Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (830.63 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DIỄM

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ DIỄM

HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN BIÊN

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn
chưa công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả

Nguyễn Thị Diễm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO
NHẦM LẪN ..................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu ...................................................................... 7
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ............................................... 13
1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ....................................... 18
1.4. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo quy định của một số nước trên thế
giới................................................................................................................... 27
1.5. Ý nghĩa pháp lý của quy định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ........... 29
Chương 2: HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................. 34
2.1. Điều kiện của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn.......................................... 34
2.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn ............................... 40
2.3. Thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn .................... 46
2.4. Bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng bị tuyên
bố là vô hiệu do nhầm lẫn ............................................................................... 55
2.5. Bất cập về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu
do nhầm lần và nguyên nhân........................................................................... 56
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN................................................... 60
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vô hiệu do nhầm

lẫn .................................................................................................................... 60
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do
nhầm lẫn .......................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

HCM

Hồ Chí Minh

HĐVH

Hợp đồng vô hiệu

KDTM

Kinh doanh thương mại

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TP. HCM


Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. So sánh quy định về HĐVH của BLDS năm 2015 và BLDS năm
2005 ................................................................................................................. 35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ quốc
gia nào, chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định pháp lý quan trọng
vào bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt và an toàn của các giá trị vật chất trong xã hội. Đã từ lâu pháp luật về
hợp đồng chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay
nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp
đồng. Vấn đề HĐVH là một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay của chế
định hợp đồng. Đây là một vấn đề phức tạp, còn nhiều vướng mắc cần được
trả lời sớm nhằm tạo niềm tin cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng. Khi
xây dựng pháp luật về HĐVH, các nhà làm luật đều quan tâm tới các quy định
về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, về xử lý HĐVH. Các quy định này có
tác dụng đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cộng
đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ hợp
đồng. Do vậy, các quy định về HĐVH phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống,
đảm bảo sự hài hòa giữa quyền của các bên chủ thể và lợi ích của cộng đồng,
Nhà nước nói chung.
Tuy nhiên, hiện nay các quy định về HĐVH nói chung và HĐVH do
nhầm lần vẫn còn nhiều vướng mắc. Các quy định có phần còn cứng nhắc,

chưa đầy đủ, có quy định còn chồng chéo, gây nên cách hiểu không thống
nhất. Chẳng hạn như: các căn cứ để tuyên bố HĐVH còn có nhiều điểm chưa
rõ ràng; hậu quả pháp lý của HĐVH còn quy định chung chung, khó áp dụng.
Quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự không được đảm bảo thỏa
đáng khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu.

1


Về phía các cơ quan nhà nước, do tính phức tạp của các quan hệ hợp
đồng, những quy định không rõ ràng của pháp luật đã tạo cho họ rất nhiều
khó khăn, lúng túng trong công tác xét xử có liên quan tới HĐVH do nhầm
lẫn. Nói cách khác, chính điều đó làm hạn chế năng lực của các cơ quan chức
năng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Và trên thực tế, cũng
không ít trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn hoặc cố ý
nhầm lẫn, nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình.
Với thực trạng đó, các quy định pháp luật về HĐVH cần sớm được hoàn
thiện đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, hướng tới sự bảo đảm an toàn và lẽ công
bằng cho các chủ thể, góp phần làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh.
Một cơ sở pháp lý đầy đủ, hoàn chỉnh, một hành lang pháp lý thông thoáng
không những là yêu cầu chính đáng của người dân, của các doanh nghiệp để họ
thực hiện hoạt động kinh doanh và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình mà còn là
điều kiện để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thành tốt chức năng,
nhiệm vụ mà nhà nước giao. Hơn thế nữa, cần phải khẳng định rằng việc nhận
thức đúng về bản chất của HĐVH và việc xử lý chúng để từ đó xây dựng các
quy định về HĐVH một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn cũng sẽ góp
phần hoàn thiện chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật của nước ta.
Từ những lý do trên, với mong muốn được góp phần hoàn thiện các
quy định của pháp luật về HĐVH nói chung và HĐVH do nhầm lẫn nói riêng,
tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật

Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu về HĐVH, việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp
đồng, giao dịch dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm trong
các thời kỳ với nhiều góc độ khác nhau. Nhìn chung, vấn đề này đã được đề

2


cập tới trong Giáo trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học
Quốc gia, Trường đại học Kiểm sát.
Các vấn đề liên quan còn được đề cập trong một số công trình nghiên
cứu như: Luận án tiến sĩ“Hợp đồng kinh tế vô hiệu và hậu quả pháp lý của
hợp đồng kinh tế vô hiệu” của Lê Thị Bích Thọ, Trường Đại học Luật TP.
HCM, năm 2009; Luận án tiến sĩ“Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”của Nguyễn Văn Cường, Khoa
luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Luận văn thạc sĩ“Xử lý
HĐVH theo pháp luật dân sự Việt Nam”của Nguyễn Thị Thanh, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xử lý HĐVH ở Việt Nam”của Cao Thị Thùy Dương, Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2014; …
Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết của các tác giả như: Phạm Nguyễn
Linh (2018), Xử lý HĐVH trong lĩnh vực thương mại, Tạp chí luật học số
11/2018; Hoàng Quảng Lực (2011), Bàn về giải quyết hậu quả HĐVH, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 21/2011; …
Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu và nghiên cứu các công trình có liên quan
thì tác giả thấy rằng các công trình này chỉ nghiên cứu các quy định của
BLDSnăm 2005, nhất là việc áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp
trong thực tiễn, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng hợp về pháp luật hợp
đồng thương mại vô hiệu do nhầm lẫntrong những năm gần đây, nhất là trong

điều kiện BLDS năm 2015 đã được Quốc hội có hiệu lực.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện các quy định về HĐVH do
nhầm lẫn có ý nghĩa quan trọng. Cùng với sự phát triển của tình hình kinh tế
xã hội, các quan hệ xã hội biến đổi ngày càng phức tạp và đa dạng hơn, vấn
đề xử lý HĐVH do nhầm lẫn cũng nảy sinh nhiều vấn đề cấp thiết đòi hỏi
phải có sự sửa đổi, bổ sung.
3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp
phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVH do nhầm lẫn.
Với mục đích trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm
lẫn như: khái niệm nhầm lẫn và khái niệm HĐVH do nhầm lẫn; đặc điểm của
HĐVH do nhầm lẫn; điều kiện của HĐVH do nhầm lẫn; xử lý hậu quả pháp
lý của HĐVH do nhầm lẫn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về
HĐVH do nhầm lẫn.
- Đánh giá tình hình thực hiện, áp dụng pháp luật của các chủ thể tham
gia kí kết hợp đồng và của tòa án nhân dân trong quá trình xét xử vụ án có
liên quan đến HĐVH do nhầm lẫn.
- Đưa ra phương án góp phần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định
HĐVH do nhầm lẫn và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về
hợp đồng của pháp luật dân sự hiện hành.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, tác giả tập trung vào các đối tượng nghiên
cứu sau:
- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐVH, mà cụ thể là tập
trung vào các quy định về HĐVH do nhầm lẫn trong BLDS năm 2005, 2015

và các văn bản hướng dẫn, đặt trong tương quan một số quy định của Luật
thuơng mại, Luật doanh nghiệp… và các công ước, văn bản pháp luật quốc tế
điều chỉnh vấn đề này.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về HĐVH do nhầm lẫn.
Về phạm vi nghiên cứu, trong giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật,
tác giả luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về HĐVH
4


do nhầm lẫn. Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá quy định pháp luật về
HĐVH do nhầm lẫn đồng thời xem xét thực tiễn áp dụng các quy định nêu
trên kể từ thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề trong luận văn dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật. Tác giả còn kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, so sánh… kết hợp giữa lý luận với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài đã góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận
về hợp đồng và HĐVH do nhầm lẫn. Đồng thời, những kết quả nghiên cứu
mới của luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về hợp đồng, HĐVH, HĐVH do nhầm lẫn; đưa ra
những đánh giá nhận xét về tính hợp lý, logic, độ phù hợp với thực tiễn của các
quy định này và nêu quan điểm về hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện
pháp luật về HĐVH do nhầm lẫn ở nước ta hiện nay.
Dưới góc độ thực tiễn, luận văn chỉ ra những khó khăn, vướng mắc
trong việc áp dụng, thực hiện pháp luật, đồng thời có những kiến nghị giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, thực hiện pháp luật về HĐVH do
nhầm lẫn tại Việt Nam, góp phần cải thiện, nâng cao ý thức pháp luật nói

chung, thích ứng với hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về HĐVH do nhầm lẫn

5


Chương 2. HĐVH do nhầm lẫn theo quy định của pháp luật Việt Nam
và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
HĐVH do nhầm lẫn

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU DO NHẦM LẪN
1.1. Khái niệm hợp đồng vô hiệu
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Hợp đồng là một công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa người và
người liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Các quan hệ ấy
không chỉ hình thành trong dân sự mà còn cả trong lĩnh vực thương mại, lao
động, thậm chí trong lĩnh vực hành chính. Trong mỗi loại hợp đồng, trong
mỗi lĩnh vực có những đặc điểm rất riêng và do đó, được chi phối bởi những
quy định riêng [45, tr.26]. Tuy nhiên là sản phẩm của sự gặp gỡ ý chí, tất cả
các hợp đồng đều hình thành và vận hành trên cơ sở nguyên tắc tự do kết ước
và những nguyên tắc cơ bản khác mà xoay quanh những nguyên tắc đó, một
hệ thống các quy tắc pháp lý được xây dựng và tạo thành luật về quan hệ kết

ước hay còn gọi là luật chung về hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 388 BLDS năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
quy định khái niệm hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” [32].
Tuy nhiên, quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả những
quan hệ về đầu tư, lao động, kinh doanh thương mại, bảo hiểm… Theo đó,
nếu trong khái niệm về hợp đồng từ “dân sự” được đặt đằng sau hai từ “hợp
đồng” và sau hai từ nghĩa vụ thì điều này dẫn đến thực tiễn thi hành pháp luật
có cách hiểu rằng những quy định của BLDS hiện hành chỉ liên quan đến hợp
đồng dân sự. Do đó, mà tại BLDS năm 2015 các nhà làm luật đã có những
chỉnh sửa liên quan đến khái niệm “hợp đồng” để khắc phục bất cập trên.
Cụ thể, Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ

7


dân sự”. So với BLDS hiện hành thì BLDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “dân sự”
sau hai từ “hợp đồng”. Quy định mới về khái niệm hợp đồng tại Điều 385 của
BLDS năm 2015 là điểm mới quan trọng, đáng chú ý không những về mặt kỹ
thuật lập pháp và còn làm tăng tính khả thi, minh bạch trong thực tiễn áp dụng
[43, tr.46]. Trong phạm vi luận văn, thì hợp đồng được hiểu là sự thoả thuận
có hiệu lực pháp luật hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của hai hay nhiều
bên nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ.
1.1.2. Hợp đồng vô hiệu
Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chưa có một khái niệm thống nhất
về HĐVH mà chỉ nêu căn cứ xác định HĐVH hoặc có hiệu lực.
Người làm luật không định nghĩa cụ thể như thế nào là HĐVH mà chỉ
xác định hệ quả của sự vô hiệu. Theo khoản 1, Điều 137 BLDS năm 2005 quy
định “giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập” [32].
Trên cơ sở khái niệm hợp đồng, giao dịch dân sự vô hiệu, trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn: Hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng khi giao kết
và thực hiện không đảm bảo những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự,
hoặc đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được vì lý do khách quan.
Phân loại HĐVH:
Căn cứ váo thủ tục tố tụng có HĐVH tuyệt đối và HĐVH tương đối
- HĐVH tuyệt đối: Là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu
do việc xác lập hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước
hoặc lợi ích công cộng. Hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị
coi là vô hiệu tuyệt đối:
+ HĐVH do giả tạo
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật
+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội
8


Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa
án cho các bên thời hạn để thực hiện đúng quy định về hình thức này nhưng
hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc trường hợp pháp luật có
quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp
đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu [47].
Một HĐVH tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của các bên.
Mọi trường hợp đều giải quyết theo quy định của pháp luật và không được
hòa giải, không có quyền công nhận giá trị pháp lý của hợp đồng trong quá
trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về hợp đồng hoặc các nội dung pháp lý
có liên quan [47].
- HĐVH tương đối: Là những hợp đồng được xác lập, nhưng có thể bị
Tòa án tuyên bố là vô hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan. Sự vô hiệu tương đối là ở chỗ: giao dịch dân sự đó “có thể vô hiệu” hay

“không đương nhiên bị xem là vô hiệu” vì nó chỉ xâm hại trực tiếp tới quyền
lơi hợp pháp của cá nhân của từng bên chủ thể tham gia. Do đó, hợp đồng này
nếu không có sự xem xét của Tòa án thì vẫn có hiệu lực. Trong trường hợp
muốn tiêu hủy hợp đồng này, các bên phải yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ
tục tư pháp thông thường chứ hợp đồng không đương nhiên bị xem là vô hiệu.
Trên thế giới, hiện có ba cách thức xây dựng quy tắc pháp lý để xác
định HĐVH, cụ thể:
Thứ nhất, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo đó,
những HĐVH được xác định là hợp đồng không thoả mãn những điều kiện có
hiệu lực. Các nước quy định theo cách này là các nước theotruyền thống pháp
luật La Mã. Cách thức quy định này cho thấy sự can thiệp mạnh của Nhà nước
đến quan hệ hợp đồng.

9


Thứ hai, liệt kê các trường hợp vô hiệu của hợp đồng và việc xác định
hợp đồng có hiệu lực bằng phương pháp loại suy. Quy định theo cách này là
các nước như Nhật bản, Cộng hoà Liên bang Đức.
Thứ ba, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và quy định
những trường hợp vô hiệu của hợp đồng. Quy định theo cách này có vẻ đảm
bảo cả về lôgíc hình thức và lôgíc biện chứng, tuy nhiên, đã thể hiện sự can
thiệp quá sâu vào quan hệ luật tư vốn dĩ “cốt ở đôi bên”. Việt Nam là nước có
quy định về HĐVH theo cách này [54].
Ba cách thức xây dựng quy này hoặc xuất phát từ những đặc điểm
chung mang tính bản chất của hợp đồng và ý chí của nhà làm luật. Tuỳ theo
điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội và nhu cầu cường thịnh của quốc gia hay khu
vực mà nhà làm luật can thiệp nhiều hay ít vào quan hệ hợp đồng. Ví dụ,
Cộng Hoà Pháp, Trung Quốc… không can thiệp vào quan hệ hợp đồng bằng
cách quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Thái Lan, Việt

Nam... vẫn ghi nhận hình thức là điều kiện có hợp đồng; Châu Âu không có
sự can thiệp nào liên quan đến hình thức của hợp đồng “Hợp đồng có thể
được chứng minh bằng bất kì cách thức nào, kể cả bằng nhân chứng”. Nghiên
cứu các quy định về HĐVH theo ba cách trên cho thấy việc xác định HĐVH
theo các dấu hiệu sau [54, tr.38-39]:
Năng lực giao kết của các chủ thể: Chủ thể là một trong những yếu tố
cấu thành quan hệ pháp luật nói chung hay quan hệ hợp đồng nói riêng, trong
quan hệ hợp đồng tối thiểu phải có hai chủ thể. Các chủ thể là cá nhân có thể
tự nhân danh chính mình hoặc thông qua người đại diện để xác lập hợp đồng;
chủ thể là tổ chức xác lập hợp đồng thông qua người đại diện. Như vậy, việc
giao kết hợp đồng buộc phảithông qua hành vi của con người cụ thể. Hành vi
hợp pháp thì được pháp luật thừa nhận và ngược lại, do đó, khi tham gia giao
kết hợp đồng chủ thể phải có năng lực để nhận biết về hành vi của mình, đó
10


chính là năng lực hành vi - một trong những yếu tố căn bản để tạo lên thẩm
quyền giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân khi tự nhân danh mình tham gia
quan hệ hợp đồng năng lực hành vi của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
của họ. Một cá nhân luôn được coi là có thể thiệt hại khi khi họ tham gia quan
hệ hợp đồng tại thời điểm bị hạn chế hoặc không có năng lực hành vi hoặc
năng lực hành vi chưa đầy đủ. Trên cơ sở đó, pháp luật cho phép bên bị thiệt
hại gây ra sự vô hiệu nhằm bảo vệ lợi ích một cách công bằng. Đối với tổ chức,
pháp nhân thì thẩm quyền giao kết hợp đồng được xác định kết hợp giữa năng
lực hành vicủa người đại diện và điều kiện, phạm vi kinh doanh...thẩm quyền
và năng lực thiết lập thoả thuận là do pháp luật quy định hoặc được ghi nhận
trên cơ sở pháp luật. Do vậy, pháp luật chỉ công nhận và bảo vệ những thoả
thuận do chủ thể có thẩm quyền giao kết. Ngược lại, thoả thuận đó sẽ không
được công nhận, không có hiệu lực pháp luật - vô hiệu [54].
Sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể: Một thoả thuận được coi là hình

thành khi có sự thống nhất ý chí giữa các bên về một hoặc nhiều vấn đề. Quá
trình đàm phán và thiết lập thoả thuận thực chất là việc tuyên bố ý chí và chấp
nhận ý chí của các bên tham gia. Trong quan hệ hợp đồng, việc tuyên bố ý chí
gọi là đề nghị giao kết hợp đồng và việc chấp nhận ý chí gọi là xác lập quan
hệ hợp đồng. Sự thống nhất ý chí chỉ được coi là đích thực khi các bên tham
gia thực hiện hành vi của mình một cách tự nguyện, chính thuật ngữ “thoả
thuận” đã thể hiện rõ bản chất nguyên tắc tự nguyện. Pháp luật các nước trên
thế giới đều ghi nhận và bảo vệ nguyên tắc tự nguyện trong quan hệ hợp đồng
và có thể nói rằng điều kiện bắt buộc đối với việc giao kết hợp đồng là phải
đảm bảo nguyên tắc tự nguyện - tự nguyện được hiểu là tự nguyện tuyên bố ý
chí và chấp nhận ý chí. Ý chí của các bên không thể coi là được thống nhất
khi ý chí đó được tuyên bố hoặc chấp nhận một cách không tự nguyện. Các
thoả thuận được hình thành một cách thiếu tự nguyện - không có sự thống
11


nhất ý chí sẽ không được pháp luật bảo vệ. Nói cách khác thoả thuận này bị
vô hiệu và đương nhiên là không được đảm bảo thi hành [54].
Hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các bên xâm phạm trật tự
công: Nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không
cấm” được phổ biến rộng rãi, pháp luật các nước đều thừa nhận nguyên tắc
này. Nhật bản -BLDS điều 90; Cộng hoà liên bang Đức -BLDS điều 134...
Việt Nam, trong lĩnh vực kinh doanh, Luật thương mại và Luật doanh nghiệp
quy định về vấn đề này cụ thể như sau: “Thương nhân có quyền hoạt động
thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo
các phương thức mà pháp luật không cấm”; “Doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”.
Tự do là một giá trị chung của nhân loại, tự do là một nguyên tắc căn bản
trong quan hệ hợp đồng luôn được pháp luật tôn trọng. Trong xã hội có pháp
luật, việc xác định phạm vi hành xử của một người không có nghĩa là hạn chế

sự tự do của họ mà có nghĩa là bảo vệ quyền tự do của họ, nếu không có ranh
giới đó thì quyền tự do của họ luôn bị đe doạ xâm phạm và có thể dẫn đến
không có tự do, vì bản tính tập thể của con người, "tính bắt buộc" phải sống
trong xã hội của nó; con người không có khả năng trở nên hạnh phúc và thậm
chí đơn giản là tồn tại khi thiếu những người khác. Do đó, khi các bên tham
gia thoả thuận thực hiện hành vi mà pháp luật cấm luôn bị coi là xâm phạm
đến những giá trị mà pháp luật bảo vệ [54].
Thoả thuận không tuân thủ quy định về hình thức: Hiện tại, pháp luật
của một số quốc gia vẫn còn quy định hình thức của hợp đồng là một trong
những điều kiện có hiệu lực, ví dụ: BLDS và Luật thương mại Thái Lan, tại
điều 115 quy định “Một hành vi pháp lý không theo đúng hình thức quy định
thì vô hiệu”, còn Việt Nam BLDS năm 1995 quy định về hình thức tương tự
như Thái Lan. BLDS năm 2015 có sửa đổi một cách mềm dẻo hơn “Hình thức
12


giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp
luật có quy định” tuy nhiên về bảnchất không có gì thay đổi - vẫn ghi nhận
hình thức là điều kiện có hiệu lực. Mặc dù quy định tuân thủ hình thức không
phải là dạng quy phạm cấm, tuy nhiên, khi pháp luật không thừa nhận thì thoả
thuận và bảo đảm thi hành thì thoả thuận không tuân thủ hình thức bị vô hiệu
kể từ thời điểm giao kết. Xét đến cùng thì có lẽ nhà làm luật đặt ra quy định
này nhằm đảm bảo trật tự công, mặc dù trên thực tế quy định này thường ban
phát lợi ích tư (nếu không có lợi có lẽ không ai yêu cầu tuyên vô hiệu) và đặc
biệt hơn là quy định này có thể làm tăng chi phí giao dịch và hạn chế sự sinh
lời của tài sản và quyền của chủ tài sản [54].
Trong phạm vi luận văn thì HĐVH được hiểu là thoả thuận không có
hiệu lực pháp luật kể từ khi giao kết, do một hoặc các bên chủ thể không có
thẩm quyền xác lập hoặc các bên chủ thể không có sự thống nhất ý chí đích
thực hoặc hành vi giao kết và thực hiện thoả thuận của các chủ thể bị pháp

luật cấm hoặc xâm phạm trật tự công hoặc thoả thuận không được pháp luật
thừa nhận do không tuân thủ hình thức.
1.2. Khái niệm hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
1.2.1. Định nghĩa
Trong thực tế không hiếm trường hợp sự ưng thuận có “tì vết” và yếu
tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng là một “tì vết” mà luật đã dự liệu để cho
phép tuyên bố HĐVH. Nhìn chung vấn đề quy định về nhầm lẫn trong giao
kết hợp đồng được quy định lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng dân sự và
BLDS năm 1995. Cụ thể, theo khoản 3, Điều 15 Pháp lệnh hợp đồng dân sự,
HĐVH “khi một bên hợp đồng nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng”
và Điều 141 BLDS năm 1995 về giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn: “Khi
một bên do nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch mà xác lập giao dịch,
thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch đó, nếu bên kia
13


không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn thì có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Khi giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn
thì bên có lỗi trong việc để xảy ra nhầm lẫn phải bồi thường” [32].
Theo quy định tại điều 116 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định:
Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Từ quy định tại điều luật này
có thể xác định: kết quả của việc xác lập giao dịch dân sự là làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự. Giao dịch dân sự là một sự kiện pháp lí (hành vi pháp lí đơn
phương hoặc đa phương – một bên hoặc nhiều bên) làm phát sinh hậu quả
pháp lí. Tuỳ từng giao dịch cụ thể mà làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan
hệ pháp luật dân sự [38].
Giao dịch là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích
nhất định, cho nên giao dịch dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể

tham gia giao dịch, với những mục đích và động cơ nhất định.
Những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho
các chủ thể trong giao lưu dân sự.
So với quy định về giao dịch dân sự vô hiệu tại BLDS 2005, BLDS
2015 có bổ sung thêm cụm từ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
Đây là quy định cần thiết, bởi lẽ các quy định về điều kiện có hiệu lực của
BLDS để áp dụng cho đa số các trường hợp nhằm đảm vảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc vô hiệu giao
dịch dân sự là không cần thiết. Thực tế, cho thấy giao dịch có thể thiếu điều
kiện quy định tại Điều 117 BLDS 2015 nhưng vẫn không vô hiệu. Chẳng hạn
như quy định tại điểm a khoản 2 điều 125 BLDS 2015, giao dịch dân sự của
14


người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu
cầu thiết yếu hàng ngày của người đó thì không bị xem là giao dịch dân sự vô
hiệu. Sự bổ sung quy định này thể hiện sự linh hoạt trong các quy định của
pháp luật [43, tr.61-62].
Hiện nay các nhà làm luật vẫn không đưa ra một khái niệm cụ thể nên
nhầm lẫn ở đây có thể hiểu là việc các bên trong giao dịch hình dung sai về
nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc
bên kia, sự nhầm lẫn xuất phát từnhận thức các bên hoặc phán đoán sai lầm về
đối tượng của sự việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào
nội dung của giao dịch phải xác định được. Nếu bị nhầm lẫn chứng minh
được sự nhẫm lẫn của mình thì giao dịch có thể bị tuyên bố vô hiệu.
1.2.2. Đặc điểm
Nhầm lẫn đã tồn tại trong hai BLDS nhưng lại không đưa ra định nghĩa
chính xác thế nào là nhầm lẫn nên rất khó khăn khi xác định sự tồn tại của

nhầm lẫn. Nhầm lẫn trong ngôn ngữ pháp lý là sự nhận định không chính xác
về cái có thật, tưởng cái sai sự thật là thật và ngược lại. Nhầm lẫn là sự khác
biệt giữa nhận thức của một bên về vấn đề và thực tế của vấn đề. Ví dụ anh A
xác lập hợp đồng mua bán xe máy với giá 30 triệu với anh B nhưng không
biết rằng xe máy đó là tang vật trong một vụ án hình sự cướp tài sản (ở đây
anh B cũng được mua lại từ anh D và không biết tình trạng thật của chiếc xe).
Điều này có nghĩa là đối với bên mua có sự khác nhau về nhận thức của họ về
chiếc xe và thực tế về chiếc xe này. Bất kỳ sự khác nhau nào giữa nhận thức
và thực tế đều có thể được coi là nhầm lẫn. Và nhầm lẫn phải tồn tại ở thời
điểm xác lập giao dịch. Điều đó có nghĩa là nhận thức của bên nhầm lẫn về
hợp đồng và sự thật về hợp đồng này phải được xác định tại thời điểm xác lập
hợp đồng. Nhầm lẫn khác với giả tạo ở chỗ trong hợp đồng có sự nhầm lẫn thì
bản thân người xác lập hợp đồng không biết được điều đó còn giả tạo trong
15


hợp đồng thì người thể hiện ý chí muốn xác lập hợp đồng biết việc đó không
đúng với sự thể hiện ý chí đích thực của họ với sự thể hiện thực tế trong hợp
đồng. Nhưng để đánh giá nhận thức của bên bị nhầm lẫn thực chất là rất khó vì
nó liên quan đến vấn đề nội tâm. Nếu các bên không ghi rõ trong hợp đồng về
nhận thức của mình thì rất khó để xác định. Phân tích ví dụ trên vì người mua
không biết về tình trạng thật của chiếc xe. Ở đây chúng ta nên dùng phương
pháp suy đoán bằng cách xác định nhận thức của một người bình thường trong
hoàn cảnh tương tự vì nếu một người bình thường nếu biết chiếc xe đó là tang
vật của một vụ hình sự thì có lẽ họ sẽ không mua với giá như thế [43].
Thực tế áp dụng pháp luật Việt Nam vẫn chưa tổng kết được các trường
hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng thành lý luận chung. Và một
vấn đề đặt ra là các quy định của pháp luật chỉ nói đến nhầm lẫn về nội dung
vậy nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng thì như phải giải quyết như thế nào? Ví
dụ: C là nhà thiết kế thời trang nổi tiếng, có người khác cũng tên là C cũng

làm nghề thiết kế thời trang nhưng không nổi tiếng, nhưng D không biết
tưởng nhầm người đó là C nên ký kết hợp đồng thiết kế hàng mẫu cho Công
ty mình. Ở đây, D có nhầm lẫn về chủ thể và C không biết D đã nhầm lẫn mà
nghĩ D cần mình thật. Và trên thực tế nhầm lẫn về chủ thể của hợp đồng
không phải là ít. Mặc dù trong một số trường hợp tòa án tuyên bố vô hiệu,
nhưng xét về gốc độ văn bản để áp dụng luật về tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn
thì thiếu cơ sở pháp lý. Thiết nghĩ về lâu dài BLDS cần bổ sung thêm trường
hợp này [43].
Trong thực tế có thể xảy ra trường hợp một bên có thể nhầm lẫn mà
không do lỗi của bên kia, có nghĩa là bên kia cũng không có lỗi vô ý hay cố ý.
Tiếp theo ví dụ về chiếc xe máy ở trên ta thấy thực chất chiếc xe máy của anh
B bán cho anh A không phải của anh mà là tang vật trong một vụ cướp mà
anh cũng không biết. Dù Tòa án có tuyên hợp đồng này vô hiệu nhưng không
16


thể coi ai trong hai anh là có lỗi cả. Ngoài ra luật cũng không quy định về
trường hợp sự nhầm lẫn đó là do chính bên bị nhầm lẫn gây ra ví dụ như sự
cẩu thả, trình độ hiểu biết thấp của chính họ gây ra. Vì có trường hợp do sự
chủ quan chưa xem xét kỹ hợp đồng họ đãchấp nhận xác lập hoặc ngay từ khi
giao kết họ đã biết mình bị nhầm lẫn nhưng vẫn để mặc rồi sau này xem xét
lại thấy không có lợi gì cho mình thì mới yêu cầu Tòa tuyên bố HĐVH do
mình đã nhầm lẫn. Ở đây nếu như không quy định cụ thể về vấn đề này sẽ dẫn
đến khiếu nại tràn lan do người hiểu lầm cứ tưởng họ có quyền khiếu nại để
tuyên bố HĐVH do nhầm lẫn bất cứ lúc nào miễn là còn thời hạn khởi kiện từ
đó dẫn đến tình trạng lạm dụng để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của bên bị
nhầm lẫn. Vì vậy thiết nghĩ BLDS cần sửa đổi hoàn thiện hơn quy định về
vấn đề này [51].
Vậy trong lừa dối cũng có yếu tố của nhầm lẫn. Nhầm lẫn và lừa dối
đều có một điểm chung là bên bị nhầm lẫn và bên bị lừa dối đều đã hiểu sai

lệch về chủ thể, về tính chất của đối tượng...nên đã xác lập giao dịch. Vì vậy
để tuyên bố HĐVH do lừa dối thì phải chứng minh có một bên bị nhầm lẫn và
sự nhầm lẫn này phải do hành vicố ý của bên kia gây ra. Và việc tuyên bố một
HĐVH do nhầm lẫn vì việc xác định hành vicố ý là rất khó phải cần nhiều
giai đoạn xác minh, làm rõ các chứng cứ đưa ra của đương sự điều này tùy
thuộc nhiều vào phán quyết của Thẩm phán xử lý vụ việc đó [51].
Giải pháp tuyên bố HĐVH không phải là giải pháp tối ưu được ưu tiên
áp dụng trong các trường hợp vô hiệu tương đối dạng này. Vì hợp đồng được
xác lập nhằm mục đích đem lại một lợi ích hợp pháp nào đó cho các bên và
được pháp luật bảo vệ nếu như nó không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Cho
nên trong trường hợp này Tòa án không triệt tiêu hợp đồng nếu như hợp đồng
vẫn có thể khắc phục được. Giải pháp này tương đối khả thi đối với trường
hợp hai bên đều nhầm lẫn. Hai bên có thể thỏa thuận sửa đổi lại nội dung hợp
17


đồng hoặc lập ra một hợp đồng mới hoàn toàn. Còn chỉ một bên nhầm lẫn bên
kia biết mà không thông báo, để mặc cho hợp đồngđược ký kết thì đó lại là
một dạng của hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng. Ngoài ra quy định này
chỉ cho phép vô hiệu nếu bên nhầm lẫn yêu cầu mà bên kia không chấp nhận.
Và bên không chấp nhận có khả năng thay đổi mà không thay đổi được thì
mới có quyền yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Nhưng nếu bên đó cũng không thể
thay đổi, khắc phục được thì sao? Tương tự ví dụ chiếc xe máy ở trên thì cả
hai anh A và B đều không thể thay đổi được hoàn cảnh, không thể biến chiếc
xe bất hợp pháp thành hợp pháp dù ý chí của anh B có muốn chiếc xe mình
trở thành hợp pháp hay không cũng không được. Vì vậy thiết nghĩ, BLDS cần
bổ sung thêm quy định này để bảo vệ được quyền lợi của các bên trong giao
kết hợp đồng.HĐVH do bị nhầm lẫn thuộc trường hợp vô hiệu tương đối vì
vậy nếu không có yêu cầu của bên bị nhầm lẫn thì hợp đồng vẫn có giá trị thi
hành đối với các bên giao kết [51, tr.66].

1.3. Các trường hợp hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Hợp đồng là sự thoả thuận, sự thoả thuận này dựa trên nguyên tắc tự do
hợp đồng, có nghĩa là ý chí của các bên được thể hiện một cách tự do, không
chịu bất kỳ một sự tác động nào. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường
hợp các bên hoặc một trong các bên khi đàm phán, ký kết hợp đồng ý chí của
họ được hình thành một cách không tự nguyện, tức là họ không được tự do
trong việc thể hiện ý chí của mình hoặc xuất phát từ những ý niệm không xác
thực. Pháp luật gọi các trường hợp này là hợp đồng được ký kết trái nguyên
tắc tự do tự nguyện thoả thuận. Những trường hợp này là: nhầm lẫn, lừa dối
và đe doạ [43].
Theo quy định của pháp luật của tất cả các nước, nhầm lẫn có thể được
coi là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH, tuy nhiên thế nào là nhầm
lẫn được xem xét không giống nhau trong pháp luật của các nước khác nhau.
18


Pháp luật của các nước hầu như không ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa
học pháp lý, về vấn đề này có nhiều cách nhìn khác nhau.
Có quan đỉểm cho rằng, nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được
ký kết nhưng ý chí của một hoặc của các bên được hình thành không đúng vì
nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do các bên chưa thoả thuận hết mọi
điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không thể hiện sự cẩn thận cần
phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc hành vi của người
thứ ba. Ý kiến khác cho rằng, nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký kết
không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết
quả mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng. Có thể nói, nhầm
lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của họ trong giai đoạn
thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối.
Việc coi nhầm lẫn là căn cứ tuyên bố HĐVH gặp phải hai vấn đề phức
tạp trong khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Một mặt, trên xuất phát từ

thuyết ý chí, nhầm lẫn được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí
đích thực của chủ thể và vì vậy nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu. Mặt
khác nếu trong mọi trường hợp khi hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích
thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ tạo ra sự không ổn định, mất trật tự
trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh doanh thương mại- điều mà
không ai muốn. Chính vì vậy nên pháp luật cũng như Toà án cẫn phải thận
trọng trong việc xem xét HĐVH. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ
trên cần phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý,
tức là không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng và nhầm lẫn có ý nghĩa
pháp lý-là căn cứ để yêu cầu toà án tuyên bố HĐVH. Như vậy không phải
mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm lẫn. Điều này là nhất
quán trong mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên trong thực tiễn việc phân biệt

19


×