưu trú thì doanh nghiệp đó trước hết
phải đáp ứng được các điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú.
Từ kết quả nghiên cứu cho thầy: Điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú là
yêu cầu mà các tổ chức, cá nhân phải có hoặc phải thực hiện khi kinh doanh

dịch vụ lưu trú được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và các điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thể
hiện bằng các hình thức theo quy định của pháp luật. Điều kiện kinh doanh dịch
vụ lưu trú là phải thành lập doanh nghiệp, kinh doanh cơ sở lưu trú có thể dưới
hình thức doanh nghiệp, cá nhân đăng ký kinh doanh. Tổ chức, cá nhân kinh
doanh cơ sở lưu trú phải đáp ứng các điều kiện chung về đảm bảo an ninh, trật
tự, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy và các điều
kiện riêng (yêu cầu tối thiểu về xây dựng, trang bị, dịch vụ, trình độ chuyên
môn,…) đối với từng loại hoạt động kinh doanh cơ sở lưu trú được quy định
theo các nhóm: khách sạn, làng du lịch, biệt thự, căn hộ du lịch, bãi cắm trại, nhà
nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê.
- Đặc điểm điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú:
Thứ nhất, điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú có tính chất áp đặt quy mô
doanh nghiệp. Chủ thể kinh doanh dịch vụ lưu trú chỉ được phép kinh doanh khi
đã đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật, phải có vốn tối thiểu; Điều
kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú được thể hiện bằng những hình thức cụ thể tùy
thuộc vào quy định của pháp luật, là một trong những công cụ


đắc lực giúp cho Nhà nước thực hiên việc quản lý và điều tiết thị trường.
Thứ hai, điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú có tính chất can thiệp vào
quyền tự quyết của doanh nghiệp. Pháp luật về doanh nghiệp ghi nhận quyền tự
chủ của doanh nghiệp trong việc lựa chọn hình thức kinh doanh, thuê và sử dụng
lao động, tuy nhiên yêu cầu tổ chức kinh doanh phải theo quy mô nhất định, phải
đáp ứng được các điều kiện trong Giấy chứng nhận kinh doanh.
Thứ ba, điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú có tính chất can thiệp vào thị
trường bằng mệnh lệnh hành chính. Hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú của
chủ doanh nghiệp chịu ràng buộc bởi lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng, do đó đảm bảo rằng chủ thể
kinh doanh ngành nghề này sẽ không gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại đến

những lợi ích mà nhà nước cần bảo vệ, là cơ sở cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền thực hiện được chức năng quản lý doanh nghiệp cũng như giải quyết
các tranh chấp, tạo ra sự ổn định và phát triển cho nền kinh tế.
1.1.2. Vai trò của điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
Mỗi quốc gia đều có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh để
kiểm soát, quản lý hoạt động kinh doanh thương mại mà các chủ thể kinh doanh
phải đáp ứng được khi thực hiện kinh doanh trong những ngành nghề kinh doanh
có điều kiện nói chung và kinh doanh dịch vụ lưu trú nói riêng. Mục đích của
ngành nghề kinh doanh có điều kiện là đảm bảo điều kiện vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Do đó, pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú là thước đo để đảm bảo
phát triển cho các lĩnh vực:
- Điều kiện quốc phòng, an ninh quốc gia: Dịch vụ lưu trú là dịch vụ
tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hóa cao và nội dung văn hóa
sâu sắc. Vì vậy, điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú tốt tạo động lực cho du


lịch phát triển ổn định, bảo đảm an ninh và an toàn cho du khách khi đi du lịch,
đồng thời còn có khả năng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc
làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực khác
phát triển đem lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, đối
ngoại và an ninh quốc phòng.
- Trật tự, an toàn xã hội: Trong xu thế hội nhập và phát triển kinh tế,
mỗi quốc gia đều có những quy định cụ thể về điều kiện kinh doanh phù hợp
với yêu cầu quản lý kinh tế và môi trường pháp lý riêng của quốc gia mình
nhằm tránh những phát sinh, phức tạp tiềm ẩn không chỉ trong công tác quản
lý nhà nước về hoạt động kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến an ninh, trật tự.
Đồng thời, giúp các cơ quan chức năng và nhà nước có thể giám sát và đảm
bảo các điều kiện về an toàn và giữ gìn trật tự.
- Đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng: Thị trường khách du lịch ngày

càng đa dạng phong phú có quy mô lớn nên thị trường sản xuất du lịch cần đa
dạng và đồng bộ với quy mô lớn, bảo đảm mỗi công ty, doanh nghiệp, cá nhân
hay cơ sở kinh doanh đã đủ các điều kiện về trật tự, tuân thủ các quy định của
pháp luật về an toàn trong mọi mặt như đảm bảo an toàn tính mạng, an toàn
sức khỏe, an toàn tài sản, an toàn về tâm lý cho khách khi tiêu dùng sản phẩm
dịch vụ lưu trú.Việc chấp hành đúng quy định của pháp luật về điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú không những đem lại uy tín, chất lượng, danh tiếng cho
các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lưu trú mà khách hàng cũng được
đảm bảo lợi ích về mặt an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản khi sử dụng
dịch vụ lưu trú, tạo sự an tâm cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ lưu trú tại
cơ sở lưu trú của doanh nghiệp.
1.2. Cơ cấu pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
Theo khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2014 thì doanh nghiệp phải có
nghĩa vụ đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành, nghề đầu tư


kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật đầu tư và bảo đảm duy trì đủ
điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Việc
doanh nghiệp phải đủ điều kiện để kinh doanh đối với một số lĩnh vực kinh
doanh là thực sự cần thiết. Mục đích cơ bản của việc này là để đảm bảo rằng chủ
thể kinh doanh ngành nghề đó sẽ không gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho những lợi ích nhà nước cần bảo vệ [13, tr.37]. Do đó, cơ cấu pháp luật của
điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú bao gồm các nhóm vấn đề điều chỉnh pháp
luật sau đây:
Thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật về nguyên tắc về điều kiện kinh
doanh dịch vụ lưu trú
Căn cứ vào các quy định hiện hành áp dụng nguyên tắc xây dựng ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan chức năng triển khai việc thẩm định
điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật. Một trong những nguyên tắc
đó là bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy

phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật và căn cứ vào chủ trương, chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
doanh nghiệp [35, tr.27].
Kể từ khi Việt Nam mở cửa hội nhập mạnh mẽ, cùng với các quyền con
người luôn được bảo đảm thì quyền tự do kinh doanh cũng đã được mở rộng và
được hiện thực tại Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp đã thừa nhận quyền tự do
kinh doanh là một trong những quyền cơ bản của con người. Các thành phần
kinh tế bình đẳng với nhau trong hoạt động. Quyền tự do kinh doanh đã có một
bước tiến mới, cởi mở với nguyên tắc: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” [29]. Quy định này hàm chứa
ý nghĩa quan trọng, đó là: mọi người có quyền tự do kinh doanh; giới hạn của
quyền tự do đó là những gì luật cấm, nói khác đi, muốn cấm cái gì, thì Nhà nước
phải quy định bằng luật.


Kinh doanh dịch vụ lưu trú là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tổ
chức cá nhân chỉ được kinh doanh dịch vụ lưu trú kể từ khi có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật, nghĩa là quyền tự do kinh doanh dịch vụ lưu trú có giới
hạn cụ thể. Giới hạn kinh doanh này phụ thuộc vào lợi ích chính đáng của các
chủ thể khác trong xã hội vì hoạt động của tổ chức, cá nhân kinh doanh lưu trú
du lịch ảnh hưởng đến nhiều lợi ích khác như khách du lịch, nhà cung cấp, cộng
đồng địa phương, an ninh, chính trị, tôn giáo, lịch sử... Trong các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật chứa các nội hàm “đạo đức xã hội”, “thuần phong mỹ tục”,
“lợi ích xã hội” hay “lợi ích công cộng” từ đó tạo nên các giới hạn của quyền tự
do nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng. Để xác định rõ giới hạn của
quyền tự do kinh doanh, chúng ta cần có các nguyên tắc quy định có giá trị bền
vững [40, tr.60].
Ngoài ra, theo các nguyên tắc chung của phát triển bền vững du lịch, phát
triển bền vững dịch vụ lưu trú tại vùng du lịch cần tuân thủ năm nguyên tắc cơ
bản đó là phát triển dịch vụ lưu trú phải dựa trên khai thác và sử dụng các nguồn

tài nguyên du lịch tại điểm đến một cách hợp lý; phát triển dịch vụ lưu trú phải
đi đôi với hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu thải chất thải ra
môi trường; phát triển dịch vụ lưu trú phải gắn với bảo tồn tính đa dạng về tài
nguyên, văn hóa và xã hội của môi trường du lịch; phát triển kinh doanh dịch vụ
lưu trú phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng thể của địa
phương và quốc gia; phát triển kinh doanh dịch vụ lưu trú phải chú trọng đến
chia sẻ lợi ích với cộng đồng địa phương.
Thứ hai, nhóm quy phạm pháp luật về chủ thể kinh doanh dịch vụ
lưu trú
Chủ thể kinh doanh dịch vụ lưu trú là các tổ chức, cá nhân kinh doanh
thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú có đủ điều kiện kinh doanh theo
quy định của pháp luật hiện hành. Để đảm bảo quyền và lợi ích cho


chính chủ thể kinh doanh thì đòi hỏi mỗi chủ thể kinh doanh phải thỏa mãn
những điều kiện nhất định thì mới tham gia hoạt động kinh doanh.
Đối với chủ thể kinh doanh là cá nhân: phải thỏa mãn các điều kiện về
năng lực pháp lý theo Điều 16 Bộ luật dân sự 2015 về độ tuổi, khả năng nhận
thức và điều khiển hành vi của mình; quốc tịch; lý lịch tư pháp; khả năng tài
chính (điều kiện về vốn, có đang lâm vào tình trạng phá sản không). Bên cạnh
năng lực hành vi dân sự thì để trở thành chủ thể kinh doanh, cá nhân còn phải
xin phép hoặc đăng ký kinh doanh ở cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ sau
khi được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh, cá nhân mới có
năng lực pháp luật trong quan hệ hoạt động kinh doanh, có quyền hoạt động kinh
doanh và khi đó mới trở thành chủ thể.
Đối với chủ thể kinh doanh là tổ chức: Có thể hiểu tổ chức muốn kinh
doanh dịch vụ lưu trú thì có thể đăng ký theo mô hình doanh nghiệp hoặc hợp
tác xã và lựa chọn một trong bốn hình thức sau: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty
trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần hay Công ty hợp danh.
Một là, đối với hộ kinh doanh thường phù hợp vơi các trường hợp kinh

doanh với quy mô nhỏ. Cụ thể, hộ kinh doanh chỉ có một địa điểm kinh doanh cố
định và pháp luật cũng giới hạn về số lượng nguồn nhân lực tức số lượng người
lao động làm việc tại cơ sở lưu trú tối đa không quá 10 người. Việc tiến hành
đăng ký kinh doanh được thực hiện tại Phòng Tài chính – Kế hoạch thuộc Ủy
ban nhân dân cấp huyện.
Hai là, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn. Loại hình này thường phù hợp với quy mô kinh doanh lớn hơn so với
hộ kinh doanh nêu trên. Mặc dù không tồn tại những hạn chế của hộ kinh doanh
tuy nhiên quá trình thành lập và tổ chức, quản lý cũng như kiểm soát doanh
nghiệp sẽ chặt chẽ hơn. Theo đó, khi thành lập thì phải đăng ký kinh doanh ở
Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư.


Theo quy định tại Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014 thì những tổ chức cá
nhân không được quyền thành lập và quản lý, mua cổ phần, góp vốn vào doanh
nghiệp thì đương nhiên cũng không đủ điều kiện để tham gia hoạt động kinh
doanh lưu trú du lịch dưới hình thức doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với từng
trường hợp hộ kinh doanh thì pháp luật lại có quy định khác. Các cá nhân thuộc
hầu hết các trường hợp bị cấm thành lập, quản lý, góp vốn vào doanh nghiệp
không bị cấm đăng ký làm chủ hộ kinh doanh. Các đối tượng này vẫn có thể
đăng ký hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú.
Bên cạnh đó, Theo Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 96/2016/ND-CP ngày
01/7/2016 thì người chịu trách nhiệm về an ninh, trật tự của cơ sở kinh doanh là
người đại diện theo pháp luật, người quản lý cơ sở kinh doanh, chủ cơ sở kinh
doanh có tên trong các văn bản quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định này;
Người được những người quy định tại điểm a khoản này ủy quyền đứng tên
trong Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự.
Thứ ba, nhóm quy phạm pháp luật những nội dung cụ thể của điều
kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú đối với từng nhóm vấn đề
Kinh doanh dịch vụ dịch vụ lưu trú là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có

điều kiện được quy định tại Phụ lục 4, số thứ tự 214 về Danh mục ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện (Ban hành kèm theo Luật số 03/2016/QH14 sửa đổi, bổ
sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện của Luật Đầu tư); Điều kiện để kinh doanh dịch vụ lưu trú được quy định
tại Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định điều
kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện và tại Thông tư số 42/2017/TT-BCA ngày 20/10/2017 của Bộ Công an quy
định chi tiết một số điều của Nghị định số 96/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 quy
định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề đầu tư kinh doanh
có điều kiện. Ngoài ra, Nghị định 168/2017/NĐ-CP


ngày 31 tháng 12 năm 2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch 2017
cũng đã quy định: Điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú bao gồm:
“- Có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật;
- Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn về phòng cháy và chữa
cháy, bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật;
- Đáp ứng điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ
phục vụ khách du lịch” [8].
Theo Luật Đầu tư 2014 có hiệu lực từ 01/07/2015 thì kinh doanh dịch vụ
lưu trú vẫn tiếp tục là một ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Đối với
điều kiện kinh doanh phải có giấy phép, chủ thể kinh doanh phải tiến hành các
thủ tục xin cấp phép kinh doanh và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận dưới hình thức giấy phép kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh.
Tại khoản 2 Điều 9 Nghị định 118/2015/NĐ-CP của chính phủ hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư quy định hình thức áp dụng
của điều kiện đầu tư kinh doanh như sau: “1) Giấy phép kinh doanh; 2) Giấy
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; 3) Chứng chỉ hành nghề; 4) Chứng
nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp; 5) Xác nhận vốn pháp định; 6) Các

điều kiện mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận, chấp nhận được các hình
thức văn bản” [5]; Các quy định nhằm tạo hiệu quả và tối ưu hóa việc nhà
nước quản lý hoạt động kinh tế, tạo lập nên một khung pháp lý để các chủ thể
kinh doanh được đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Thông qua các chế định
pháp luật để điều kiện kinh doanh, Nhà nước có thể điều tiết được hoạt động
sản xuất – kinh doanh, giữ được sự phát triển ổn định bền vững cho nền kinh
tế.


Thứ tư, nhóm quy phạm pháp luật về trình tự, thủ tục áp dụng về
điều kiện kinh doanh dịch vụ lưu trú
Hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh doanh phải đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh
do pháp luật quy định bởi ngành nghề kinh doanh dịch vụ lưu trú là ngành nghề
kinh doanh có điều kiện.
Một là, có thể thành lập doanh nghiệp theo một trong các loại hình doanh
nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014 bao gồm: doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty cổ phần,
hoặc hộ kinh doanh cá thể. Hồ sơ thủ tục thành lập các doanh nghiệp này được
quy định cụ thể tại Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 71 Nghị định 78/2015/NĐCP ngày 14/9/2015 quy định về hồ sơ đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể
và trình tự đăng ký để thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú và nghị
định 108/2018/NĐ-CP ngày 23/8/2018 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 quy định về đăng ký doanh nghiệp. Bên
cạnh đó phải đáp ứng những điều kiện tại Điều

7 Nghị định 96/2016/NĐ-CP

quy định điều kiện về an ninh, trật tự áp dụng chung cho các ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện.
Hai là, hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh trật tự

theo quy định tại Điều 19 Nghị định 96/2016/NĐ-CP như sau:
+ Văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự
của cơ sở kinh doanh (Mẫu số 03 tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định
96/2016/NĐ-CP).
+ Bản sao hợp lệ một trong các loại văn bản sau đây: Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư; Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của chi nhánh, đơn vị trực
thuộc doanh nghiệp; Giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;
Giấy chứng nhận đăng ký chi nhánh, địa điểm kinh doanh của hợp


×