Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Kinh tế: Tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.75 KB, 27 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

_________

NGUYỄN PHƯƠNG LIÊN

TÀI CHÍNH CÔNG, QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng (Tài chính công)
Mã số: 9340201

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Tp. Hồ Chí Minh - 2018


1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1.
Bối cảnh nghiên cứu
1.1.1. Tổng quan nền kinh tế toàn cầu giai đoạn 1996–2016
Trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến cuộc
khủng hoảng tài chính diễn ra sau khi bong bóng bất động sản của
Mỹ nổ kéo theo khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó ảnh hưởng
lên hoạt động xuất, nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển. Tuy
nhiên Ngân hàng thế giới đã báo cáo rằng năm 2016 tăng trưởng
kinh tế toàn cầu đã thật sự hồi phục.


1.1.2. Sự khác nhau giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế ở
các nước phát triển và đang phát triển
a)
Tỷ lệ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế
Các nước phát triển duy trì sự ổn định kinh tế tốt hơn các
nước đang phát triển (Ngân hàng thế giới, 2017).
Thu thuế, chi tiêu công và kiểm soát tham nhũng: Thu thuế
là thành phần quan trọng nhất trong thu ngân sách của mọi quốc gia.
Các nước đang phát triển đều thu thuế ít hơn các quốc gia phát triển
nhưng họ lại chi tiêu nhiều hơn, và nền kinh tế của họ lại tăng trưởng
khá tốt trong giai đoạn 1996 to 2016. Điều gì làm cho có sự khác biệt
giữa các nhóm nền kinh tế này? Các nhà hoạch định chính sách trên
toàn thế giới đều đang đối mặt với thách thức này. Tổng thu thuế và
chi tiêu công có thể nói lên hiệu quả của chất lượng và năng lực của
một chính phủ. Hiện nay, mối quan hệ trong dài hạn giữa thu thuế,
chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế đang là một thách thức quan
trọng thu hút được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu để hỗ trợ
cho các nhà hoạch định chính sách ban hành được các chính sách tài
khóa phù hợp nhằm vận hành nền kinh tế và kiểm soát lạm phát
trong tương lai. Cho đến bây giờ câu trả lời cho câu hỏi: “Quản trị
nhà nước trong kiểm soát tham nhũng đã điều khiển tài chính công


2
và tăng trưởng kinh tế như thế nào?” vẫn đang là một thách thức cho
các nhà kinh tế trên toàn thế giới.
1.2.
Các mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Trước hết, luận án này kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa tài
chính công và tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, nhận diện mối quan hệ

nhân quả giữa thu thuế và chi tiêu tại các quốc gia phát triển và đang
phát triển. Thứ ba, luận án này đánh giá tác động của quản trị nhà
nước lên điều tiết sự ảnh hưởng của tài chính công lên tăng truwonrg
kinh tế theo các nhóm nền kinh tế khác nhau. Để đạt mục tiêu nghiên
cứu, luận án này cố gắng làm rõ các câu hỏi dưới đây:
(1) Tài chính công quan hệ như thế nào với tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn?
(2) Giữa thu thuế và chi tiêu công có mối quan hệ nhân quả lẫn
nhau hay không?
(3) Quản trị nhà nước điều tiết tác động của tài chính công lên
tăng trưởng kinh tế như thế nào?
1.3.
Phạm vi nghiên cứu
Luận án này điều tra mối quan hệ giữa thu thuế, chi tiêu
công và tăng trưởng kinh tế cho 82 quốc gia phát triển và đang phát
triển trong 21 năm từ 1996 đến 2016.
1.4.
Các phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, để trả lời câu hỏi nghiên cứu đầu tiên, luận án này
áp dụng phương pháp kiểm định đồng liên kết theo phương pháp của
Persyn and Westerlund’s (2008) để xác định sự tồn tại trong dài hạn
giữa thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế. Tiếp theo, việc
thực hiện kiểm định Granger giúp cho nghiên cứu này trả lời câu hỏi
nghiên cứu số hai. Ngoài ra để giảm thiểu sự sai chệch do giai đoạn
nghiên cứu phải chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính lớn, luận án
này áp dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SUR) và mô hình


3

SGMM hai bước để đo lường vai trò của quản trị nhà nước trong
việc điều tiết tác động của tài chính công lên tăng trưởng kinh tế.
1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Luận án sử dụng bộ số liệu bảng cân bằng cho 82 quốc gia
phát triển và đang phát triển từ 1996 đến 2016. Chúng tôi đã thu thập
các số liệu như Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ giá trị thương
mại trên tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ lạm phát và dòng tiền đầu tư
trực tiếp nước ngoài ròng từ bộ chỉ số phát triển thế giới từ cơ sở dữ
liệu của ngân hàng thế giới (WDI). Để đo lường vai trò quản trị nhà
nước, nghiên cứu này sử dụng chỉ số kiểm soát tham nhũng từ cơ sở
dữ liệu của ngân hàng thế giới – bộ chỉ số quản trị nhà nước (WGI)
và chỉ số cảm nhận về tham nhũng từ cơ sở dữ liệu của tổ chức Minh
bạch quốc tế (TI). Trong luận án này, tài chính công được đo lường
bởi tỷ lệ tổng thu thuế trên tổng sản phẩm quốc nội và tổng chi tiêu
công trên tổng sản phẩm quốc nội, số liệu này được thu thập từ cơ sở
dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) – trong bộ số liệu phân tích tài
chính nhà nước(GFS).
1.5.
Cấu trúc của luận án
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và phát triển các giả thuyết
Chương 3: Các phương pháp và dữ liệu nghiên cứu
Chương 4: Tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế:
Một phân tích trong dài hạn
Chương 5: Kết luận, hàm ý nghiên cứu và các hạn chế


4
CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ THUYẾT

2.1. Các khái niệm
2.1.1. Tài chính công
Tài chính công ảnh hưởng lên các hoạt động của nền kinh tế
mỗi ngày bởi vì mối quan hệ giữa chi tiêu của nhà nước trong việc
cung cấp hàng hóa công và năng lực thu thuế (Philips, 1957).
Wagner (1883) nhấn mạnh rằng tài chính công là khoa học nghiên
cứu về bản chất của một nền kinh tế tài khóa nó chú trọng vào hai
đặc điểm chính của nhà nước đó là thu nhập và chi tiêu, đó cũng
chính là thu thuế và chi tiêu công.
a)
Thu thuế
“Hillman (2009) đã cho rằng thu thuế bao gồm các loại thuế
khác nhau và nó là nguồn lực chính cung cấp cho việc chi tiêu của
chính phủ. Hơn nữa, tổng thu thuế có thể thay đổi khi tăng thuế suất.
Wellisch (2004) đã kiến nghị rằng các quốc gia thường thu thuế từ
việc sản xuất hàng hóa và điều này làm gia tăng gánh nặng thuế lên
công dân nước họ khi họ tiêu dùng các hàng hóa. Còn McGee (2008)
mô tẳ rằng thu thuế là một công cụ đánh giá năng lực của nhà nước
trong việc cải thiện nỗ lực thuế.”
b)
Chi tiêu công
Holley (2011) xác nhận rằng khi chính phủ sử dụng thu thuế
vào chi tiêu để thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng thì gọi là chi tiêu công.
Tại các quốc gia kém phát triển, chính phủ các nước thường đối mặt
với áp lực phát triển kinh tế nên họ thường tăng chi tiêu và như thế
họ phải tăng thu thuế để giúp họ có nhiều tiền hơn (Philips, 1957).”
2.1.2. Quản trị nhà nước và tham nhũng
Hague and Martin (2004) cho rằng quản trị nhà nước đại
diện cho các hoạt động ra quyết định tập thể. Chính vì vậy mà các tác
giả này cho rằng nhà nước ra quyết định phụ thuộc vào quyền lực

của người có quyền hành động hơn là quyền hành thực thi. Tuy
nhiên, một quan chức có thể tạo ra quyền lực của mình dài bao lâu là
phụ thuộc vào việc mọi người có chấp nhận các quyết định của anh
ta có đúng đắn hay không, chính vì vậy mà kiểm soát tham nhũng
giữ vai trò quan trọng trong quản trị nhà nước. Ngoài ra,
Dzhumashev (2014) cũng cho rằng tham nhũng đại diện cho chất


5
lượng của quản trị nhà nước và ảnh hưởng lên nền kinh tế tư nhân và
sản xuất hàng hóa công thông qua việc chính phủ sử dụng hiệu quả
của việc chi tiêu cũng như là việc kiểm soát chi phí sản xuất đến đâu.
2.1.3 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế giữ vai trò quan trọng trong xã hội và nó xác
định điều kiện sống của con người trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều
các lý thuyết về tăng truwonrg kinh tế. Nhìn chung thì khá nhiều các
nhà nghiên cứu đều dùng chỉ số thu nhập bình quân đầu người để đo
lường tăng trưởng kinh tế (xem d'Agostino và cộng sự, 2016). Biến
này nói lên đầy đủ năng lực của một nền kinh tế, nó còn liên quan
đến chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế đó.
2.2 Lý thuyết về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng
kinh tế
2.2.1 Lý thuyết về lựa chọn công
Lý thuyết này giải thích cách nhà nước và các chính trị gia
điều khiển nền kinh tế thông qua các công cụ. Lý thuyết này cung
cấp một cơ chế phân bổ nguồn lực (Stiglitz, 2000). Lý thuyết này đề
cập đến hai trường phái. Một trường phái cho rang nhà nước không
quan tâm đến lý thuyết “đánh đổi” vì vậy mà họ sẵn sàng thu thuế
nhiều lên hoặc chỉ cắt giảm chi tiêu để kiểm soát lạm phát; Một
trường phái khác lại cho rằng chính phủ luôn quan tâm đến lý thuyết

“đánh đổi” do đó họ luôn cố gắng tăng trưởng bằng cách đồng thời
thu thuế nhiều và cùng cắt giảm cả chi tiêu. Bên cạnh đó, lý thuyết
này đang tiếp tục thách thức các nhà nghiên cứu về mối quan hệ giữa
thu thuế và chi tiêu như thế nào cho hiệu quả nhất. Đây là vấn đề vẫn
chưa được giải quyết.
2.2.2. Lý thuyết về chi phí và lợi ích của thuế
Dasgupta and Pearce (1972) lưu ý rằng phân tích chi phí và
lợi ích (CBA) liên quan đến việc được mất của xã hội. Schmid
(2004) cũng cho rằng phân tích chi phí và lợi ích là một bộ công cụ
của nền kinh tế nhằm đánh giá ngân sách, chi tiêu công và các điều
luật. Đứng trên quan điểm phân tích chi phí và lợi ích, chúng ta biết
rằng lạm phát là một thách thức rất lớn cản trở việc tạo ra ngân sách
(McGee, 2008). Để kiểm soát lạm phát tốt hơn, chính phủ phải hiểu
thật rõ về mối quan hệ giữa thu ngân sách và chi tiêu công. Nói tóm
lại, cho đến hôm nay, lý thuyết về chi phí và lợi ích vẫn đang thách
thức các nhà nghiên cứu , những người quan tâm đến việc kiểm tra


6
mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công. Hầu hết các nghiên cứu
trước đây chưa làm rõ được các giả thuyết về mối quan hệ giữa tổng
thu thuế và tổng chi tiêu của các quốc phát triển và đang phát triển.
2.2.3. Lý thuyết về quản trị nhà nước
Quản trị nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức xã hội, thiết lập luật pháp và tăng trưởng kinh tế. Hơn thế, việc
giữ được cân bằng giữa thu nhập và chi tiêu vẫn đang là một thách
thức lớn với quản trị nhà nước. Cho đến bây giờ, hầu hết các lý
thuyết đều chỉ dừng ở việc xác định vai trò của tham nhũng hay quản
trị nhà nước trong một nền kinh tế hoặc với một thành phần nào đó
của thu thuế. Tuy nhiên tổng thu thuế và chi tiêu ngân sách lại là các

yếu tố quan trọng trong việc tạo ra ngân sách của một quốc gia và là
những yếu tố đầu vào của một nền sản xuất. Cả hai yếu tố này đều
đại diện nói lên năng lực của một nhà nước và sự hiện diện của mối
quan hệ giữa chúng với tăng trưởng kinh tế và quản trị nhà nước vẫn
đang cần dduwwojc làm sáng tỏ.”
2.2.4. Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế: hay còn gọi là lý thuyết nội
sinh và ngoại sinh
“Barro and Sala-i-Martin (2004) xác định rằng một tỷ lệ tăng
trưởng nhỏ của nền kinh tế cũng giữ một vai trò quan trọng trong
việc tạo ra tiêu chuẩn sống, do đó cách nhà nước chọn chính sách
đều có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng trong dài hạn. Bên cạnh đó, cả
thu thuế và chi tiêu công là hai yếu tố quan trọng của nền sản xuất.
Chúng nói lên năng lực của một nhà nước. Các tác giả này còn nhận
định rằng lý thuyết tân cổ điển và tăng trưởng ngoại sinh đã không
còn phù hợp để giải thích về tăng trưởng dài hạn. Theo các tác giả
này thì lý thuyết tăng trưởng nội sinh giải thích về mối quan hệ trong
dài hạn của tăng trưởng tốt hơn lý thuyết ngoại sinh và cho đến nay
lý thuyết tăng trưởng nội sinh vẫn đòi hỏi tiếp tục làm rõ mối quan
hệ của tài chính công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế.
2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa tài chính
công, quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế
2.3.1 Các nghiên cứu thực nghiệm giữa tài chính công và tăng
trưởng kinh tế
Trong những thập kỷ gần đây, nổi lên hai trường phái đánh
giá về mối quan hệ giữa tài chính công và tăng trưởng kinh tế. Một
trường phái vận dụng kiểm định nhân quả và đồng liên kết để thu


7
được những giải thích về mối quan hệ giữa cấu trúc thuế hoặc một

mảng chi tiêu công nào đó với tăng trưởng kinh tế (xem Azam và
cộng sự, 2015.) Trường phái thứ hai, có một nhóm các nhà nghiên
cứu thực hiện mô hình tăng trưởng nội sinh để giải thích mối quan hệ
giữa một thành phần nào đó của thu thuế haowjc một thành phần chi
tiêu công cho một mục đích gì đó với tăng trưởng. Từ thế kỷ 19 trở
lại đây hầu hết cá nhà nghiên cứu đều thấy rõ vai trò của tổng thu
thuế và chi tiêu công trong việc tạo lập ngân sách nhà nước. Mặt
khác một số tác giả cho rằng tài chính công (Thu thuế và chi tiêu) có
tác động dương hay âm lên nền kinh tế phụ thuộc vào từng phân loại
nền kinh tế (xem Azam và cộng sự, 2015). Trong khi đó, lại có
những tác giả cho rằng tài chính công phụ thuộc vào từng loại thuế
hoặc từng loại chi tiêu riêng rẽ chính vì vậy mà nó có tác động lên
nền kinh tế khá phức tạp (xem d'Agostino và cộng sự, 2016;
Stoilova, 2017). Một nhóm các học giả khác lại cho rằng giữa thu
thuế hoặc chi tiêu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế
(xem Azam và cộng sự, 2015). Xuất phát từ các lập luận này, chúng
ta thấy rằng chỉ có tổng thu thuế và chi tiêu công mới nói lên đầy đủ
năng lực của nhà nước. Ngoài ra, để hiểu được năng của nhà nước
cũng như tính hiệu quả của nó trong việc kiểm soát các hoạt động
kinh tế, các nhà nghiên cứu cần thiết phải xem xét và làm rõ hơn về
mối quan hệ giữa tổng thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế
bằng các mô hình. Hiện nay chúng ta thấy các nghiên cứu này chưa
có nhiều thậm chí là gần như không có.
2.3.2. Mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công
Thật không may, mô hình hiệu chỉnh sai số (EC) không chỉ
ra được hướng quan hệ nhân quả giữa thu thuế và chi tiêu. Hầu hết
các nhà nghiên cứu đều điều tra về mối quan hệ dài hạn giữa thu thuế
và chi tiêu công với những lý giải chưa thật rõ ràng và cho thấy sự
phức tạp của mối quan hệ này. Một bộ phận khá lớn các nghiên cứu
trước đó đều tập trung giải thích vai trò của một loại thuế hay một

loại chi tiêu với nền kinh tế mà thôi. Hầu hết các nghiên cứu này chỉ
dừng ở việc sử dụng kiểm định Granger và đồng liên kết để giải thích
về mối quan hệ này. Tóm lại, có thể thấy có 3 trường phái chính bàn
luận về sự tương tác của thu thuế và chi tiêu công. Một là, các tác giả
cho rằng giữa thu thuế và chi tiêu công có mối quan hệ nhân quả hai
chiều (xem Musgrave, 1966 và Chang và Chiang, 2009). Thứ hai,


8
trường phái “chi quyết định thu” cho rằng việc chính phủ chi tiêu là
nguyên nhân gốc rễ của sự thay đổi trong thu thuế (Friedman, 1978).
Cuối cùng là trường phái cho rằng “thu quyết định chi” , theo trường
phái này thì việc thu thuế làm nảy sinh việc nhà nước quản lý chi tiêu
(Hansan và cộng sự, 2012.) Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này
chỉ dừng ở việc xem xét với số liệu của các quốc gia thu nhập cao
hoặc số liệu của một quốc gia cụ thể để đi đến kết luận chứng minh
cho 1 trong số ba giả thuyết nêu trên. Hầu hết các nhà nghiên cứu
này dừng lại ở việc kiểm định với ba biến nghiên cứu chính đó là thu
thuế, chi tiêu và tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên chúng ta
đều biết rằng các hoạt động của mọt nền kinh tế có thể tăng hay giảm
không chỉ phụ thuộc vào thu hay chi mà còn phụ thuộc vào các biến
khác kinh tế vĩ mô khác như đầu tư, lạm phát, năng lực thương mại,
chất lượng và số lượng vốn con người. Để lấp vào khoảng trống này,
luận án đã bổ sung các biến kinh tế vĩ mô khác để thực nghiệm và
tiếp tục phân tích tác động của các yếu tố chính và sự tương tác của
nó với các biến kiểm soát.
2.3.3. Ảnh hưởng của quản trị nhà nước lên tài chính công và tăng
trưởng kinh tế
Dzhumashev (2014) lập luận rằng chi tiêu công phụ thuộc
vào hiệu quả của quản trị nhà nước và mức độ tham nhũng. Imam

and Jacobs (2007) đã áp dụng cả hai bộ chỉ số kiểm soát tham nhũng
và cảm nhận về tham nhũng và cho rằng tham nhũng chỉ ảnh hưởng
lên quản lý thuế mà thôi.
Tóm lại, hầu hết các nghiên cứu trước đây đều điều tra vai
trò của tham nhũng hoặc quản trị nhà nước trong mối quan hệ ngắn
hạn hoặc dài hạn của một thành phần của tài chính công là thu thuế
hoặc chi tiêu công với mô hình hồi quy những phương trình đơn lẻ
với các bộ số liệu thứ cấp của nhiều quốc gia mà thôi. Ngoài ra, quản
trị nhà nước và tài chính công có mối quan hệ phức tạp với tăng
trưởng kinh tế. Để giảm sai chệch do sự khác biệt giữa các quốc gia
chúng tôi áp dụng mô hình hệ phương trình đồng thời (SUR) để xác
định vai trò của quản trị nhà nước trong điều tiết tác động của thu
thuế và chi tiêu công lên tăng trưởng. Zellner (1962) xác nhận rằng
việc đánh giá hệ số của một bộ phương trình hồi quy sẽ giúp giảm sai
chệch do việc sử dụng dữ liệu vĩ mô khi hồi quy đơn.
2.4 Thiết kế khung phân tích và phát triển giả thuyết


9
Giả thuyết (1): Có mối quan hệ dài hạn giữa tài chính công và tăng
trưởng kinh tế.
Giả thuyết (2): Thu thuế và chi tiêu có mối quan hệ nhân quả lẫn
nhau.
Giả thuyết (3): Quản trị nhà nước điều tiết tác động của tài chính
công lên tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào loại nhóm nền kinh tế .
Mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau.
Tài chính công:
Thu thuế
Chi tiêu công


Tăng trưởng kinh tế:
Log GDP bình quân
đầu người

Quản trị nhà nước:
Kiểm soát tham nhũng

Hình 2.2: Khung phân tích mối quan hệ giữa tài chính công,
quản trị nhà nước và tăng trưởng kinh tế. Nguồn tác giả thiết kế.
2.5. Tóm tắt
Luận án này dựa trên lý thuyết chọn lựa công và lợi ích chi
phí của thuế để làm rõ mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công với
tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các nghiên cứu phân tích tác động của
tham nhũng trực tiếp lên tăng trưởng kinh tế, còn luận án này xem
xét tác động của quản trị nhà nước thông qua việc điều tiết tài chính
công lên tăng trưởng kinh tế như thế nào.


10
CHƯƠNG 3
CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
3.1. Các mô hình nghiên cứu
3.1.1 Mối quan hệ dài hạn giữa tài chính công và tăng trưởng kinh
tế:
Barro (1990) cho rằng chi tiêu được tính bằng thuế suất thuế
thu nhập ông đề xuất công thức:
𝑔
𝑔 = 𝑇 = 𝜏𝑦 = 𝜏. 𝑘. ∅ ( ),
(1)
𝑘


với g là chi tiêu công, T là thu thuế, 𝜏 là thuế suất thuế thu nhập, và
nó bị ảnh hưởng bới nguồn lực tài chính, 𝑦 đại diện cho kết quả của
nền kinh tế. Romero-Ávila and Strauch (2008) đã phát triển mô hình
này với thuế suất và tổng thuế T, chi tiêu cho sản xuất của chính phủ
là g và chi tiêu khác là G và đưa ra công thức:
𝑔 + 𝐺 = 𝜏. 𝑦 + 𝑇,
(2)
Barro và Sala-i-Martin (1992), dựa vào lập luận của Arrow
(1962) và Rome (1986), tuyên bố rằng sản lượng sản xuất theo nhân
công không chỉ phụ thuộc vào vốn con người k, mà còn phụ thuộc
vào sự lan tỏa tri thức hoặc các ý tưởng từ người lao động 𝑘̅, do đó
hàm sản xuất có thể viết lại như bên dưới:
̅̅̅𝛼
𝑦 = 𝐴. 𝑘 1−𝛼 (𝑘)
0 < 𝛼 < 1,
(3)
Bên cạnh đó, các tác giả này còn căn cứ vào nghiên cứu của
Samuelson (1954) và cho rằng tổng mua sắm của nhà nước G có thể
chịu ảnh hưởng bởi hàm sản xuất, do đó kết quả của nền kinh tế còn
được giải thích bằng phương trình dưới đây:
𝑦 = 𝐴. 𝑘1−𝛼 𝐺 𝛼 ,
(4)
Từ (3) và (4) đã thiết kế ra mô hình đánh giá tăng trưởng kinh tế:
𝑦 = 𝐴. 𝑘. (𝐺/𝐾)𝛼 ,
(5)
Barro và Sala-i-Martin (1992) đã chỉ ra rằng tỷ lệ tăng trưởng dài hạn
trong mô hình này là ∅ có thể được diễn đạt thành:
1⁄


∅ = (1 − 𝜏)(1 − 𝛼)𝐴 (1−𝛼) (𝑔/𝑦)𝛼/(1−𝛼) − 𝜇,
(6)
với  và 𝜇 là các hằng số phản ánh các tham số trong hàm hữu dụng,
tỷ lệ tăng trưởng sẽ giảm khi thuế suất tăng lên 𝜏, và tăng khi chi tiêu
cho công hiệu quả là g.


11
Mankiw, Romer and Weil (1992) xác định cách thức giải
thích tăng trưởng kinh tế như sau:
𝑦(𝑡) = 𝐾(𝑡)𝛼 𝐻(𝑡)𝛽 (𝐴(𝑡)𝐿(𝑡))1−𝛼−𝛽 0 < 𝛼 < 1, 𝛼 + 𝛽 < 1, (7)
với 𝑦(𝑡) là kết quả của nền kinh tế tại thời điểm t, K(t) là tài sản vật
chất, H(t) là tài sản nhân lực, và L(t) lực lượng lao động. Do, A(t)L(t)
không bao giờ dừng, họ đã giả định rằng tỷ lệ tăng trưởng của
A(t)L(t) là (n+g), khấu hao tài sản là 𝛿, 𝑠𝑘 là hệ số của thu nhập từ
đầu tư tài sản và 𝑠ℎ là hệ số của đầu tư cho tài sản con người, cho
nên họ thiết kế phương trình đánh tốc độ của thu nhập bình quân đầu
người như dưới đây:
𝑌(𝑡)
𝛼+𝛽
𝑙𝑛 [
] = 𝑙𝑛𝐴(0) + 𝑔𝑡 −
ln(𝑛 + 𝑔 + 𝛿)
𝐿(𝑡)
1−𝛼−𝛽
𝛼
𝛽
+
ln(𝑠𝑘 ) +
ln(𝑠ℎ ) ,

1−𝛼−𝛽
1−𝛼−𝛽
(8)
Aparicio, Urbano và Audretsch (2016) đã áp dụng hàm sản
xuất để xác định tăng truwonrg kinh tế theo phương trình sau:
𝑌𝑖𝑡
𝛽
𝛽
𝛽 𝛽
𝛽
= 𝛼𝑂𝐸𝑖𝑡1 𝐾𝑖𝑡2 𝑋𝑖𝑡3 𝐿𝐸𝑖𝑡4 𝐺𝐶𝑖𝑡5 ,
(9)
𝐿𝑖𝑡

với 𝑌𝑖𝑡 là đầu ra của nền kinh tế của quốc gia i tại thời điểm t, và
được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP); 𝐿𝑖𝑡 đại diện cho tổng
𝑌
lục lượng lao động (do đó 𝑖𝑡 đại diện cho năng suất lao động, một
𝐿𝑖𝑡

đại diện của tăng trưởng kinh tế); OEit đại diện cho một cơ hội kinh
doanh được hiến tặng; Kit là quốc gia i's hiến tặng vốn, Xit là giá trị
xuất khẩu, LEit đại diện cho kỳ vọng cuộc sống và GCit là tiêu dùng
cuối cùng của chính phủ.
Do đó, 𝑂𝐸𝑖𝑡 = 𝑓(𝐼𝐼𝑖𝑡 , 𝐹𝐼𝑖𝑡 , 𝑥𝑖𝑡 ),
(10)
với IIit and FIit là các vector đại diện cho việc kiểm soát tham nhũng
chính thức và phi chính thức và xit là vector kiểm soát cơ hội ảnh
hưởng kinh doanh tại quốc gia i tại thời điểm t.
Qua đoạn này, chúng ta nhận thấy hầu hết các nhà nghiên

cứu trước đó đều vận dụng hàm sản xuất của Cobb-Doulags và mở
rộng hàm này bằng việc thêm vào các biến kiểm soát để giải thích về
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu đều quan


12
tâm nhiều đến vai trò của nguồn lực vật chất hoặc vốn nhân lực hoạc
chi tiêu của chính phủ. Rất ít nhà nghiên cứu quan tâm đến vai trò tài
chính công trong mô hình tăng trưởng. Hơn thế, tài chính công ảnh
hưởng lên đầu vào của sản xuất và thu thuế còn ảnh hưởng lên môi
trường đầu tư của một quốc gia, cho nên việc nghiên cứu về mối
quan hệ của tổng thu thuế, chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn là việc vô cùng cần thiết.
3.1. 2 Mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu
Hendry và Richard (1982), Kremer và cộng sự (1992), và
Banerjee cùng cộng sự (1996, 1998) đã phát triển mô hình ECM để
xem xét mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu:
∆𝑌𝑡 = 𝛼 ′ ∆𝑋𝑡 + 𝛽(𝑌𝑡−1 ′ 𝑋𝑡−1 ) + 𝜖𝑡 ,
(11)
∆𝑋𝑡 = 𝑢𝑡
t = 1,…..T
(12)
Kao và Chiang (2000) cũng đã mở rộng mô hình này cho dữ
liệu bảng như sau:


𝑦𝑖,𝑡 = 𝑥𝑖,𝑡
𝛽 + 𝑧𝑖,𝑡
𝛾 + 𝑢𝑖,𝑡,
(13)

với {𝑦𝑖,𝑡 } là ma trận đơn vị 1x1, 𝛽 là ma trận k x1 vector của
các hệ số độ dốc, zi,t là thành phần của sai số {𝑢𝑖,𝑡 }, {𝑥𝑖,𝑡 } là ma trận
k x1 của quá trình tích hợp lần lượt các i, khi 𝑥𝑖,𝑡 = 𝑥𝑖,𝑡−1 + 𝜖𝑖,𝑡 ,
Tuy nhiên, để duy trì sự ổn định của nền kinh tế, chính phủ
phải kiểm soát lạm phát thông qua thu thuế và chi tiêu, chính vì vậy
mà một số tác giả sử dụng kiểm định Granger để xem xét mối quan
hệ nhân quả giữa hai biến này. Tranh luận về mối quan hệ này được
chia làm 3 trường phái (Xem 2.3.2). Để hỗ trợ các nhà hoạch định
của chính phủ, một câu hỏi được đặt ra đó là liệu có mối quan hệ
nhân quả 2 chiều giữa thu thuế và chi tiêu cho cả các nước phát triển
và đang phát triển hay không?
3.1.3. Mối quan hệ giữa quản trị nhà nước, thu thuế, chi tiêu công và
tăng truwonrg kinh tế
Acemoglu và cộng sự (2003) đã cố gắng gải thích sự khác
biệt về hiệu quả của nền kinh tế giữa các quốc gia thu nhập cao và
thu nhập thấp bằng việc bổ sung thêm biến thể chế vào mô hình:


𝑋𝑐,𝑡−1,𝑡 = 𝑄𝑐,𝑡−1,𝑡
. 𝛼 + 𝛽. 𝐼𝑐,𝑡=0 + 𝑍𝑐,𝑡−1,𝑡
. 𝛾 + 𝜃. 𝑙𝑛𝑦𝑐,𝑡−1 + 𝜖𝑐,𝑡−1,𝑡 ,
(14)


13
với 𝑋𝑐,𝑡−1,𝑡 kết quả của nền kinh tế vĩ mô c tại thời điểm t và t-1, kết
quả của nền kinh tế đo bằng độ lêch của thu nhập bình quân đầu

người. 𝑄𝑐,𝑡−1,𝑡
là một véc-tơ của chính sách vĩ mô của nước c tại thời


điểm t và t-1, 𝐼𝑐,𝑡=0 nói về thể chế khởi điểm, 𝑍𝑐,𝑡−1,𝑡
là các biến
kiểm soát, 𝑙𝑛𝑦𝑐,𝑡−1 là log của thu nhập bình quân đầu người tại thời
điểm ban đầu.
Bird, Martinez-Vazquez và Torgler (2008) đã thiết kế
phương trình đánh giá mức độ ảnh hưởng của tham nhũng lên nỗ lực
thuế như phương trình bên dưới.
𝑇𝐸𝑖 = 𝛼 + 𝛽1 𝑌𝑖 + 𝛽2 𝑃𝑂𝑃𝑖 + 𝛽3 𝑋𝑀𝑖 + 𝛽4 𝑁𝐴𝐺𝑅𝑖 + 𝛽5 𝐺𝑂𝑉𝑄𝑖 +
𝑅𝐸𝐺𝐼𝑂𝑁𝑖 + 𝜀𝑖,
(15)
với i là quốc gia i, 𝑇𝐸𝑖 là nỗ lực thuế của quốc gia i, Yi đại diện cho
thu nhập bình quân đầu người theo GDP, POPi là sự gia tăng dân số,
XMi là tỷ lệ giữa xuất và nhập khẩu, NAGRi đại diện cho sản phẩm
phi nông nghiệp, GOVQi đại diện cho chỉ số tham nhũng và trách
nhiệm giả trình của quốc gia i.
Ngoài ra, Cooray (2009) còn dung chất lượng của quản trị
nhà nước để diễn giải cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc mở
rộng mô hình của Mankiw, Romer và Weil (1992) như sau:
𝑦(𝑡) = 𝐴𝑘(𝑡)𝛼 ℎ(𝑡)𝛽 (𝑔(𝑡)𝑒𝜇𝜃 )𝛾 ,
(16)
với y(t) đại diện cho sản phẩm đầu ra theo người lao động; k(t) đề
cập đến vốn đầu tư tư nhân theo lao động; and h(t) nói về vốn con
người theo lao động. Kích cỡ nhà nước là g(t), và được đo bằng vốn
đầu tư cho chính phủ theo người lao động, và 𝜃 đo lường chất lượng
nhà nước.
Beekman, Bulte và Nillesen (2013) lập luận rằng tham
nhũng ảnh hưởng lên các hành vi kinh tế theo mô hình sau:
𝐸𝑐𝑜𝑛𝑜𝑚𝑖𝑐 𝑏𝑒ℎ𝑎𝑣𝑖𝑜𝑢𝑠𝑖𝑗 = 𝛼 + 𝛽𝑘 + 𝛽1 𝐶𝑜𝑟𝑟𝑢𝑝𝑡𝑗 +
𝛽2 𝐶𝑜𝑚𝑚𝑗 + 𝛽3 𝑋𝑖𝑗 + 𝜀𝑖𝑗,

(17)
với chỉ số I đại diện cho hộ gia đình I =1,….N và chỉ số j đại diện
cho cộng đồng j =1,…44, 𝛽1 đại diện cho lãi suất, và 𝛽𝑘 đề cập đến
ảnh hưởng cố định của một tỉnh thứ k=1,2, và 3.


14
3.3 Dữ liệu nghiên cứu
3.3.1. Xác định các biến phù hợp và nguồn dư xlieuej
“Trước hết, tỷ lệ giữa tổng thu thuế với GDP đại diện cho
biến “TaxGdp”. Thứ hai, biến “GexGDP” đại diện cho tỷ lệ chi tiêu
công với GDP. Dựa trên các nghiên cứu của d'Agostino và cộng sự
(2016), Acemoglu và cộng sự (2003, 2008), Johansson và cộng sự
(2008), và Kneller và cộng sự (1999), cũng như một số nhà nghiên
cứu trước đó, chúng tôi sử dụng GDP bình quân đầu người (được
tính toán dựa trên đồng tiền của Mỹ tại thời điểm 2010 làm cơ sở
tính toán). Để đạt được mục tiêu nghiên cứu thứ 3, một chỉ số “kiểm
soát tham nhũng” đã được thu thập từ việc đo lường chỉ số quản trị
nhà nước theo Kaufman và cộng sự (2011). Chỉ số này càng cao cho
thấy hiệu quả quản trị của nhà nước càng cao và nó nằm trong
khoảng từ –2.5 đến 2.5. Với mục đích kiểm định tính vững của mô
hình chúng tôi còn thu thập chỉ số cảm nhận về tham nhũng (CPI)
của các đơn vị kinh doanh do tổ chức minh bạch quốc tế tính toán.
Giai đoạn từ 1996 đến 2011 giá trị lớn nhất là 10, từ 2012 chỉ số này
dduwwojc thay đổi cách tính và giá trị lớn nhất là 100. Chỉ số càng
cao nói lên khu vực hay quốc gia đó không có tham nhũng. Xuất
phát từ lý do sự ổn định của nền kinh tế ảnh hưởng tới các hoạt động
kinh tế nên chúng tôi chọn chỉ số lạm phát hàng năm đại diện cho
trạng thái nền kinh tế. Trong luận án này chúng tôi chọn tỷ lệ giữa
dòng tiền ròng của đầu tư nước ngoài so với GDP của một quốc gia

để nói lên không khí đầu tư tại quốc gia đó. Các dữ liệu này được
chúng tôi thu thập từ cơ sở dữ liệu của ngân hàng thế giới trong bộ
các chỉ số phát triển thế giới (WDI).
Chỉ số phát triển con người HDI nói lên vốn nhân lực của
một quốc gia và được thu thập từ cơ sở dữ liệu của chương trình phát
triển liên hợp quốc(UNDP).
3. 4 Kiểm tra sự cân bằng của dữ liệu và các kiểm định cần thiết
Dựa trên tính chất bộ dữ liệu bảng rộng và dài, hơn nữa khi
dữ liệu không cân bằng dễ cho ra các sự sai chệch lớn, nên chúng tôi
tiến hành kiểm tra tính cân bằng của bộ dữ liệu để đảm bảo tính vững
trong phân tích (Wang và Yao, 2012). Bên cạnh đó, để trả lời cho


15
câu hỏi nghiên cứu số 1 và 2, luận án còn cần phải kiểm định tính
dừng của bộ số liệu để đảm bảo sự phù hợp của các kiểm định
Granger, kiểm định dài hạn và các phép hồi quy cần thiết. Để giảm
các sai chệch nói trên, nghiên cứu này áp dụng kiểm định nghiệm
đơn vị theo Harris-Tzavalis (HT) (1999) và Im-Pesaran-Shin (IPS)
(2003). Trong khi kiểm định IPS cho phép thực hiện với bộ số liệu
không cân bằng và không đòi hỏi hệ rho chung thì kiểm HarrisTzavalis (HT) (1999) lại giả thuyết rằng tất cả các bảng có cùng một
hệ số rho và nhỏ hơn 1 và giả định thời gian là cố định giống như
kiểm định của Levin-Lin-Chu.
3. 5 Chọn phương pháp phân tích phù hợp
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu số 1, nghiên cứu này thực hiện
kiểm định đồng liên kết bởi vì mô hình hiệu chỉnh sai số thường
được áp dụng để kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa các biến dừng
cũng như các biến không dừng mà có đồng liên kết(Ojede và
Yamarik, 2012). “.”
Giả định rằng i đại diện cho 1 quốc gia và t là thời đoạn, mối

quan hệ dài hạn có thể được trình bày như sau:
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛼0,𝑖 + 𝛼𝑖,𝑡 𝑃𝑖,𝑡 + 𝛽𝑖,𝑡 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡 + 𝑢𝑖,𝑡 ,
(1)
với 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 log của thu nhập bình quân đầu người theo GDP (biến

phụ thuộc), 𝛼0,𝑖 là hệ số của một quốc gia cụ thể, 𝛼𝑖,𝑡
là hệ số độ dốc,
𝑃𝑖,𝑡 và 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡 là các vec-tơ đại diện cho tài chính công và quản trị
nhà nước, và 𝑢𝑖,𝑡 sai số của quốc gia i tại thời điểm t.
Trong trường hợp xuất hiện mối quan hệ giữa các biến
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 , 𝑃𝑖,𝑡 và 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡 và sai số 𝑢𝑖,𝑡 là hệ số I(0) trong suốt quá trình
với tất cả các quốc gia i, chúng ta có thể viết lại phương trình với sự
phân phối độ trễ (ARDL) theo trình tự (p, q) như sau:
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛽1,𝑖 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + 𝛽2,𝑖 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−2 + ⋯ + 𝛽𝑝,𝑠 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−𝑝 +
𝜎𝑜,𝑖 𝑃𝑖,𝑡 + 𝜎1,𝑖 𝑃𝑖,𝑡−1 + ⋯ + 𝜎𝑞,𝑖 𝑃𝑖,𝑡−𝑞 +𝛾𝑜,𝑖 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡 + 𝛾1,𝑖 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡−1 +
⋯ + 𝛾𝑞,𝑖 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡−𝑞 + 𝜀𝑖 + 𝜗𝑖,𝑡 ,
(1.1)
với p là số lượng độ trễ của biến phục thuộc, và q là số lượng độ trễ
của biến độc lập. Sau đó, chúng ta có thể thiết kế lại mô hình hiệu
chỉnh sai số bằng phương trình sau:


16
∑𝑝−1
𝑗=1 𝛽𝑗,𝑖 ∆𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−𝑗

𝑞−1
∆𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 =
+ ∑𝑗=0 𝜎𝑗,𝑡 ∆𝑃𝑖,𝑡−𝑗 +
𝜇𝑖 [𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 − 𝜃0,𝑖 − 𝜃1,𝑖 𝑃𝑖,𝑡 ] + 𝜗𝑖,𝑡

(1.2)
𝑝−1
𝑞−1
∆𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = ∑𝑗=1 𝛽𝑗,𝑖 ∆𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−𝑗 + ∑𝑗=0 𝛾𝑖,𝑡 ∆𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡−𝑗 +

𝜋𝑖 [𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 − 𝛿0,𝑖 − 𝛿1,𝑖 𝐺𝑜𝑣𝑖,𝑡 ] + 𝜗𝑖,𝑡
(1.3)
với 𝛽𝑗,𝑖 𝛾𝑗,𝑡 và 𝜎𝑗,𝑡 là các hệ số ngắn hạn, 𝜃0,𝑖 , 𝜃1,𝑖 , 𝛿0,𝑖 và 𝛿1,𝑖 đại
diện cho các hệ số dài hạn, 𝜇𝑖 và 𝜋𝑖 đại diện cho tốc độ điều chỉnh
sai số trong phương trình cân bằng dài hạn.
“Với kiểm định đồng liên kết, nghiên cứu này dựa trên kỹ
thuật của Persyn & Westerlund’s (2008) đã được phát triển bởi
Westerlund (2007). Điều này cho phép kiểm tra đầy đủ tính không
đồng nhất trong dài hạn của mô hình hiệu chỉnh sai số. Giả thuyết
H0: ai = 0 với mọi i, (i= 1,…N) và giả thuyết H1: : ai < 0 với mọi I,
(i= 1,…N). Mô hình hiệu chỉnh sai số:
𝐷. 𝑦𝑖𝑡 = 𝑐𝑖 + 𝑎𝑖1 ∗ 𝐷. 𝑦𝑖𝑡−1 + 𝑎𝑖2 ∗ 𝐷. 𝑦𝑖𝑡−2 + ⋯ + 𝑎𝑖𝑝 ∗ 𝐷. 𝑦𝑖𝑡−𝑝
+𝑏𝑖0 ∗ 𝐷. 𝑥𝑖𝑡 + 𝑏𝑖1 ∗ 𝐷. 𝑥𝑖𝑡−1 + ⋯ + 𝑏𝑖𝑝 ∗ 𝐷. 𝑥𝑖𝑡−𝑝
+ 𝑎𝑖 (𝑦𝑖𝑡−1 − 𝑏𝑖 ∗ 𝑥𝑖𝑡−1 ) + 𝑢𝑖𝑡 ”
Kiểm định này sử dụng hệ số 𝐺𝑎 và Gt để kiểm tra giả thuyết
H0 với tối thiểu 1 i. Các phép thống kê này bắt đầu bằng việc lấy
trung bình các trọng số Ga riêng lẻ để đo lường 𝑎𝑖′ s và Gt đo lường tỷ số
t-lần lượt. Phép kiểm định này đòi hỏi phải loại bỏ được giả thuyết
(H0) để có bằng chứng về sự xuất hiện đồng liên kết của ít nhất 1 đơn
vị. Việc thống kê thu thập các số liệu Pa và Pt để cung cấp thông tin
trên hỗn hợp số liệu của tất cả các đơn vị với giả thuyết H0: ai = 0 với
mọi i, (i= 1,…N) và H1: : ai < 0 với mọi I, (i= 1,…N). với việc loại
bỏ H0 là cần thiết để xác nhận sự tồn tại của đồng liên kết cho toàn
bộ bảng dữ liệu..”
Bên cạnh đó, việc nhận diện hướng tương tác nhân quả giữa

thu thuế và chi tiêu công giúp nghiên cứu này có bằng chứng bổ sung
thêm vào giả thuyết đồng thời của chính sách tài khóa.
Gải thuyết H0 nhưu sau:
(𝑘)
𝐻0 : 𝛽𝑖 = 𝛽 (𝑘) ∀𝑖=1,……𝑁 , ∀𝑘=1,….,𝑝
(𝑘)

(𝑘)
𝐻1 : 𝛽𝑖 ≠ 𝛽𝑗 , 𝑘 ∈ {1, … . , 𝑝}, ∃(𝑖, 𝑗) ∈ {1, … . , 𝑁}
Kiểm định F tương ứng là:


17
(SRR 𝑘 − 𝑆𝑅𝑅1 )/𝑝(𝑁 − 1)
SRR1 /[𝑁𝑇 − 𝑁(1 + 𝑝) − 𝑝]
Phương trình thực nghiệm cho kiểm định Granger là:
𝑝
𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛽0 + ∑𝑘𝑖=0 𝛽1 𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + ∑𝑖=1 𝛿1 𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 +
𝜀𝑖 + 𝜗𝑖,𝑡 ,
(2.1)
𝑝
𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛾0 + ∑𝑘𝑖=0 𝛾1 𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + ∑𝑖=1 𝜃1 𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 +
𝜀𝑖 + 𝜗𝑖,𝑡,
(2.2)
𝑝
𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛽0 + ∑𝑘𝑖=0 𝛽1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + ∑𝑖=1 𝛿1 𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 +
𝜀𝑖 + 𝜗𝑖,𝑡 ,
(3.1)
𝑝
𝑘

𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛾0 + ∑𝑖=0 𝛾1 𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + ∑𝑖=1 𝜃1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + 𝜀𝑖 +
𝜗𝑖, 𝑡, (3.2)
𝑍=

𝑝
𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛾0 + ∑𝑘𝑖=0 𝛾1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖, 𝑡 − 1 + ∑𝑖=1 𝜃1 𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 +
𝜀𝑖 + 𝜗𝑖,𝑡,
(4.1)
𝑝
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛾0 + ∑𝑘𝑖=0 𝛾1 𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + ∑𝑖=1 𝜃1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + 𝜀𝑖 +
𝜗𝑖,𝑡,
(4.2)
trong đó 𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 là tỷ lệ thu thuế trên GDP của quốc gia thứ i
(i=1,…N) tại thời điểm t (t=1,…T), GEXgdp đại diện cho tỷ lệ chi
tiêu công trên GDP, k và p are các độ trễ. 𝜀𝑖 là sai số theo đặc điểm
riêng của từng quốc gia, còn 𝜗𝑖,𝑡 đại diện cho sai số quan sát được
với E(𝜗𝑖,𝑡 ) = 0.
Sau khi nhận diện được mối quan hệ đồng liên kết và hướng
quan hệ nhân quả giữa biến độc lập và biến phục thuộc nhằm trả lời
cho câu hỏi nghiên cứu 1 và 2, nghiên cứu này thực hiện hệ phương
trình đồng thời (SUR) (xem thêm Zellner, 1962,) để trả lời cho câu
hỏi nghiên cứu số 3. Mô hình này còn giúp kiểm tra vai trò của quản
trị nhà nước trong việc điều tiết sự ảnh hưởng của tài chính công lên
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Mô hình SUR đảm bảo sự tính
toán hiệu quả với phép hồi quy đồng thời và làm giảm sự sai chệch
do tính chất bộ số liệu thu thập từ nhiều quốc gia trải qua 2 cuộc
khủng hoảng.
Trong luận án này, M đại diện cho 3 phương trình, và 𝜇’th là
ba biến phụ thuộc lần lượt là 3 yếu tố như “thu thuế”, “chi tiêu công”



18
và “tăng trưởng kinh tế”. Các biến độc lập 𝑙𝜇 đó là “quản trị nhà
nước, lạm phát, FDI, và chỉ số phát triển con người”
Mô hình thực nghiệm để chạy mô hình SUR nhưu sau:
𝑢1
𝑇𝐴𝑋𝑔𝑑𝑝1
𝐺𝑜𝑣1
0 … 0 𝛽1
𝑢2
0 𝑖𝑛𝑓𝑙𝑎𝑡𝑖𝑜𝑛2 … 0 𝛽2
𝐺𝐸𝑋𝑔𝑑𝑝2
.
.
. . .
.
=
. + . ,
.
. . .
.
.
. . .
.
[
𝛽
]
[
𝑢
[ 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑀 ] [ 0 0 … 𝐻𝑑𝑖𝑀 ] 𝑀

𝑀]
(4.3)
𝑦𝑖,𝑗𝑡 = 𝑋𝑖,𝑗𝑡 𝛽𝑖,𝑗𝑡 + 𝑢𝑖,𝑗𝑡,
(4.4)
trong đó 𝑦𝑖,𝑗𝑡 là các biến phụ thuộc như tăng trưởng kinh tế
ký hiệu là (lrgdp), tổng thu thuế ký hiệu là (taxrev), và chi tiêu công
ký hiệu là (gexp) của quốc gia i tại thời điểm t, còn 𝑋𝑖,𝑗𝑡 đại diện cho
biến độc lập là “quản trị nhà nước ký hiệu là - Gov” và các biến kiểm
soát khác như lạm phát ký hiêu (infl), tỷ lệ dòng tiền ròng đầu tư trên
GDP ký hiệu (FDI), và chỉ số phát triển con người (hdi).
Thực hiện mô hình SUR và SGMM giúp cho nghiên cứu này
trả lời câu hỏi số 3 và giải quyết các vấn đề nội sinh liên quan.
Blundell và Bond (1998) chỉ ra rằng khi chuỗi đóng lại cho một bước
nhảy ngẫu nhiên thì tính toán GMM trở lên vững chắc hơn. Ngoài ra
hiệu quả của nền kinh tế có thể bị ảnh hưởng bởi biến phụ thuộc với
độ trễ đầu tiên, điều đó cho thấy xuất hiện hiện tượng nội sinh. Hơn
thế hiện tượng tự tương quan giữa các sai số cũng có thể xuất hiện,
𝜖𝑖𝑡 có thể viết lại thành: 𝜖𝑖𝑡 = 𝑉𝑖 + 𝑈𝑖𝑡 và độ trễ của biến phụ thuộc
̅𝑖 ), độ lệch
có thể liên quan tới việc chuyển đổi sai số (𝑈𝑖𝑡 − 𝑈
∆𝐿𝑅𝑔𝑑𝑝𝑖𝑡 cũng có thể liên quan tới sai số Ui,t-1 (Baltagi 2005). Do đó
để giải quyết hiện tượng nội sinh và tự tương quan, nghiên cứu thực
hiện mô hình SGMM 2 bước (Hsiao 2003 và Baltagi 2005).
Arrellano và Bond (1991), Baltagi (2005), D’Agostino, Dunne,
Pieroni (2012), và Sasaki (2015) cho rằng kỹ thuật SGMM với số
liệu bảng có thể giúp mô hình tăng trưởng nội sinh trở lên chặt chẽ
hơn khi so với mô hình cố định ảnh hưởng (FEM).


19

Trước khi thiết kế mô hình thực nghiệm, nghiên cứu này xác
định cách thức đo lường tăng trưởng kinh tế như sau:
𝑙𝑛𝑦(𝑡) − 𝑙𝑛𝑦(0) = (1 − 𝑒 −𝑡 )[𝑙𝑛(𝑦 ∗ ) − ln 𝑦(0)]
(5)
với y(0) là mức độ đầu ra của nền kinh tế theo lao động tại thời điểm
ban đầu, và y* đại diện cho xếp loại thu nhập của nền kinh tế,  tốc
độ hội tụ, và  = (1 -  -  - )(+  +). Mankiw và cộng sự (1992),
Barro & Sala-i-Martin (1992), Acemoglu cộng sự (2005, 2008), cũng
đều dùng GDP bình quân đầu người để đo lường tăng truwonrg kinh
tế. Dựa trên các nghiên cứu của Barro (1990) và Barro và Sala-iMartin (1992), chúng tôi xây dựng mô hình thực nghiệm đo lường
tăng trưởng kinh tế theo thu thuế, chi tiêu công, quan trị nhà nước và
các biến kiểm soát nhưu sau:
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + 𝛼2 𝐹𝐷𝐼𝑖,𝑡 + 𝛼3 𝐼𝑁𝐹𝐿𝑖,𝑡 +
𝛼4 𝐻𝐷𝐼𝑖,𝑡 + 𝛼5 𝑃𝑈𝐵𝑖,𝑡 + 𝛼6 𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 + 𝜗𝑖,𝑡
(5.1)
𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡 = 𝛼0 + 𝛼1 𝑙𝑟𝑔𝑑𝑝𝑖,𝑡−1 + 𝛼2 𝐹𝐷𝐼𝑖,𝑡 + 𝛼3 𝐼𝑁𝐹𝐿𝑖,𝑡 +
𝛼4 𝐻𝐷𝐼𝑖,𝑡 + 𝛼5 𝑃𝑈𝐵𝑖,𝑡 + 𝛼6 𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡 + 𝛼7 𝐺𝑂𝑉_𝑃𝑈𝐵𝑖,𝑡 + 𝜀𝑖,𝑡 + 𝜗𝑖,𝑡 , 5.2)
trong đó, 𝐹𝐷𝐼𝑖,𝑡 đại diện cho tỷ lệ dòng tiền ròng đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài trên GDP, 𝑖𝑛𝑓𝑙𝑖,𝑡 là tỷ lệ lạm phát của quốc gia i
(i=1,…N) tại thời điểm t (t=1,…T), ℎ𝑑𝑖𝑖,𝑡 là chỉ số phát triển con
người được khảo sát và tính toán bởi chương trình phát triển liên hợp
quốc (UNDP), 𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡 đại diện cho chỉ số quản trị nhà nước
dduwwojc đo bằng bộ chỉ số kiểm soát tham nhũng, 𝑃𝑈𝐵𝑖,𝑡 đại diện
cho tài chính công được đo bằng tỷ lệ của tổng thu thuế và tổng chi
tiêu trên GDP, và 𝐺𝑂𝑉_𝑃𝑈𝐵𝑖,𝑡 đại diện cho sự tương tác giữa quản
trị nhà nước với thu thuế và chi tiêu công.
3. 6 Kiểm định phi tuyến tính
Để kiểm định tính vững của phân tích thống kê chúng tôi xây
dựng gải thuyết H0 với giả thuyết giữa biến phụ thuộc và các biến
độc lập xuất hiện mối quan hệ phi tuyến.



20
CHƯƠNG 4
TÀI CHÍNH CÔNG, QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC, VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ: SỰ PHÂN TÍCH DÀI HẠN
4.1. dữ liệu nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng bộ số liệu bảng cân bằng (xem bảng 4.1 –
mô tả các biến).
Bảng 4.1
Mô tả các biến
Số
Ký hiệu quan
Trung
Độ lệch
Nhỏ
biến
sát
bình
chuẩn.
nhất
Lớn nhất
rgdp
1721 16593.04 19304.80 186.66 91617.28
FDI
1714
5.52
18.99
-43.46
451.72

INFL
1721
6.85
28.08
-27.63 1058.37
HDI
1721
0.74
0.79
0.26
32.83
TAXgdp 1721
30.31
11.65
8.05
57.41
GEXgdp 1721
32.66
11.67
10.03
65.10
CCI
1721
0.29
1.06
-1.53
2.47
CPI
1721
48.26

22.40
10.00
100.00
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Ngân hàng thế giới (NHTG)- WDI và WGI,
Cơ sở dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) - GFS , và cơ sở dữ liệu
của chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) - HDI.
Bảng 4.1 cho thấy có sự khác biệt rất lớn về thu nhập bình
quân đầu người giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển. Thu
nhập bình quân đầu người lớn nhất cao gấp 490 lần so với số bé nhất.
Tỷ lệ thu thuế cao nhất cũng gấp 7 lần so với số nhỏ nhất. Chỉ số
kiểm soát tham nhũng lớn nhất theo NHTG là 2.47 trong khi số nhỏ
nhất chỉ có-1.53. Thực tế này chỉ ra sự cần thiết phải tìm hiểu về mối
quan hệ giữa các biến này tại cả các nước phát triển và đang phát
triển.
Nghiên cứu này còn cung cấp bằng chứng của việc các biến
đều đạt được tính dừng thông qua kiểm định nghiệm đơn vị.


21
4.2. Mối quan hệ dài hạn giữa tài chính công và tăng trưởng kinh
tế
Thực hiện kiểm định đồng liên kết đã giúp nghiên cứu này trả
lời được câu hỏi nghiên cứu số 1 đó là tài chính công quan hệ như
thế nào với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn? Kết quả kiểm định này
đã cho thấy trong dài hạn giữa tài chính công và tăng truwonrg kinh
tế xuất hiện mối quan hệ đồng liên kết. Kết quả này giúp cho luận án
chứng minh được giả thuyết đầu tiên đó là giữa tài chính công và
tăng truwonrg kinh tế xuất hiện mối quan hệ dài hạn.
4.3.
Mối quan hệ giữa thu thuế và chi tiêu công

Vì kiểm định đồng liên kết không giúp xác định được hướng
quan hệ nhân quả giữa hai biến, nên nghiên cứu này vạn dụng kiểm
định Granger để tìm câu trả lời cho câu hỏi số hai đó là giữa thu thuế
và chi tiêu công có xuất hiện mối quan hệ nhân quả lẫn nhau hay
không?
Kết quả kiểm định đã cho thấy giữa thu thuế và chi tiêu công
xuất hiện mối quan hệ nhân quả hai chiều. Kết quả này ủng hộ giả
thuyết về chính sách tài khóa đồng thời. Giả thuyết này cũng đã được
các nhà nghiên cứu đi trước chứng minh nhưng chỉ với một loại thuế
hoặc một loại chi tiêu với số liệu của một nhóm nhỏ quốc gia mà
không phải là tổng thu thuế hay tổng chi tiêu cụ thể như: Musgrave
(1966), Meltzer và Richard (1981), Bohn (1991), và Chang và
Chiang (2009). Kết quả này đề xuất với các nhà hoạch định chính
sách cả ở quốc gia phát triển và đang phát triển cần ra các quyết
sách về thu thuế và chi tiêu đồng thời cùng lúc để kiểm soát lạm phát
và thúc đẩy nền kinh tế. Với phát hiện này, luận án đã chứng minh
được giả thuyết thứ (2): thu thuế và chi tiêu công có quan hệ nhân
quả lẫn nhau.
4.4. Kết quả kiểm tra vai trò của quản trị nhà nước trong điều
tiết ảnh hưởng của tài chính công lên tăng trưởng kinh tế
4.4.1 Vai trò của quản trị nhà nước trong điều chỉnh ảnh hưởng của
tài chính công lên tăng trưởng ở các nước đang phát triển
Để giải quyết hiện tượng nội sinh, nghiên cứu này áp dụng mô hình
SUR để xem xét ảnh hưởng của quản trị nhà nước lên tăng truwonrg


22
và ảnh hưởng của nó lên việc điều tiết ảnh hưởng của tài chính công
lên tăng trưởng. Ngoài ra SGMM còn giúp gia tăng hiệu quả của hồi
quy (Baltagi, 2005 và Roodman, 2009) do đó mà chúng tôi còn áp

dụng cả SGMM để thực hiện xem xét các tác động này.
Bảng 4.8
Trước khi thực hiện phân tích chúng tôi chia bộ số liệu ra
thành hai nhóm các nước phát triển và đang phát triển theo phân loại
của Ngân hàng thế giới thời điểm ngày 1 tháng 7 năm 2015.
Kết quả ảnh hưởng của quản trị nhà nước lên 44 quốc gia đang
phát triển

FDI

(SUR)

(SUR)

(SUR)

(SGMM)

(SGMM)

(SGMM)

lrgdp

lrgdp

lrgdp

lrgdp


lrgdp

lrgdp

0.064

***

(3.37)
INFL

-0.0003

(3.38)
*

(-0.67)
HDI
TAXgdp

5.921

***

-0.0004
(-0.98)
6.007

***


(34.36)

***

**

0.030

-0.025

0.010

0.026

(13.37)

5.991

***

(34.64)

0.318

(2.45)

-0.0003
1.972

***


(4.66)
***

(13.23)
***

0.008

***

(2.72)

-0.014

-0.0001
(-2.48)
3.145

***

(11.02)
0.027

0.082

(17.42)

_hằng số


2.603

3.448

(7.71)

0.031***
(6.24)
0.025

***

(6.44)

0.021***
(5.85)

***

***

0.042***

(7.22)
***

2.839***

(10.20)
0.015


***

(-3.30)

(6.79)

0.042

(1.86)

-0.0002***

***

(-4.13)
***

0.299***
(10.55)

*

***

*

CCI_GEX

0.272


***

(9.29)
**

(-2.95)

0.058

(5.09)
**

0.009

CCI_TAX

(-0.71)

0.013

(-5.77)
CCI

-0.0003

0.093

**


(2.76)
*

(2.58)

***

***

0.064

***

(3.37)
*

(33.36)
(6.56)
GEXgdp

0.065

***

3.016

***

(9.52)
1.929


***

2.409

***

2.387***

(15.87)

(18.05)

(17.13)

(6.12)

(8.27)

(8.78)

893

893

893

851

851


851

Số nhóm

44

44

44

Số công

43

43

43

Quan sát.

cụ


23
AR2

0.342

0.829


0.977

Hansen

0.430

0.704

0.557

Ghi chú

*

p < 0.1,

**

p < 0.05,

***

p < 0.01

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Ngân hàng thế giới (NHTG)- WDI và WGI,
Cơ sở dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) - GFS , và cơ sở dữ liệu
của chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) - HDI.
Bảng 4.8 cho thấy rằng quản trị nhà nước, thu thuế đều có
tác động dương lên tăng trưởng kể cả khi chúng đứng một mình hay

tương tác với nhau. Tuy nhiên chi tiêu công lại có tác động âm lên
tăng truwonrg khi nó đứng một mình nhưng nó trở lên hữu ích với
tăng trưởng khi nó tương tác với quản trị nhà nước, điều này cho
thấy tại các quốc gia phát triển rất cần công cụ kiểm soát tham nhũng
nhằm giúp cho chi tiêu công trở lên hiệu quả hơn. Ngoài ra, để đạt
hiệu quả từ mô hình SUR, chúng tôi chọn kiểm định tương quan
phần dư giữa các biến phụ thuộc và kết quả cũng cho thấy có sự
tương quan giữa các biến phụ thuộc như “tăng trưởng kinh tế” “Thu
thuế” và “Chi tiêu công” Bảng 4.8, còn xác nhận rằng tỷ lệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng là một biến có lợi cho tăng trưởng kinh tế,
sự không ổn định là một biến nguy hại với nền kinh tế.
4.4.2 Vai trò của quản trị nhà nước trong điều chỉnh ảnh hưởng của
tài chính công lên tăng trưởng ở các nước phát triển
Bảng 4.9
Kết quả ảnh hưởng của quản trị nhà nước lên 38 quốc gia phát
triển

FDI
INFL
HDI
TAXgdp

(SUR)
lrgdp
0.033**
(2.30)
-0.008**
(-3.07)
6.845***
(26.41)

0.011***
(4.22)

(SUR)
lrgdp
0.031**
(2.12)
-0.007**
(-2.99)
6.861***
(26.52)
0.011***
(4.50)

(SUR)
lrgdp
0.036**
(2.46)
-0.005*
(-2.16)
6.873***
(25.12)

(SGMM)
lrgdp
0.053***
(6.26)
-0.001
(-0.55)
6.784***

(36.41)
0.011***
(4.58)

(SGMM)
lrgdp
0.060***
(9.24)
-0.001
(-1.54)
6.974***
(28.34)
0.008
(1.94)

(SGMM)
lrgdp
0.045***
(5.38)
0.009***
(5.97)
7.354***
(28.22)


24
GEXgdp
CCI

-0.001

(-0.46)
0.274***
(16.21)

CCI_TAX

0.318***
(5.19)
-0.001
(-0.71)

CCI_GEX

3.333***
(16.83)
745

0.004***
(4.12)
3.311***
(15.99)
745

-0.001
(-0.36)
0.377***
(16.21)

3.038***
(15.68)

Quan sát
708
Số nhóm
38
37
Số công cụ
AR.2
0.778
Hansen
0.506
Ghi chú * p < 0.1, ** p < 0.05, *** p < 0.01
_Hằng số

3.384***
(18.16)
745

0.004*
(2.26)
0.006***
(3.63)

0.430***
(4.54)
-0.001
(-0.51)

2.901***
(15.03)
708

38
37
0.571
0.513

Nguồn: Cơ sở dữ liệu Ngân hàng thế giới (NHTG)- WDI và WGI,
Cơ sở dữ liệu của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) - GFS , và cơ sở dữ liệu
của chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) - HDI.
Khác với các nước đang phát triển, sự tương tác giữa quản trị
nhà nước và thu thuế tại các nước phát triển có tác động âm nhưng
không có ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Phát hiện này đề xuất rằng
chính quyền tại các quốc gia phát triển cần chú trọng vào các chính
sách tài khóa hơn là việc chống tham nhũng trong thất thu thuế.
Cả bảng 4.8 và 4.9 được trình bày trong chương này đã
chứng minh giả thuyết thứ (3): Quản trị nhà nước điều tiết ảnh
hưởng của tài chính công lên tăng trưởng phụ thuộc vào nhóm các
nền kinh tế
Để đảm bảo tính vững của mô hình, nghiên cứu này còn thu
thập bộ chỉ số đo lường cảm nhận về tham nhũng của các tổ chức
kinh doanh do tổ chức Minh bạch quốc tế khảo sát và tính toán để
kiểm định. Kết quả cho thấy nhất quán so với bộ chỉ số thu từ Ngân
hàng thế giới.

0.002*
(1.70)
0.011***
(6.43)

0.004***
(4.10)

2.508***
(13.55)
671
38
38
0.335
0.601


×