Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

An toàn thực phẩm theo pháp luật việt nam hiện nay từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.86 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỐC KHÁNH

AN TOÀN THỰC PHẨM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN QUỐC KHÁNH

AN TOÀN THỰC PHẨM
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, an toàn thực phẩm (ATTP) đang là vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội. Ở Việt Nam, tình hình ATTP trong cả nước, nhất là khu vực đô
thị đang tạo nhiều lo lắng cho người dân. Ai cũng biết sức khỏe là vốn quý
của mỗi con người và của toàn xã hội, do đó vấn đề ATTP ngày càng trở nên
nóng bỏng và được cộng đồng hết sức quan tâm.
Trong thời gian qua, công tác bảo đảm ATTP đã được các cấp các
ngành dành nhiều sự quan tâm và coi đây là một trong những nhiệm vụ hết
sức quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân. Tuy
nhiên công tác quản lý ATTP vẫn còn bộc lộ nhiều khó khăn, bất cập, vi
phạm về ATTP vẫn diễn ra thường xuyên, với tính chất mức độ ngày càng
tinh vi, nghiêm trọng. Việc nhận biết, phân biệt giữa thực phẩm đảm bảo an
toàn với thực phẩm không an toàn rất khó khăn.
Trước tình hình đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời
phát hiện, xử lý và ngăn chặn các hành vi vi phạm quy định về bảo đảm
ATTP là cần thiết. Việc xử lý kịp thời các vi phạm sẽ đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật và góp phần bảo vệ sức khỏe của người dân.
Với tầm quan trọng như vậy, năm 2010, Quốc hội đã ban hành Luật An
toàn thực phẩm. Ngày 04/01/2012, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam đã
phê duyệt Chiến lược quốc gia an toàn thực phẩm giai đoạn 2011 - 2020 và
tầm nhìn đến 2030. Riêng đối với TP Đà Nẵng, vừa qua Thủ tướng Chính phủ
đã ký Quyết định số 1268/QĐ-TTg ngày 25/8/2017 cho phép TP Đà Nẵng thí
điểm thành lập Ban Quản lý An toàn thực phẩm nhằm giúp việc cho UBND
TP trong tổ chức, thực thi pháp luật chuyên ngành về ATTP. Tuy nhiên thực

tế cho thấy, công tác quản lý ATTP vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
1


thách thức như: Một số quy định của pháp luật về ATTP còn chưa phù hợp
với thực tế, còn bộc lộ nhiều mâu thuẫn, chồng chéo; Công tác quản lý ATTP
còn nhiều yếu kém, việc phát hiện, xử lý các vụ việc vi phạm không kịp thời,
chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, ngăn ngừa vi phạm. Công tác xử lý
vi phạm chưa thực sự nghiêm, vẫn còn chưa chú ý đến việc xem xét xử lý cán
bộ, công chức vi phạm. Công tác tuyên truyền về ATTP còn hạn chế…
Những bất cập này có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân mang tính chủ
quan và khách quan, trong đó có nguyên nhân quan trọng là sự chưa hoàn
thiện của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực ATTP.
Đây chính là cơ sở để đề tài: “An toàn thực phẩm theo pháp luật
Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” được lựa chọn làm
đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
ATTP là vấn đề rất quan trọng đối với từng quốc gia, cũng như các địa
phương vì nó làm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của mỗi con người.
Tuy đóng vai trò rất quan trọng, song pháp luật về ATTP ở nước ta chỉ mới
được quan tâm trong thời gian gần đây và bắt đầu có một số nghiên cứu quy
mô nhỏ được thể hiện trong nhiều công trình khoa học công bố trên các
phương tiện như tạp chí chuyên ngành, sách, báo và luận văn... Có thể nêu ra
một số công trình sau đây:
-TS. Nguyễn Văn Cương (Chủ nhiệm), Báo cáo tổng hợp Kết quả dự
án điều tra cơ bản “Thực trạng thi hành pháp luật an toàn thực phẩm và vai
trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc đảm bảo thi hành” của Viện
Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) năm 2016
- Lê Thị Linh tác giả luận văn Thạc sĩ Luật học: "Thực hiện pháp luật
trong lĩnh vực An toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố Hà Nội" năm 2016.

- Tác giả Đặng Công Hiển với Luận văn Thạc sĩ "Pháp luật về kiểm soát

2


an toàn vệ sinh thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam", năm 2010.
- Tác giả Nguyễn Thị Minh với Luận văn thạc sĩ Luật học “Pháp luật
về An toàn thực phẩm - Từ thực tiễn Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắklắk”
năm 2017
Những công trình trên nhìn chung phần nào đã tập trung nghiên cứu
một số quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về ATTP, đồng
thời phân tích, những hạn chế và bất cập trong quá trình thực thi pháp luật về
ATTP. Ngoài ra hiện nay chưa có đề tài nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên
cứu một cách cơ bản và có hệ thống về ATTP theo pháp luật hiện nay từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng. Do đó, dưới góc độ thực tiễn của việc thực thi pháp
luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn Thành phố, công trình này có ý nghĩa
quan trọng, góp phần hoàn thiện và triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật
về an toàn thực phẩm, nâng cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa
phương trong công tác bảo đảm ATTP phục vụ cho sự nghiệp phát triển của
Thành phố.
Chính vì những lý do đó mà học viên muốn nghiên cứu để có thể kế
thừa những thành quả và kết quả của các công trình nghiên cứu trước, đồng
thời tìm ra những cái mới có thể ứng dụng vào thực tiễn nhiều hơn trong công
tác bảo đảm ATTP.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu cơ sở lý luận làm sáng
tỏ những vấn đề cơ bản về việc thực hiện pháp luật ATTP trên địa bàn Thành
phố Đà Nẵng trong bối cảnh chung của cả nước. Đánh giá thực trạng chung
về việc thực hiện pháp luật ATTP của Việt Nam, từ đó đưa ra những giải

pháp để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của thực tiễn, hoàn thiện hệ
thống pháp luật.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực tế cho thấy các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về
xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATTP chưa nhiều. Đề tài “An toàn thực phẩm
theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” được
nghiên cứu nhằm mục đích: đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi
hành pháp luật về ATTP gắn với thực tiễn Đà Nẵng, chỉ rõ những hạn chế, bất
cập để từ đó đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật về ATTP
và tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về ATTP trong giai đoạn hiện nay
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những vấn đề lý luận pháp luật về ATTP.
- Những quy định về pháp luật ATTP đang được áp dụng và thực hiện
tại thành phố Đà Nẵng.
- Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập của việc áp dụng quy
định pháp luật về ATTP trên thực tế tại thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện đối với tình hình áp
dụng những quy định pháp luật về ATTP trong thời gian vừa qua.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo đảm phù hợp với đối tượng, phạm vi và mục
đích nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như:

4


phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh.v.v…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp chủ yếu được sử dụng
nhằm làm rõ và khái quát các vấn đề lý luận pháp luật về ATTP. Các phương
pháp này cũng được sử dụng để làm rõ thực trạng pháp luật trong lĩnh vực
ATTP cùng với vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật về an toàn thực
phẩm. Đồng thời, các phương pháp này cũng được sử dụng khi đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về an
toàn thực phẩm.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp khác như
phương pháp lịch sử và phương pháp dự báo nhằm hỗ trợ quá trình đánh giá
thực trạng pháp luật và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về ATTP trong
thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là đề tài mới nhất được nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng từ cơ sở tổng hợp nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam, pháp luật của Việt Nam về đảm bảo ATTP. Do đó luận văn sẽ góp phần
về mặt lý luận cho việc xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật về ATTP
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cũng là cơ sở để các nhà nghiên cứu sau có thể vận dụng tiếp

tục nghiên cứu ở mức độ cao hơn để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về ATTP ngoài phạm vi thành phố Đà Nẵng và cũng là tài liệu để các cơ
quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo khi sửa đổi, bổ sung Luật xử lý vi

5


phạm hành chính, cũng như có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
những tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề đảm bảo ATTP.
7. Kết cấu của luận văn
Cấu trúc của luận văn này được chia làm 3 phần : Mở đầu, Nội dung và
Kết luận. Trong đó, Phần nội dung của luận văn chia thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về an toàn thực phẩm và pháp luật về
an toàn thực phẩm
Chương 2: Thực trạng bảo đảm ATTP trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng theo pháp luật hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả đảm
bảo ATTP trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Khái niệm và các biện pháp đảm bảo về an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm thực phẩm và an toàn thực phẩm
1.1.1.1. Thực phẩm
Thực phẩm, được hiểu theo nghĩa thông thường là những sản phẩm vật
chất được dung để con người ăn hoặc uống. Theo từ điển tiếng Việt thì thực

phẩm là “các thứ dùng làm món ăn như cá, trứng, thịt…”[21].
Thực phẩm hay còn được gọi là thức ăn là bất kỳ sản phẩm nào, bao
gồm chủ yếu các chất: chất đạm, chất béo và đường bột hoặc dạng nước, mà
con người hay động vật có thể sử dụng được, với mục đích là thu nạp các chất
dinh dưỡng nhằm nuôi sống cơ thể hay vì sở thích ăn uống [1].
Theo Khoản 20 Điều 2, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 thì, theo đó
thực phẩm được hiểu là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống
hoặc đã qua bảo quản, sơ chế, chế biến. Quy định này cũng tương tự với quy
định tại Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm 2003: Thực
phẩm được giải thích là các sản phẩm mà con người có thể ăn, uống ở dạng
tươi, sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản. Những thực phẩm thông dụng này
trong cuộc sống của con người có thể kể đến chính là trứng, thịt, thủy sản,
sữa, ngũ cốc, rau, củ, quả, mật ong, đường, muối, cacao, hạt tiêu, dầu ăn thực
vật, bánh kẹo và các đồ uống có cồn (như rượu, bia) hoặc không có cồn (như
nước giải khát, nước uống đóng chai, nước khoáng từ thiên nhiên v.v…). Tuy
nhiên, các loại mỹ phẩm, thuốc lá và cũng như các loại dược phẩm khác thì
không được coi là “thực phẩm” theo nghĩa của Luật an toàn thực phẩm năm
2010.
7


Trong thực tế, thực phẩm có nhiều loại. Chẳng hạn, Luật an toàn thực
phẩm năm 2010 có đề cập tới một số loại thực phẩm đặc biệt như:
- Thực phẩm tươi sống là thực phẩm chưa trải qua chế biến bao gồm
thịt, trứng, cá, rau, củ, quả tươi, thuỷ hải sản, và các thực phẩm khác chưa
qua chế biến.
- Thực phẩm giúp tăng cường các chất dinh dưỡng là thực phẩm được
bổ sung vitamin, chất vi lượng, chất khoáng, nhằm phòng ngừa, khắc phục sự
thiếu hụt các chất đó đối với sức khỏe con người hay nhóm đối tượng cụ thể
trong cộng đồng.

- Thực phẩm chức năng là một loại thực phẩm được dùng để hỗ trợ
chức năng của cơ thể con người, làm cho cơ thể tình trạng được thoải mái,
hạn chế bớt nguy cơ mắc bệnh, đồng thời giúp tăng sức đề kháng, bao gồm
thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y học.
- Thực phẩm biến đổi gen là loại thực phẩm có một hoặc nhiều thành
phần nguyên liệu có gen bị biến đổi bằng công nghệ.
- Thức ăn đường phố là loại thực phẩm được chế biến sẵn hay sẵn sàng
chế biến dùng để ăn, uống ngay trong thực tế được thực hiện thông qua một
số hình thức như bán rong, bày bán trên vĩa hè lề đường, khu đông dân cư,
nơi công cộng hoặc những nơi tương tự.
- Thực phẩm bao gói sẵn là loại thực phẩm được bao gói và ghi nhãn
mác hoàn chỉnh, sẵn sàng để bán trực tiếp cho mục đích tiếp tục chế biến hoặc
con người có thể sử dụng để ăn ngay.
- Thực phẩm đã qua chiếu xạ là loại thực phẩm đã được chiếu xạ bằng
nguồn phóng xạ để xử lý và ngăn ngừa sự biến chất của thực phẩm.
Thực phẩm là một trong những loại tư liệu sinh hoạt tiêu dùng quan
trọng hàng đầu, cũng là loại sản phẩm thiết yếu dùng để duy trì tồn tại và sự
phát triển của cá nhân, gia đình, cộng đồng người và mỗi quốc gia. Sức khỏe

8


và sự thịnh vượng của cá nhân, con người, cộng đồng và mỗi quốc gia có liên
quan mật thiết tới số lượng và chất lượng thực phẩm mà cá nhân, gia đình,
cộng đồng hoặc quốc gia đó đã và đang tiêu thụ [27].
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, ngày nay càng có
nhiều loại thực phẩm mới được sản xuất và cung ứng cho người tiêu dùng.
Trong số các loại thực phẩm mới được sản xuất nhờ ứng dụng của những
thành tựu khoa học và công nghệ phải kể đến hàng loạt các loại thực phẩm
chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng và thực phẩm biến đổi

gen như đã được đề cập.
Tuy nhiên, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào lĩnh
vực sản xuất và kinh doanh dịch vụ cũng tạo ra mối lo ngại về những rủi ro
mà việc ứng dụng khoa học và công nghệ mang lại, trong đó có những rủi ro
liên quan tới thực phẩm biến đổi gen, thực phẩm được sản xuất dựa vào sử
dụng các loại chất tăng trọng, các loại hóa chất bảo quản v.v.
Thực phẩm có đặc tính rất quan trọng là thông thường hàm lượng dinh
dưỡng, độ an toàn của thực phẩm thường sẽ có xu hướng giảm dần qua thời
gian. Vì vậy mà thời hạn sử dụng của mỗi loại thực phẩm sẽ khác nhau. Thời
hạn sử dụng thực phẩm theo quy định tại khoản 12 Điều 2 Luật An toàn thực
phẩm 2010 là thời hạn mà thực phẩm vẫn giữ được giá trị dinh dưỡng và bảo
đảm an toàn trong điều kiện bảo quản được ghi trên nhãn theo hướng dẫn của
nhà sản xuất.
Thực phẩm là sản phẩm đầu ra trong quá trình sản xuất sẽ do rất nhiều
chủ thể khác nhau tiến hành. Luật an toàn thực phẩm năm 2010 quy định “sản
xuất thực phẩm là việc thực hiện một số hoặc tất cả các hoạt động trồng trọt,
đánh bắt, khai thác, chăn nuôi, thu hái, chế biến, bao gói, sơ chế, bảo quản để
tạo ra thực phẩm”. Theo khoản 16 Điều 2 Luật an toàn thực phẩm 2010 có
giải thích thêm về “sơ chế thực phẩm” với nghĩa là việc xử lý sản phẩm trồng

9


trọt, chăn nuôi, đánh bắt, khai thác, thu hái, nhằm tạo ra thực phẩm tươi sống
có thể ăn ngay hoặc tạo ra nguyên liệu thành phẩm hoặc bán thành phẩm cho
khâu chế biến thực phẩm. Bên cạnh đó, để thực phẩm có thể đi đến tay người
tiêu dùng, thường thì thực phẩm phải đi qua công đoạn kinh doanh thực
phẩm. Theo quy định tại khoản 8 Điều 2 Luật an toàn thực phẩm quy định
kinh doanh thực phẩm là việc thực hiện hoạt động giới thiệu, dịch vụ vận
chuyển, dịch vụ bảo quản hoặc buôn bán thực phẩm.

Như vậy, có thể nói, những loại hành vi cơ bản của các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm thực hiện trong chuỗi cung ứng thực
phẩm đến người tiêu dùng gồm: trồng trọt/chăn nuôi, thu hái/ đánh bắt/khai
thác, sơ chế/ chế biến, bao gói, bảo quản, vận chuyển, giới thiệu, buôn bán
thực phẩm. Đây cũng là chuỗi hành vi mà pháp luật VSATTP hướng tới để
điều chỉnh, nhằm kiểm soát bảo đảm sự an toàn của thực phẩm khi đến với
người tiêu dùng, vì sự an toàn sức khỏe, tính mạng, cũng như lợi ích của
người tiêu dùng.
Về góc độ kinh tế, thực phẩm là một trong những ngành công nghiệp
rất lớn trên thế giới với tổng giá trị gia tăng của ngành này có thể lên tới hàng
ngàn tỷ USD. Những thương hiệu thực phẩm lớn trên thế giới có thể kể đến
như Nestlé, PepsiCo, Unilever, Kraft, DuPont v.v… Ở Việt Nam, cùng với
quá trình phát triển kinh tế thị trường, nhiều thương hiệu thực phẩm cũng đã
hình thành và ngày càng có uy tín trong đời sống dân cư, trong đó phải kể đến
các thương hiệu kinh doanh thực phẩm như Kinh đô, Vinamilk, Vissan v.v...
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, do mức độ phát triển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản còn khá hạn
chế, những chuỗi cung ứng thực phẩm ở Việt Nam vẫn còn mang nặng những
nét đặc trưng của nền kinh tế tiểu nông, tiểu thương.

10


1.1.1.2. An toàn thực phẩm
An toàn thực phẩm được hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học
dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, lưu trữ và bảo quản thực phẩm mang tính
phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. An toàn thực phẩm cũng bao gồm
một số thao tác dưới dạng thói quen, trong khâu chế biến được thực hiện để
tránh nguy cơ sức khỏe bị ảnh hưởng trầm trọng. Hiểu theo nghĩa rộng, ATTP
là toàn bộ những vấn đề cần xử lý liên quan đến việc đảm bảo an toàn vệ sinh

đối với thực phẩm nhằm đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. [2]
Việc sử dụng thực phẩm là hoạt động không thể thiếu liên quan đến sự
tồn tại của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và cả cộng đồng, nhưng việc sử dụng
thực phẩm không an toàn có thể gây hại rất lớn cho các cá nhân, các gia đình
và toàn cộng đồng.
Ta có thể dễ nhận thấy rằng những gây hại đối với mỗi con người khi
tiêu thụ những thực phẩm không an toàn như: làm cho sức khỏe sẽ bị giảm
sút, gây nên nhiều bệnh tật, thậm chí còn có thể gây ra tử vong. Bởi vậy, vấn
đề ATTP luôn là một trong những yêu cầu, mong muốn hàng đầu của mỗi
người, mỗi gia đình khi tiêu thụ thực phẩm.
Theo định nghĩa của Tổ chức Nông - Lương thế giới (FAO) và Tổ chức
Y tế thế giới (WHO) thì “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm thực phẩm
không gây hại cho sức khỏe cũng như tính mạng người sử dụng thực phẩm,
bảo đảm thực phẩm không bị hỏng, không chứa các tác nhân vật lý, hóa học,
sinh học hoặc tạp chất quá giới hạn cho phép, không phải là sản phẩm của
động vật, thực vật bị bệnh có thể gây hại cho sức khỏe của người sử dụng”.
Vì vậy, ATTP là tất cả các biện pháp, điều kiện cần thiết từ khâu sản xuất,
chế biến, bảo quản đến việc phân phối cũng như sử dụng nhằm đảm bảo làm
sao cho thực phẩm luôn luôn được sạch sẽ, an toàn, không gây hại cho sức
khỏe, tính mạng của con người. Như vậy, ATTP là công việc đòi hỏi sự tham

11


gia của nhiều ngành có liên quan đến thực phẩm như: nông nghiệp, cơ sở chế
biến và kinh doanh thực phẩm, y tế và cả người tiêu dùng.
Tuy ATTP là một trong những điều kiện thiết yếu để con người có cuộc
sống bình thường nhưng bảo đảm ATTP không hề là công việc dễ dàng. Tình
hình mất ATTP diễn biến hết sức phức tạp ngay cả các nước phát triển chứ
không riêng ở những nước đang phát triển. Ví dụ như ở Trung Quốc, phải kể

tới vụ bê bối sữa năm 2008 trong đó các loại sữa bột dành cho trẻ em bị
nhiễm độc melamine dẫn đến hậu quả là có khoảng 300.000 trẻ em đã bị
nhiễm, trong đó có hàng chục ngàn trẻ em phải nằm viện và có 6 trẻ em bị
chết vì bị suy thận từ việc sử dụng sản phẩm sữa bị nhiễm độc melamine. Từ
vụ việc này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đối với người tiêu dùng Trung Quốc
làm mất lòng tin về chất lượng và độ an toàn của các sản phẩm sữa được sản
xuất ở quốc gia này [28]. Năm 2013, cả châu Âu chấn động bởi vụ bê bối thịt
giả khi các nhà chức trách phát hiện trong thịt bò có chứa chất DNA của ngựa
được bày bán tại các siêu thị ở Ireland và Anh [29].
Ở Việt Nam, việc tiêu thụ thực phẩm không an toàn và ngộ độc thực
thẩm cũng là một trong những mối lo chung của người tiêu dùng thực phẩm,
tình hình ngộ độc thực phẩm luôn diễn biến phức tạp, năm nào cũng có nạn
nhân ngộ độc thực phẩm thậm chí dẫn đến tử vong. Theo số liệu báo cáo của
Cục An toàn thực phẩm, thuộc Bộ Y tế, trong năm 2013, cả nước có 167 vụ
ngộ độc thực phẩm, trong đó số người bị mắc là 5.558 người phải đi viện và
số nạn nhân bị ngộc độc tử vong là 28 người. Đến năm 2014, 189 vụ ngộ độc
thực phẩm với hơn 5.100 người mắc, 4.100 người đi viện và đã có 43 trường
hợp tử vong [12].
Trong những năm qua, công tác bảo đảm VSATTP được nước ta rất
quan tâm cả về công tác hoàn thiện thể chế, cũng như củng cố bộ máy thực thi
pháp luật về ATTP đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, truyền thông

12


nâng cao nhận thức cho người dân nhận biết rõ về tầm quan trọng của ATTP
đối với cuộc sống của mỗi người dân cũng như đối với lợi ích chung của quốc
gia. Tuy nhiên, thực trạng đảm bảo ATTP vẫn còn nhiều bức xúc trong nhân
dân như: chưa kiểm soát và ngăn chặn tình trạng sản xuất kinh doanh của một
số nơi đối với các loại rau, củ, quả bị nhiễm hoá chất độc hại; thịt gia cầm, gia

súc, hải sản của các cơ sở sản xuất kinh doanh còn dư lượng kháng sinh, hóc
môn; việc sử dụng các hoá chất, phụ gia bừa bãi không theo đúng quy định
trong chế biến, bảo quản thực phẩm; chưa được quản lý tốt và chặc chẽ việc
kinh doanh thực phẩm và dịch vụ ăn uống tại các chợ, trường học, lễ hội, khu
du lịch, bệnh viện, ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn tập thể vẫn thường
xuyên xảy ra làm ảnh hưởng tới sức khoẻ và ảnh hưởng tới phát triển kinh tế
xã hội, dịch vụ du lịch. Tình trạng thực phẩm giả, không đảm bảo chất lượng,
hàng nhập lậu qua biên giới chưa được kiểm soát chặt chẽ; các vi phạm pháp
luật về ATTP chưa được xử lý kịp thời, nghiêm minh.
1.1.2. Các biện pháp bảo đảm an toàn thực phẩm
Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm thì công tác phòng ngừa ngộ
độc thực phẩm luôn là nhiệm vụ trọng tâm. Các biện pháp đề phòng ngộ độc
thực phẩm phải được áp dụng từ khâu sản xuất, nuôi trồng đến chế biến bảo
quản và sử dụng, thực phẩm phải được an toàn từ trang trại đến bàn ăn.
1.1.2.1. Đối với người sản xuất, chế biến thực phẩm
Người sản xuất, chế biến thực phẩm phải là “người sản xuất thực phẩm
có lương tâm”, tuân thủ nghiêm ngặt các qui định của Nhà nước, sản xuất, chế
biến, kinh doanh thực phẩm theo Luật An toàn thực phẩm. Việc sử dụng hóa
chất, kháng sinh trong chăn nuôi, trồng trọt phải đúng loại, đúng liều lượng,
đúng lúc và đúng cách. Không sử dụng phân tươi bón ruộng, nuôi cá. Việc
giết mổ gia súc, gia cầm phải qua kiểm soát của cơ quan thú y; không buôn
bán, vận chuyển, chế biến gia súc, gia cầm bị bệnh. Người sản xuất, chế biến,

13


kinh doanh thực phẩm phải cập nhật kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm,
được kiểm tra sức khoẻ định kỳ và đảm bảo không mắc các bệnh truyền
nhiễm liên quan đến chế biến thực phẩm. Thường xuyên giữ vệ sinh cá nhân,
vệ sinh trong chế biến, từ bỏ các thói quen mất vệ sinh như dùng tay bốc thực

phẩm, xì mũi, ngoáy tai... Phải mang khẩu trang, bảo hộ đúng cách; rửa tay
bằng xà bông và nước sạch đúng cách sau khi đi vệ sinh hay tiếp xúc với vật
bẩn, trước và sau khi chế biến thức ăn. Cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm
phải đảm bảo môi trường luôn sạch và khô ráo. Rác, thức ăn thừa, nước thải
phải được xử lý triệt để, cống rãnh sạch thoáng. Thiết bị, dụng cụ chế biến
thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, không để ruồi, kiến, gián, chuột, bụi tiếp xúc…
Thực phẩm phải chế biến theo qui trình một chiều, từ sơ chế đến tinh
chế, nấu nướng, bảo quản và sử dụng. Không để nhiễm ngược hay nhiễm
chéo giữa các thực phẩm, giữa thực phẩm sống với thực phẩm chín. Dụng cụ
chế biến thực phẩm sống, chín phải riêng biệt; Không được chế biến thực
phẩm dưới đất hay sát nền nhà. Thực phẩm phải chế biến đúng cách và phải
được nấu kỹ. Các loại rau quả phải được ngâm kỹ, rửa bằng nước sạch dưới
vòi nước chảy. Các loại quả nên gọt vỏ trước khi ăn. Sử dụng phụ gia hay
phẩm màu đúng loại, đúng liều lượng, đúng danh mục cho phép của Bộ Y tế.
Thực phẩm sau khi chế biến nên dùng ngay. Bảo quản thực phẩm nóng
ở nhiệt độ > 60 độ C, thực phẩm lạnh < 5 độ C. Thực phẩm nấu chín nên ăn
ngay, sau 2 giờ phải đun kỹ lại trước khi ăn. Thực phẩm sau khi chế biến
được che đậy cẩn thận, không để động vật, côn trùng tiếp xúc hay đến gần,
không để bụi rơi vào thực phẩm. Cần có đủ nước sạch để chế biến, vệ sinh
dụng cụ, vệ sinh cơ sở và cho khách hàng sử dụng.
1.1.2.2. Đối với người tiêu dùng
* Khi mua thực phẩm
Nên mua các thực phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, kể cả về

14


người bán và người sản xuất. Trên thực phẩm cần có nhãn mác, thông tin mô
tả cụ thể, có đăng ký cơ cơ quan quản lý. Yêu cầu này không chỉ đặc biệt cần
thiết với các thực phẩm đã qua sơ chế, chế biến mà cũng cần thiết với các

thực phẩm tươi sống.
- Chọn các thức ăn được đóng gói trong các bao bì, hộp, hoặc lon
trước. Không chọn các hộp, lon thức ăn có vỏ bị phồng, lõm hoặc chai, lọ bị
nứt, nắp lỏng hoặc phồng.
- Không mua các loại trai, sò (trai, sò, ngao, hến,...) để ăn sống. Khi
mua các loại trai sò, chỉ mua loại có nguồn gốc rõ ràng, tin cậy. Nếu bạn
muốn đánh bắt các loại trai sò thì cần chú ý về độ an toàn vệ sinh của nước
khu vực đánh bắt (ví dụ không đánh bắt hải sản khi nước vùng biển đó có
hiện tượng thuỷ chiều đỏ vì các hải sản đó có thể chứa các loại tảo độc).
- Mua trứng được bảo quản lạnh, trước khi mua kiểm tra xem vỏ trứng
có nguyên vẹn và sạch không.
- Không mua các hải sản đông lạnh nếu bao gói bị mở, rách hoặc mép
bị nát. Nếu có thể nhìn được qua vỏ bao gói thì xem bên trong có tuyết hoặc
băng không, đây là dấu hiệu cho thấy thực phẩm đã được bảo quản trong thời
gian kéo dài hoặc đã bị phá đông sau đó được làm đông lại.
- Vẫn tiếp tục giữ thực phẩm đông lạnh hoặc loại dễ ôi thiu được
đông lạnh từ khi mua đến khi bạn mang về nhà nếu thời gian này kéo dài hơn
1 giờ.
- Kiểm tra vệ sinh của quầy bán thực phẩm, đặc biệt là quầy bán thịt,
cá.
* Bảo quản thực phẩm an toàn
- Bảo quản lạnh hoặc đông lạnh các thực phẩm loại dễ ôi thiu ngay khi
bạn mang về nhà. Nhiệt độ bảo quản lạnh là 5 độ C (chỉ có thể làm chậm sự
phát triển của vi khuẩn gây bệnh) và đông lạnh là - 18 độ C (âm 18 độ C, có

15


thể làm ngừng sự phát triển của vi khuẩn nhưng vi khuẩn đó nếu có vẫn
không bị chết). Kiểm tra các nhiệt độ này định kỳ bằng loại nhiệt kế đặc biệt

dùng cho tủ lạnh.
- Gói thật kín các thực phẩm chuẩn bị bảo quản đông lạnh, cần để các
phần còn thừa trong các dụng cụ chứa đựng kín.
- Để trứng trong các khay riêng và đặt trong tủ lạnh. Không đặt trứng
trên cánh cửa tủ lạnh.
- Luôn bảo quản lạnh hoặc đông lạnh hải sản cho tới khi chế biến.
- Không để quá nhiều thực phẩm trong tủ lạnh làm không khí trong tủ
lạnh kém lưu thông dẫn tới giảm tác dụng bảo quản của tủ lạnh. Kiểm tra các
dụng cụ chứa đựng thực phẩm để tránh dò rỉ. Nếu thực phẩm nghi ngờ bị ôi
thiu thì cần bỏ đi.
- Nhiều loại thực phẩm không phải là thịt, cá, rau hoặc các sản phẩm
từ sữa vẫn cần được bảo quản lạnh, nếu không có thể bị hỏng.
* Đảm bảo các biện pháp vệ sinh ATTP trong chế biến
- Rửa tay bằng nước ấm và xà phòng trong thời gian ít nhất 20 phút
trước khi chế biến thức ăn và sau khi tiếp xúc thịt, cá tươi. Nếu trong khi đang
chế biến phải tạm ngừng để làm việc khác thì trước khi quay trở lại công việc
chế biến cũng phải rửa tay lại.
- Tóc dài thì cần đeo mũ chùm đầu. Băng kín tất cả các vết thương
trên bàn tay. Nếu bàn tay có mụn hoặc có các vết thương bị nhiễm trùng thì
bạn không nên vào bếp.
- Giữ khu vực chế biến thức ăn gọn và sạch sẽ. Rửa bàn chế biến thức
ăn bằng dung dịch chloramine hoặc các dung dịch tẩy rửa bếp khác.
- Thường xuyên rửa sạch khăn rửa bát bằng máy giặt với nước nóng
và xà phòng. Loại khăn này thường trong trạng thái ẩm ướt là môi trường tốt
để vi trùng ẩn náu và phát triển.

16


- Vệ sinh bồn rửa định kỳ bằng cách rót một lượng dung dịch

chloramine hoặc loại dung dịch tẩy rửa bếp vào bồn rửa vì đây cũng là môi
trường tốt để vi trùng phát triển.
- Rửa thớt bằng nước nóng và xà phòng bằng bàn chải sau đó cọ rửa
bằng dung dịch chloramine. Luôn vệ sinh thớt sau khi chế biến thịt, cá, hải
sản tươi và trước khi chuẩn bị các thực phẩm có thể ăn ngay. Nên dùng một
thớt để chế biến thực phẩm tươi và thớt khác cho các thực phẩm có thể ăn
ngay.
- Luôn làm sạch các dụng cụ chế biến như dao, thìa,...sau khi dùng
từng loại thực phẩm.
- Không để lẫn thực phẩm chín với thực phẩm sống hoặc ôi thiu.
Không để thịt cá đã nấu chín lên các bát đĩa chưa được rửa hoặc đã chứa đựng
thịt, cá tươi.
- Không để các động vật (như ruồi, nhặng, chuột, chó, mèo hoặc các
động vật khác) tiếp xúc với thực phẩm. Động vật thường chứa các vi trùng
gây bệnh qua thực phẩm. Tốt nhất bạn nên bảo quản thực phẩm trong các vật
chứa được đóng kín.
- Sử dụng nước sạch. Nước sạch là yếu tố quan trọng với việc chế biến
thực phẩm và để uống. Nếu không có nguồn nước sạch, bạn có thể đun sôi
nước để làm nguồn nước cho việc chế biến thực phẩm hoặc làm nước đá cho
các đồ uống. Cẩn thận với bất kỳ loại nguồn nước nào dùng để chế biến thức
ăn cho trẻ em.
- Rửa rau quả tươi kỹ, rửa kỹ dưới vòi nước chảy. Không dùng xà
phòng hoặc các chất tẩy để rửa rau quả. Có thể dùng bàn chải nhỏ đề cọ rửa
các chất bẩn trên bề mặt rau quả.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về an toàn thực phẩm
1.2.1. Khái niệm pháp luật về an toàn thực phẩm

17



Trong thời gian qua, vấn đề ATTP luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm vì xuất phát từ tầm quan trọng của nó đối với đời sống xã hội,
đảm bảo sức khỏe cho con người, sự phát triển giống nòi, uy tín của sản phẩm
Việt Nam và phát triển bền vững trên phương diện kinh tế - xã hội của đất
nước. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chú trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo và
đưa ra nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ATTP, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ATTP, hạn chế những tồn tại, yếu kém,
những bất cập trong thực hiện pháp luật về ATTP. Nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về ATTP đã được ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực về ATTP. Các cấp, các ngành đã vào cuộc và chủ động triển
khai đồng bộ, quyết liệt đã được ghi nhận ở nhiều địa phương, đơn vị, đặc
biệt ở những thành phố lớn. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, công tác bảo đảm
ATTP vẫn là vấn đề thách thức to lớn ở nước ta. Ngộ độc thực phẩm và các
mối nguy đe dọa mất ATTP tiếp tục là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối
với sức khỏe cộng đồng, an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế. Các giải pháp
giải quyết vấn đề này đang được đặt ra rất cấp bách, nhất là giải pháp hoàn
thiện các quy định của pháp luật về ATTP.
Từ những vấn đề trên, ta có thể đưa ra khái niệm pháp luật về ATTP
như sau:
Pháp luật về ATTP là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung do nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. Như vậy, pháp luật về
ATTP ở Việt Nam là toàn bộ các quy phạm pháp luật tồn tại trong các văn
bản luật và dưới luật có liên quan điều chỉnh những vấn đề xã hội phát sinh
trong lĩnh vực ATTP.
Pháp luật về an toàn thực phẩm ở Việt Nam có quá trình phát triển
không đều trong lịch sử. Trước thời kỳ đổi mới, vì nhiều lý do khác nhau, rất

18



ít văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương được
ban hành điều chỉnh riêng về vấn đề an toàn thực phẩm. Trong số ít ỏi các
quy phạm pháp luật quy định về an toàn thực phẩm trước thời kỳ đổi mới, cần
đề cập tới quy định trong Bộ luật hình sự về một số loại tội liên quan tới thực
phẩm và bảo đảm an toàn thực phẩm. Cụ thể, Điều 197 Bộ luật hình sự năm
1985 có quy định tội vi phạm các quy định về vệ sinh thực phẩm gây hậu quả
nghiêm trọng. Ngoài ra, Khoản 2 Điều 167 Bộ luật hình sự năm 1985 còn quy
định người nào làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là thực phẩm thì bị phạt
tù từ ba năm đến mười hai năm. Ngày 24/1/1991, Hội đồng bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đã ban hành Điều lệ vệ sinh (ban hành kèm theo Nghị định số 23HĐBT). Điều 1 của Điều lệ này quy định rõ các mặt hàng lương thực, thực
phẩm, các loại nước uống, rượu, và thuốc hút: khi đưa vào sử dụng và bán
cho người tiêu dùng phải bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh. Nghiêm cấm các tổ
chức Nhà nước, tập thể, tư nhân đưa vào sản xuất sử dụng và bán lương thực,
thực phẩm, các loại nước uống, rượu và thuốc hút không bảo đảm các tiêu
chuẩn vệ sinh cần thiết. Bộ Y tế phối hợp với các Bộ có liên quan để qui định
tiêu chuẩn vệ sinh cho các mặt hàng nói trên. Từ năm 1992 đến năm 2003
(thời điểm ban hành Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003), nhà
nước ta đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật quan trọng sau đây
về an toàn thực phẩm: Quyết định số 305/BYT-QĐ ngày 9/2/1992 của Bộ
trưởng Bộ Y tế ban hành một số quy định về an toàn chiếu xạ thực phẩm; Chỉ
thị số 10/BYT-CT ngày 11/12/1992 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc tăng
cường công tác thanh tra vệ sinh thực phẩm; Quyết định số 1057/BYT-QĐ
ngày 21/11/1994 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành 7 tiêu chuẩn về vệ
sinh an toàn thực phẩm; Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 632); Chỉ thị số
403/TTg ngày 11/7/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công
tác kiểm soát giết mổ động vật và kiểm tra vệ sinh thú ý thực phẩm nguồn gốc

19



động vật; Nghị định số 86/CP ngày 8/12/1995 của Chính phủ quy định phân
công trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa (trong đó tại điểm
1 Điều 4 quy định rõ Bộ Y tế được phân công trách nhiệm quản lý vệ sinh an
toàn đối với thực phẩm, bao gồm thực phẩm tươi sống hoặc thực phẩm đã qua
chế biến công nghiệp, các loại nước uống, rượu và thuốc lá); ...
Đặc biệt, ngày 4/2/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 14/1999/QĐ-TTg thành lập Cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm thuộc Bộ Y tế (cơ quan tiền thân của Cục An toàn thực phẩm hiện
nay). Tiếp đó, ngày 15/4/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số
08/1999/CT-TTg về việc tăng cường công tác bảo đảm chất lượng, vệ sinh an
toàn thực phẩm. Ngày 15/6/1999, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số
16/1999/TT-BTM hướng dẫn điều kiện mua bán, vận chuyển thực phẩm tươi
sống và chế biến; ...
Ngày 26 tháng 7 năm 2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm (có hiệu lực kể từ ngày 1/11/2003). Đây
là lần đầu tiên lĩnh vực an toàn thực phẩm được điều chỉnh một cách khá toàn
diện bởi một văn bản quy phạm pháp luật có tầm hiệu lực pháp luật khá cao là
Pháp lệnh. Pháp lệnh này quy định việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm
trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm; phòng ngừa, khắc phục ngộ
độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm. Pháp lệnh gồm 54 điều được
chia thành 7 chương với các nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, Pháp lệnh khẳng định rõ “kinh doanh thực phẩm là kinh
doanh có điều kiện” (khoản 1 Điều 4). Khẳng định này mở đường cho các
biện pháp quản lý nhà nước có phần chặt chẽ hơn so với một số loại hình kinh
doanh thương mại thông thường khác. Nói cách khác, với khẳng định này, các
tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm có thể sẽ phải chịu sự ràng buộc về
trách nhiệm pháp lý, sự giám sát, kiểm tra, thanh tra của nhà nước lớn hơn so

20



với việc tiến hành các loại hình kinh doanh khác. Đây là một sự giới hạn
quyền tự do kinh doanh ở mức độ cần thiết vì lợi ích chung của cộng đồng,
nhất là lợi ích của người tiêu dùng sản phẩm thực phẩm. Thêm vào đó, khoản
2 Điều 4 của Pháp lệnh cũng khẳng định rõ “tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về vệ sinh an toàn
thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.” Nói cách khác, đối tượng mà Pháp
lệnh hướng tới điều chỉnh, kiểm soát hành vi trước hết là các tổ chức, cá nhân
kinh doanh thực phẩm, bởi đây chính là các chủ thể có các hoạt động có nguy
cơ cao nhất trong việc làm mất an toàn thực phẩm. Do vậy, trách nhiệm bảo
đảm an toàn thực phẩm trước hết phải thuộc về các chủ thể sản xuất, kinh
doanh thực phẩm này.
Thứ hai, Pháp lệnh cũng chỉ rõ 7 nhóm hành vi cơ bản bị nghiêm cấm
bởi pháp luật về an toàn thực phẩm như: (1) Trồng trọt, chăn nuôi, thu hái,
đánh bắt, sơ chế, chế biến, bao gói, bảo quản, vận chuyển, buôn bán thực
phẩm trái với quy định của pháp luật; (2) Sản xuất, kinh doanh: a) Thực phẩm
đã bị thiu, thối, biến chất, nhiễm bẩn có thể gây hại cho tính mạng, sức khỏe
của con người; b) Thực phẩm có chứa chất độc hoặc nhiễm chất độc; c) Thực
phẩm có ký sinh trùng gây bệnh, vi sinh vật gây bệnh hoặc vi sinh vật vượt
quá mức quy định; d) Thịt hoặc sản phẩm chế biến từ thịt chưa qua kiểm tra
thú y hoặc kiểm tra không đạt yêu cầu; đ) Gia súc, gia cầm, thủy sản chết do
bị bệnh, bị ngộ độc hoặc chết không rõ nguyên nhân; sản phẩm chế biến từ
gia súc, gia cầm, thủy sản chết do bị bệnh, bị ngộ độc hoặc chết không rõ
nguyên nhân; e) Thực phẩm nhiễm bẩn do bao gói, đồ chứa đựng không sạch,
bị vỡ, rách trong quá trình vận chuyển; g) Thực phẩm quá hạn sử dụng; (3)
Sản xuất, kinh doanh động vật, thực vật có chứa mầm bệnh có thể lây truyền
sang người, động vật, thực vật; (4) Sản xuất, kinh doanh thực phẩm từ nguyên
liệu không phải là thực phẩm hoặc hóa chất ngoài Danh mục được phép sử


21


dụng; (5) Sản xuất, kinh doanh phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm, vi chất dinh dưỡng, thực phẩm chức năng, thực phẩm có nguy cơ cao,
thực phẩm được bảo quản bằng phương pháp chiếu xạ, thực phẩm có gen đã
bị biến đổi chưa được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép; (6)
Sử dụng phương tiện bị ô nhiễm, phương tiện đã vận chuyển chất độc hại để
vận chuyển thực phẩm; (7) Thông tin, quảng cáo, ghi nhãn hàng hóa sai sự
thật hoặc có hành vi gian dối khác về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 8).
Thứ ba, Pháp lệnh đã đặt ra khung các điều kiện, yêu cầu mà các tổ
chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm phải đáp ứng khi tham gia kinh doanh
thực phẩm. Đó là các điều kiện đối với hoạt động “sản xuất, kinh doanh thực
phẩm tươi sống” (Điều 9 đến Điều 12); “chế biến thực phẩm” (Điều 13 đến
Điều 16); “bảo quản, vận chuyển thực phẩm” (Điều 17 đến Điều 22); “nhập
khẩu, xuất khẩu thực phẩm” (Điều 23 đến Điều 27); “điều kiện sản xuất, kinh
doanh thực phẩm” (Điều 28 đến Điều 30); “công bố tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm” (Điều 31 đến Điều 33); “quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm” (Điều 34
đến Điều 35).
Thứ tư, Pháp lệnh này đã quy định các biện pháp phòng ngừa, khắc
phục ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm (Điều 36 đến
Điều 41). Theo đó, các biện pháp phòng ngừa được Pháp lệnh quy định gồm:
(1) Bảo đảm vệ sinh an toàn trong quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng thực phẩm; (2) Giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và thực hành
về vệ sinh an toàn thực phẩm cho người sản xuất, kinh doanh và người tiêu
dùng; (3) Kiểm tra, thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh
doanh thực phẩm; (4) Phân tích nguy cơ ô nhiễm thực phẩm; (5) Điều tra,
khảo sát và lưu trữ các số liệu về vệ sinh an toàn thực phẩm; (6) Lưu mẫu
thực phẩm theo quy định của pháp luật. Các biện pháp khắc phục được Pháp
lệnh quy định gồm: a) Phát hiện, tổ chức điều trị kịp thời cho người bị ngộ


22


độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm; b) Đình chỉ sản xuất, kinh
doanh, sử dụng thực phẩm bị nhiễm độc; c) Thu hồi thực phẩm đã sản xuất và
đang lưu thông trên thị trường bị nhiễm độc; d) Thông báo kịp thời cho người
tiêu dùng về tình trạng ngộ độc thực phẩm hoặc bệnh truyền qua thực phẩm,
thực phẩm đang lưu thông trên thị trường bị nhiễm độc; đ) Kịp thời điều tra
xác định nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm hoặc bệnh truyền qua thực
phẩm; e) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa việc lan truyền bệnh dịch do
ngộ độc thực phẩm hoặc bệnh truyền qua thực phẩm.
Thứ năm, Pháp lệnh đã quy định cơ chế quản lý nhà nước đối với
lĩnh vực an toàn thực phẩm (Điều 42 và 43) và cơ chế thanh tra, kiểm tra về
an toàn thực phẩm (Điều 44 đến Điều 49). Theo đó, hoạt động quản lý nhà
nước về an toàn thực phẩm được xác định gồm 10 nhóm nội dung sau: (1)
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch
về vệ sinh an toàn thực phẩm; (2) Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm, các quy định và tiêu chuẩn
về vệ sinh an toàn thực phẩm; (3) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
phòng ngừa, khắc phục ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm;
(4) Quản lý hệ thống kiểm nghiệm, thử nghiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm;
(5) Quản lý việc công bố tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, chứng nhận
đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm; (6) Tổ chức nghiên cứu khoa học và
công nghệ trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; (7) Đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ về vệ sinh an toàn thực phẩm; (8) Tổ chức công tác thông tin, tuyên
truyền, phổ biến kiến thức và pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm; (9)
Hợp tác quốc tế về vệ sinh an toàn thực phẩm; (10) Thanh tra, kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực
phẩm. Pháp lệnh cũng quy định rõ các chủ thể quản lý nhà nước về an toàn

thực phẩm, theo đó “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vệ sinh an

23


×