Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của bộ công an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.46 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU HIỀN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THỊ THU HIỀN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã ngành: 8.38.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN QUỐC TOÀN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Luận văn này chưa từng được


công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Học viên

Bùi Thị Thu Hiền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
Chương 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN.....7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của quản lý nhà nước về xử lý vi
phạm hành chính............................................................................................ 7
1.2. Khái quát quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
hành chính....................................................................................................15
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức
năng Bộ Công an..........................................................................................17
Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN 25
2.1. Thực trạng tình hình vi phạm hành chính và công tác xử lý vi phạm
hành chính thuộc chức năng Bộ Công an.....................................................25
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức
năng của Bộ Công an................................................................................... 29
2.3. Một số nhận xét, đánh giá..................................................................... 36
Chương 3. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC
NĂNG BỘ CÔNG AN...................................................................................47
3.1. Các yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nước về xử lý vi phạm
hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an trong thời gian tới................47
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xử lý vi

phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an.................................... 49
KẾT LUẬN.................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 66


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Thống kê số vụ VPCH được CAND phát hiện, xử lý từ năm 2014
đến năm 2018.......................................................................................................26
Biểu đồ 2.2 Thống kê số tiền phạt thu được từ XPVPHC nộp ngân sách nhà
nước từ năm 2014 đến năm 2018........................................................................ 27
Biểu đồ 2.3 So sánh tỉ lệ lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GGTXPTT và áp
dụng các biện pháp do TAND quyết định............................................................28


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTT:

An ninh, trật tự

ATXH:

An toàn xã hội

CAND:

Công an nhân dân

CSGDBB:


Cơ sở giáo dục bắt buộc

GDTXPTT: Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
QLNN:

Quản lý nhà nước

QPPL:

Quy phạm pháp luật

TAND:

Tòa án nhân dân

TGD:

Trường giáo dưỡng

TTATXH:

Trật tự, an toàn xã hội

UBND:

Ủy ban nhân dân

VPHC:

Vi phạm hành chính


XLHC:

Xử lý hành chính

XLVPHC:

Xử lý vi phạm hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vi phạm hành chính (VPHC) là vi phạm pháp luật phổ biến nhất hiện nay,
xảy ra trên tất cả các lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN), gây tác hại nhiều mặt
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội (TTATXH), ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả QLNN. Xử lý vi
phạm hành chính (XLVPHC) là công cụ quan trọng trong hoạt động QLNN
nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng
là vấn đề trực tiếp liên quan đến đời sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn thể
nhân dân ta quan tâm.
Trong những năm qua, tình hình VPHC nói chung và vi phạm pháp luật
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự (ANTT) nói riêng có diễn biến phức
tạp. Trong hoạt động đấu tranh phòng, chống và XLVPHC, các cơ quan chức
năng đã có những nỗ lực đáng kể và đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp
phần quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an là một nội dung đặc
biệt quan trọng của QLNN nói chung. Hoạt động này đóng vai trò quan trọng
bởi số vụ xử phạt VPHC trung bình hàng năm chiếm đến 75% tổng số vụ VPHC

xảy ra trên tất cả các lĩnh vực quản lý của nhà nước, của các ngành, địa phương.
Trong những năm gần đây, tình hình VPHC trong lĩnh vực ANTT có chiều
hướng gia tăng về vụ việc, đối tượng; tính chất, mức độ VPHC ngày càng tinh
vi, số vụ chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng… ảnh hưởng xấu đến
TTATXH. Công tác XLVPHC của lực lượng Công an nhân dân (CAND) trong
thời gian qua gặp nhiều khó khăn… Vì vậy, cần phải nghiên cứu để tổ chức thực
hiện tốt công tác QLNN về XLVPHC trong
1


CAND. Thực hiện tốt hoạt động QLNN về XLVPHC trong lĩnh vực ANTT thuộc
chức năng của Bộ Công an góp phần bảo đảm TTATXH, hoàn thiện pháp luật về
QLNN đối với công tác XLVPHC ở Việt Nam nói chung, đồng thời khẳng định
một bước phát triển mới về cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân ở nước ta.
Xuất phát từ lý do trên, học viên chọn vấn đề “Quản lý nhà nước về xử
lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an” làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Luật XLVPHC đã khẳng định vai trò trong đời sống kinh tế, chính trị,
pháp lý của đất nước; là một trong những đạo luật được áp dụng nhiều nhất
trong thực tiễn đời sống. Ngoài Luật XLVPHC, đã có cả hệ thống pháp luật đồ
sộ về XLVPHC được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hoàn thiện
khuôn khổ pháp luật trong lĩnh vực này. Chính vì vậy, đã có nhiều tác giả đã lựa
chọn các vấn đề xung quanh hoạt động XLVPHC là đề tài nghiên cứu khoa học.
- Nguyễn Văn Mừng, Quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh về
xử lý vi phạm hành chính từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội (2015): Luận văn đã làm rõ những vấn đề cơ
bản của pháp luật về XLVPHC; phân tích, đánh giá về tình hình VPHC, tình
hình XLVPHC, tình hình QLNN về XLVPHC tại địa bàn nghiên cứu; chỉ ra

những hạn chế, bất cập, nguyên nhân của hạn chế từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện công tác QLNN về XLVPHC.
- Lưu Trí Vượng, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự đô thị
từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội (2015): Luận văn đã hệ thống hóa, phân tích một số
vấn đề lý luận về VPHC và XLVPHC; nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định


của pháp luật về VPHC và XLVPHC; phân tích thực trạng VPHC và XLVPHC
trong lĩnh vực trật tự đô thị, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động XLVPHC trong lĩnh vực nêu trên tại địa bàn nghiên cứu.
- Nguyễn Trọng Tài, Xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên
tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2016): Luận văn nghiên cứu những vấn
đề cơ bản về pháp luật XLVPHC, thực hiện pháp luật XLVPHC trong lĩnh vực
thi hành án dân sự nói chung và hoạt động kê biên tài sản riêng để thi hành án
dân sự nói riêng. Luận văn đã bước đầu cung cấp luận cứ khoa học phục vụ
việc tiếp tục nghiên cứu và xây dựng những vấn đề về các giải pháp nâng cao
hiệu quả XLVPHC trong lĩnh vực kê biên tài sản để thi hành án dân sự.
- Trần Thị Hương, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội (2016):
Luận văn đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận về XLVPHC trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; phân tích, đánh giá thực
trạng XLVPHC về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn nghiên cứu; từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả,
bảo đảm hoạt động XLVPHC trong lĩnh vực này.
- Phùng Thị Thanh, Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng
từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học
xã hội (năm 2018): Đề tài nghiên cứu công tác XLVPHC trong lĩnh vực xây

dựng; đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong QLNN về trật tự xây dựng trên
địa bàn thành phố Hà Nội; đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác QLNN về trật tự xây dựng nói chung và công tác XLVPHC trong xây
dựng nói riêng.


Các công trình khoa học nêu trên đã phân tích, làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn có liên quan đến VPHC và XLVPHC ở các lĩnh vực khác nhau
trong đời sống xã hội... Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu dưới góc độ
QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an. Trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên, tác giả luận
văn đã nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về QLNN về XLVPHC thuộc chức năng
của Bộ Công an.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh
giá thực trạng QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an; đánh giá
kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế trong công tác QLNN về XLVPHC
thuộc chức năng của Bộ Công an. Trên cơ sở đó, đề xuất các các giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ
Công an.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về QLNN về XLVPHC,
QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an: khái niệm, đặc điểm,
vai trò, ý nghĩa của QLNN về XLVPHC; phân tích quy định của pháp luật về
QLNN về XLVPHC; đi sâu phân tích về nội dung QLNN về XLVPHC thuộc
chức năng của Bộ Công an.
- Nêu và đánh giá thực trạng tình hình VPHC và công tác XLVPHC
thuộc chức năng của Bộ Công an; đánh giá thực trạng QLNN về XLVPHC
thuộc chức năng của Bộ Công an. Phân tích các kết quả đạt được, khó khăn và

nguyên nhân của khó khăn đó từ thực tiễn QLNN về XLVPHC của Bộ Công
an.
- Tổng hợp kết quả nghiên cứu, đưa ra dự báo tình hình liên quan đến
QLNN về XLVPHC của Bộ Công an; qua đó đề xuất một số giải pháp góp


phần nâng cao hiệu quả công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ
Công an.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn liên quan
đến công tác QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về hoạt động QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của
Bộ Công an. Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2014 cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu, trên cơ sở của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về QLNN về XLVPHC.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu phù hợp với từng nội dung của luận văn, cụ thể là:
Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp... để làm
rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của QLNN về XLVPHC nói chung và
QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an nói riêng.
Chương 2: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
để làm rõ thực trạng tình hình VPHC và công tác XLVPHC của Bộ Công an
qua các năm; thực trạng QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an.
Chương 3: Luận văn sử dụng phương pháp quan sát, phân tích, tổng hợp

để dự báo tình hình có liên quan đến QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của
Bộ Công an; từ đó đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong
thời gian tới.


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở phân tích lý luận và quy định của pháp
luật về QLNN về XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an, luận văn góp
phần bổ sung, làm phong phú thêm các quan điểm, nhận thức và các vấn đề lý
luận chuyên ngành về công tác QLNN về XLVPHC.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có tính thực
tiễn và khả thi; có thể được áp dụng vào thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và các danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được cấu trúc thành 3 chương với các nội dung cơ bản sau:
Chương 1. Nhận thức chung về quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành
chính thuộc chức năng của Bộ Công an.
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
thuộc chức năng của Bộ Công an.
Chương 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính thuộc chức năng của Bộ Công an.


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH THUỘC CHỨC NĂNG CỦA BỘ CÔNG AN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của quản lý nhà nước về
xử lý vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Theo

cách hiểu chung nhất hiện nay thì quản lý là sự tác động lên một hệ thống nào đó
với mục tiêu đưa hệ thống đó đến trạng thái cần đạt được. Quản lý là một phạm
trù xuất hiện trước khi có Nhà nước với tính chất là một loại lao động xã hội hay
lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát sinh từ lao
động, không tách rời với lao động và bản thân quản lý cũng là một loại hoạt
động lao động. Định nghĩa chung nhất về quản lý được nêu trong Từ điển Tiếng
Việt, cụ thể như sau: Quản lý là “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định” [59, tr.800 - 801]. Khái niệm này tương đồng với các
khái niệm chỉ đạo, điều hành, điều khiển. Khái niệm quản lý ở đây là muốn nói
đến quản lý con người, quản lý xã hội và biểu hiện cụ thể nhất là ở quản lý nhà
nước.
QLNN là một phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước, QLNN ra
đời với tính chất là loại hoạt động quản lý xã hội. QLNN là quản lý xã hội mang
tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ
xã hội chủ yếu và quan trọng của con người. Ðiểm khác nhau cơ bản giữa
QLNN và các hình thức quản lý khác (ví dụ: quản lý của các tổ chức xã hội…)
là tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế nhà nước khi cần thiết.
QLNN hiểu theo nghĩa rộng, được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước;
theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi
các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành


pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính
nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ
QLNN). QLNN cũng là sản phẩm của việc phân công lao động nhằm liên kết và
phối hợp các đối tượng bị quản lý. Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm chung
nhất về QLNN được hiểu là “tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội
theo pháp luật” [59, tr. 801].
Ở Việt Nam, khái niệm VPHC đã xuất hiện từ lâu, tuy nhiên, còn có
những ý kiến khác nhau về việc định nghĩa khái niệm này trong khoa học

pháp lý và pháp luật thực định. VPHC được định nghĩa lần đầu tại Điều 1
Pháp lệnh Xử phạt VPHC năm 1989 “là hành vi do cá nhân, tổ chức thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc QLNN mà không phải là
tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 không đưa ra khái niệm “VPHC” mà chỉ đưa
ra quy định về “xử phạt VPHC” tại khoản 2 Điều 1: “Xử phạt VPHC được áp
dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi cố ý vi phạm các quy định
của pháp luật về QLNN mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt VPHC”. Dù không trực tiếp định nghĩa nhưng khái
niệm VPHC được mô tả gián tiếp qua một số dấu hiệu đặc trưng đó là: tính
trái pháp luật hành chính của hành vi; tính nguy hiểm cho xã hội; tính có lỗi
của chủ thể; tính chịu trách nhiệm hành chính. Luật XLVPHC năm 2012 đã
đưa ra định nghĩa về “VPHC” tại khoản 1 Điều 2 như sau: “VPHC là hành vi
có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
QLNN mà không phải tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt VPHC”.
Bên cạnh khái niệm “VPHC”, cần thiết phải nghiên cứu một khái niệm
khác cũng rất cơ bản và liên quan mật thiết đến vấn đề này, đó là khái niệm
XLVPHC để phân biệt với khái niệm xử phạt VPHC và áp dụng các biện


pháp XLHC. Theo quy định của pháp luật về XLVPHC trước khi Luật XLVPHC
năm 2012 được ban hành, XLVPHC gồm xử phạt VPHC và các biện pháp khác
(GDTXPTT, đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản
chế hành chính). Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, XLVPHC gồm
xử phạt VPHC và áp dụng biện pháp XLHC (gồm: GDTXPTT, đưa vào TGD,
đưa vào CSGDBB, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc). XLVPHC là một công cụ
quan trọng trong hoạt động QLNN nhằm duy trì trật tự, kỷ cương quản lý hành
chính của Nhà nước. Theo nghĩa khái quát, XLVPHC là việc áp dụng một biện
pháp cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức có hành vi

VPHC. Trong cách định nghĩa cụ thể hơn, XLVPHC được hiểu là hoạt động áp
dụng pháp luật của các chức danh có thẩm quyền XLVPHC để xử phạt hành
chính hoặc áp dụng biện pháp XLVPHC tương ứng với hành vi VPHC của các tổ
chức, cá nhân. Dù được nhìn nhận từ góc độ nào thì XLVPHC đều phản ánh
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, XLVPHC là hoạt động áp dụng pháp luật về XLVPHC. Việc
tiến hành XLVPHC đòi hỏi phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật quy
định. Kết quả XLVPHC phải được thể hiện bằng quyết định XLVPHC có hiệu
lực pháp luật.
Thứ hai, XLVPHC là hoạt động cưỡng chế nhà nước do các chủ thể (chức
danh) có thẩm quyền XLVPHC tiến hành và được bảo đảm bằng quyền lực nhà
nước.
Thứ ba, đối tượng tác động của XLVPHC là cá nhân hoặc tổ chức đã thực
hiện VPHC.
Thứ tư, mục đích của XLVPHC là nhằm truy cứu trách nhiệm hành chính
một hành vi VPHC, qua đó, buộc chủ thể VPHC phải gánh chịu một biện pháp
cưỡng chế tương ứng với hành vi vi phạm của mình. Như vậy, VPHC là cơ sở
phát sinh hoạt động XLVPHC.


Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, XLVPHC bao gồm các hoạt
động XPVPHC và hoạt động áp dụng các biện pháp XLHC. Trong đó:
Xử phạt VPHC: là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức
xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi
VPHC theo quy định của pháp luật về xử phạt VPHC (Khoản 2 Điều 2). Các
hình thức xử phạt VPHC được quy định từ Điều 21 đến Điều 27 trong Luật này
bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật VPHC,
phương tiện được sử dụng để VPHC; trục xuất. Trong đó, hình thức xử phạt cảnh
cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính, các hình thức xử phạt còn lại vừa

là áp dụng hình thức xử phạt chính, vừa được áp dụng là hình thức xử phạt bổ
sung. Cùng với các hình thức xử phạt VPHC, chủ thể có thẩm quyền có thể áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả được quy định từ Điều 28
đến Điều 37, bao gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc tháo dỡ công
trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng
với giấy phép; buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy
hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi
trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; buộc cải chính thông tin sai sự thật
hoặc gây nhầm lẫn; buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa,
phương tiện kinh doanh, vật phẩm; buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo
đảm chất lượng; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm
hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật và các
biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.


Biện pháp XLHC: là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm
pháp luật về ANTT, ATXH mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp:
GDTXPTT; đưa vào TGD; đưa vào CSGDBB và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc (Khoản 3 Điều 2). Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện
pháp GDTXPTT; Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng
các biện pháp đưa vào TGD; đưa vào CSGDBB và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc. Việc áp dụng các biện pháp XLHC được áp dụng theo một quy trình gồm
nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan tổ chức khác nhau, trong đó có cơ
quan Công an.
Theo quy định pháp luật hiện hành thì có thể xác định hoạt động QLNN
về XLVPHC là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và được

thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan, cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước. Trên cơ sở quy định của Luật XLVPHC thì hoạt động QLNN về
XLVPHC được thực hiện từ trung ương đến địa phương và trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trong đó, Chính phủ thống nhất QLNN về
XLVPHC trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ
thực hiện QPNN về XLVPHC; các bộ, ngành, địa phương thực hiện hoặc phối
hợp với Bộ Tư pháp thực hiện các nhiệm vụ, nội dung QLNN về XLVPHC
thuộc phạm vi, chức năng được giao.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm QLNN về XLVPHC
như sau: “QLNN về XLVPHC là sự tác động đồng bộ, có tổ chức của các chủ
thể có thẩm quyền đối với hoạt động XLVPHC nhằm duy trì trật tự, kỷ cương
quản lý hành chính của Nhà nước”. Sự tác động này được biểu hiện qua việc
ban hành văn bản QPPL về XLVPHC; tổ chức thực hiện và kiểm tra theo dõi
hoạt động XLVPHC.


1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
Một là, QLNN về XLVPHC là hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước và được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan, người có thẩm
quyền trong bộ máy hành chính nhà nước.
Điều này thể hiện trước hết qua việc một số cơ quan trong bộ máy hành
chính nhà nước được trao thẩm quyền ban hành văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành các quy định về XLVPHC. Vấn đề đã nêu xuất phát từ một
thực tế là văn bản QPPL có hiệu lực cao nhất về XLVPHC thường chỉ quy định
những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, đòi hỏi phải có văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành thì mới có thể đi vào thực tiễn QLNN trong từng lĩnh
vực, từng địa phương. Việc ban hành các văn bản loại này thường được giao cho
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (Chính phủ) và một số cơ quan khác
trong bộ máy hành chính nhà nước (có thể là Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với lĩnh
vực hoặc ngành được phân công phụ trách; cũng có thể là một số cơ quan chính

quyền địa phương đối với những vấn đề của địa phương mà văn bản của cơ quan
trung ương cho phép quy định). Về nguyên tắc, việc ban hành các văn bản loại
này phải đạt được mục đích cụ thể hoá quy định trong các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và nội dung các văn bản loại này phải phù hợp với quy định
trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Hai là, để bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan chức năng xử lý vi
phạm pháp luật nói chung và XLVPHC nói riêng, bên cạnh việc ban hành các
văn bản pháp luật, còn luôn đòi hỏi sự nghiêm chỉnh thi hành và tuân thủ pháp
luật, có biện pháp tăng cường ý thức tôn trọng pháp luật và kỷ cương xã hội. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, trong quá trình XLVPHC, tình hình vi phạm các yêu
cầu về pháp chế của một số cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại. Có nơi, có lúc kỷ
cương xã hội và trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp,


tính mạng và tài sản của nhân dân bị xâm phạm. Để nhanh chóng phát hiện và
sớm có biện pháp chấn chỉnh kịp thời tình trạng trên, bên cạnh việc tăng cường
sự giám sát, kiểm tra của các tổ chức, xã hội và của nhân dân, của cơ quan, tổ
chức đối với việc XLVPHC thì việc hình thành công tác QLNN về XLVPHC,
trong đó quy định rõ cơ quan có thẩm quyền quản lý thống nhất, cơ quan chịu
trách nhiệm đầu mối là hết sức quan trọng, bảo đảm việc tổ chức, áp dụng và thi
hành pháp luật XLVPHC nghiêm túc, chính xác và chặt chẽ.
Ba là, cơ quan và người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà
nước là chủ thể chủ yếu trong việc áp dụng các biện pháp XLVPHC, đồng thời
cũng là chủ thể chủ yếu có trách nhiệm tổ chức thực hiện, áp dụng các biện pháp
cưỡng chế, kiểm tra việc thực hiện các quyết định XLVPHC trong trường hợp
cần thiết. Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ XLVPHC, cơ quan và người có thẩm
quyền trong bộ máy hành chính nhà nước có thể phát hiện những bất cập trong
các quy định pháp luật về nội dung cũng như thủ tục tiến hành hoạt động. Trên
cơ sở đó đóng góp những ý kiến xác đáng nhằm hoàn thiện pháp luật về
XLVPHC.

1.1.3. Vai trò và ý nghĩa quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính
Trong những năm qua, XLVPHC đã góp phần quan trọng trong công tác
phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối với các VPHC ở nước ta, bảo đảm trật tự
QLNN, ANTT, ATXH. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đời
sống kinh tế - xã hội thì việc XLVPHC trong thời gian qua có diễn biến phức tạp
và chưa được quản lý thống nhất nên đã gây ra những khó khăn, bất cập làm ảnh
hưởng hiệu lực QLNN, ảnh hưởng đến ANTT, ATXH. Do vậy, thực hiện tốt
QLNN về XLVPHC có vai trò, ý nghĩa quan trọng:
Thứ nhất, QLNN về XLVPHC là công cụ quan trọng nhằm duy trì trật tự,
kỷ cương hành chính trong lĩnh vực bảo đảm ANTT thuộc chức năng của Bộ
Công an. Với chức năng, nhiệm vụ được giao là tham mưu giúp Đảng và


Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng,
chống tội phạm; QLNN về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH, đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong phạm vi cả nước; trực tiếp đấu tranh phòng,
chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi
phạm pháp lật về an ninh quốc gia, TTATXH, việc thực hiên tốt công tác QLNN
về XLVPHC sẽ là công cụ hữu hiệu để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được
giao của lực lượng CAND.
Thứ hai, QLNN về XLVPHC giúp kịp thời xử lý, ngăn chặn các hành vi
VPHC trong lĩnh vực ANTT, thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật
đối với các hành vi vi phạm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
cá nhân, tổ chức, cơ quan; duy trì trật tự QLNN trong lĩnh vực ANTT. Bên cạnh
đó, QLNN về XLVPHC giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xử lý chính xác về
mặt hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội mà trước đố đã xử phạt
VPHC theo quy định của Bộ luật Hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm.
Thứ ba, QLNN về XLVPHC đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật, góp phần răn đe, giáo dục về ý thức pháp
luật đối với mọi cá nhân, tổ chức. Thông qua việc xử phạt VPHC sẽ góp phần

làm cho đối tượng có hành vi vi phạm nhận thức đầy đủ về trách nhiệm pháp lý
của mình để thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Hay đối với người chưa
thành niên, việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý VPHC như nhắc nhở hoặc
quản lý tại gia đình giúp nhóm đối tượng này nhận thức được hành vi vi phạm
của mình để tránh lặp lại hành vi vi phạm.
Thứ tư, QLNN về XLVPHC phục vụ có hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ
của lực lượng CAND theo quy định của pháp luật. Thông qua công tác này, các
cơ quan chức năng trong CAND đã chủ động phòng ngừa, phát hiện và có các
biện pháp, giải pháp kịp thời loại bỏ các nguyên nhân và điều kiện


phạm tội, vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức; nắm được các phương thức,
thủ đoạn phạm tội; cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan chức năng, chính
quyền và đơn vị nghiệp vụ CAND để xây dựng các kế hoạch, phương án phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh với các vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức nhằm
bảo đảm ANTT.
1.2. Khái quát quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về xử lý
vi phạm hành chính
Trước năm 1989, việc XLVPHC được thực hiện theo các văn bản như: Sắc
lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946, Sắc lệnh số 175/SL ngày 18/8/1953, Nghị định
số 143/CP ngày 27/5/1977 ban hành Điều lệ về phạt vi cảnh. Ngày 31/11/1989,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần đầu tiên ban hành Pháp lệnh xử phạt VPHC
(Pháp lệnh năm 1989), đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về XLVPHC ở nước ta. Pháp lệnh năm 1989 quy định
những vấn đề cơ bản, mang tính nguyên tắc về XLVPHC. Qua hơn 20 năm thi
hành, Pháp lệnh này được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1995, 2002, 2007
và 2008.
Ngày 20/6/2012, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật
XLVPHC nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực hiện hoạt động XLVPHC,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả QLNN. Luật XLVPHC đã thể chế hóa các chủ

trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và
cải cách hành chính được xác định trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW).
Cùng với việc thông qua Luật XLVPHC, Quốc hội cũng ban hành Nghị quyết số
24/2012/QH13 ngày 20/6/2012 về việc thi


hành Luật XLVPHC (Nghị quyết số 24/2012/QH13), trong đó yêu cầu: Chính phủ
khẩn trương chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, tổ chức, nguồn lực kịp thời
triển khai việc quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về XLVPHC để bảo
đảm hiệu lực thi hành của Luật XLVPHC theo quy định…
Thực hiện Luật XLVPHC và Nghị quyết số 24/2012/QH13, ngày
19/7/2013, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật XLVPHC (Nghị định số
81/2013/NĐ-CP), trong đó xác định trách nhiệm của Bộ Tư pháp giúp Chính phủ
QLNN về XLVPHC trong phạm vi cả nước; các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các
cấp thực hiện QLNN về XLVPHC trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan, đơn vị mình.
Để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của Luật XLVPHC; yêu cầu của Nghị quyết
số 24/2012/QH13; căn cứ Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, ngày 25/10/2013, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1950/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây
dựng tổ chức bộ máy, biên chế triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi
hành pháp luật về XLVPHC của Bộ Tư pháp, các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ
quan tư pháp địa phương” (Quyết định số 1950/QĐ-TTg). Quyết định số
1950/QĐ-TTg xác định thành lập Cục Quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành
pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp để giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện QLNN
và tổ chức thi hành pháp luật về XLVPHC theo quy định của pháp luật.

Tính đến ngày 18/7/2019, Chính phủ đã ban hành 107 nghị định (Phụ lục
số 01) quy định về xử phạt VPHC trong các lĩnh vực QLNN (quy định về các
hành vi VPHC cụ thể trong từng lĩnh vực, hình thức mức xử phạt, biện pháp khắc
phục hậu quả áp dụng đối với từng hành vi, thẩm quyền và thủ tục xử phạt VPHC
trong từng lĩnh vực..), quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật (về thủ tục
cưỡng chế hành chính; về quản lý tiền phạt và biên lại thu tiền xử


phạt; về thủ tục tạm giữ người theo thủ tục hành chính; về thủ tục trục xuất; về
quản lý tang vật, phương tiện VPHC bị tạm giữ...) và quy định cụ thể về chế độ áp
dụng các biện pháp hành chính khác (biện pháp GDTXPTT; đưa vào TGD; đưa
vào CSGDBB; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc)… Bên cạnh đó còn một số
lượng lớn các văn bản được ban hành dưới hình thức thông tư, quyết định của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thông tư liên tịch giữa các bộ, ngành để
hướng dẫn cụ thể, chi tiết việc thi hành pháp luật về XLVPHC.
Ngoài ra, cũng cần kể đến một số văn bản luật, pháp lệnh chuyên ngành
cũng có quy định về XLVPHC ở các mức độ khác nhau như: Luật Giao thông
đường bộ, Luật Cư trú, Luật Căn cước công dân... Tất cả hợp lại thành một hệ
thống văn bản QPPL về XLVPHC tương đối đầy đủ, toàn diện ở nước ta.
1.3. Nội dung quản lý nhà nước về xử lý vi phạm hành chính thuộc
chức năng Bộ Công an
Cũng như các bộ, cơ quan ngang bộ khác, nội dung QLNN về XLVPHC
của Bộ Công an được quy định chung tại Điều 17 Luật XLVPHC; Chương II
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và một số nội dung được sửa đổi, bổ sung tại Nghị
định số 97/2017/NĐ-CP. Với chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi
phạm pháp luật; thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm
TTATXH, các nội dung QLNN về XLVPHC được Bộ Công an triển khai bám sát
với từng lĩnh vực được giao quản lý.
1.3.1. Xây dựng, hoàn thiện pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật về

xử lý vi phạm hành chính
Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, theo dõi thi thành pháp luật về
XLVPHC được quy định gồm các nội dung:
- Nghiên cứu, rà soát, xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính.


- Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo
thẩm quyền văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Theo dõi việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Sơ kết, tổng kết tình hình thi hành để hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Có thể nói, pháp luật về XLVPHC có nội dung tương đối phức tạp và
được quy định trong nhiều văn bản QPPL khác nhau. Ngoài những quy định
chung trong Luật XLVPHC, còn có 107 Nghị định do Chính phủ ban hành quy
định chi tiết về XLVPHC trong các lĩnh vực QLNN, hướng dẫn thi hành Luật
XLVPHC; các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành các Thông tư hướng dẫn thực
hiện những nội dung liên quan đến XLVPHC thuộc lĩnh vực quản lý. Với khối
lượng văn bản lớn như vậy, rất khó tránh khỏi những mâu thuẫn, chồng chéo
trong công tác xây dựng pháp luật. Thêm vào đó, những biến động của đời sống
chính trị, kinh tế - xã hội cũng là những lý do khách quan để hoàn thiện các quy
định pháp luật về XLVPHC đã ban hành. Vì vậy, xây dựng, hoàn thiện pháp luật,
theo dõi thi hành pháp luật về XLVPHC là một trong những nội dung quan trọng
của nhiệm vụ QLNN về XLVPHC.
Thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLVPHC
trong lĩnh vực ANTT, ATXH và các lĩnh vực có liên quan, trong những năm qua,
Bộ Công an đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ ban hành 07 Nghị định về
XLVPHC thuộc các lĩnh vực quản lý của Bộ Công an; Bộ trưởng Bộ Công an đã
ban hành và liên tịch ban hành 26 thông tư quy định các nội dung cụ thể của
công tác XLVPHC thuộc chức năng của Bộ Công an.

1.3.2. Phổ biến pháp luật, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ
về pháp luật xử lý vi phạm hành chính
Để triển khai thi hành pháp luật XLVPHC đồng bộ, kịp thời và có hiệu
quả, công tác phổ biến, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật


về XLVPHC cần được đặc biệt chú trọng. Điều này xuất phát từ lý do căn bản là
pháp luật trong lĩnh vực này phức tạp, đòi hỏi những người tổ chức thi hành trên
thực tế phải được hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng để nắm vững nội dung các
quy định pháp luật có liên quan về XLVPHC. Các cá nhân, tổ chức nói chung
cũng cần được phổ biến pháp luật XLVPHC nhằm nâng cao ý thức pháp luật,
hạn chế những VPHC. Theo quy định của Điều 20 Nghị định số 81/2013/NĐCP, công tác phổ biến, hướng dẫn, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật
XLVPHC gồm:
- Nghiên cứu, biên soạn tài liệu phục vụ công tác phổ biến, bồi dưỡng,
tập huấn pháp luật về XLVPHC;
- Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm công tác
XLVPHC;
- Tổ chức phổ biến pháp luật XLVPHC với nội dung và hình thức phù
hợp với từng đối tượng cụ thể;
- Hướng dẫn nghiệp vụ áp dụng pháp luật về XLVPHC.
Đối với lực lượng CAND, công tác phổ biến pháp luật, hướng dẫn, tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về pháp luật XLVPHC cần đặc biệt coi trọng. Xuất
phát từ lý do các hành vi VPHC trong lĩnh vực ANTT rất phức tạp, đa dạng, có
thể phát sinh ngay từ trong các hoạt động thường ngày trong đời sống xã hội,
trong khi đó, lực lượng CAND có nhiều chức danh ở nhiều cấp Công an có thẩm
quyền XLVPHC. Nếu hoạt động XLVPHC thực hiện không tốt sẽ xâm phạm
quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân; ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng
CAND hoặc nếu xử lý không nghiêm sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác
QLNN trong lĩnh vực ANTT.
1.3.3. Kiểm tra tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Kiểm tra việc thi hành pháp luật XLVPHC là một nhiệm vụ trọng tâm của
QLNN về XLVPHC. Thông qua hoạt động kiểm tra việc thi hành pháp luật


×