Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn thạc sĩ Vai giao tiếp trong tiểu thuyết số đỏ của Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1023.1 KB, 85 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
-------------

VAI GIAO TIẾP TRONG TIỂU THUYẾT
SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Kim Anh

HẢI PHÒNG, NĂM 2016


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì


công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii

LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp, đề tài “Vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng” là kết quả của quá trình học tập và nghiên cứu của học viên
Nguyễn Thị Thu Trang tại trường Đại học Hải Phòng.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Phạm
Thị Kim Anh – người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường Đại học Hải
Phòng, Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển và Bách khóa thư Việt Nam, phòng
Quản lí khoa học và đào tạo sau đại học của trường Đại học Hải Phòng.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động
viên, tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành luận văn.

Hải Phòng, tháng 12 năm 2016
Tác giả luận văn


iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………………i
LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………………….ii
MỤC LỤC……………………………………………………………………….....iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ……………………………………………………...iv
DANH MỤC BẢNG………………………………………………………………...v
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… 1
1. Lí do chọn đề tài. ……………………………………………................................1
2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6
6. Đóng góp của luận văn............................................................................................6
7. Cấu trúc luận văn...................................................................................................7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN…...........8
1.1. Khái quát về giao tiếp………………………………………..............................8
1.2. Một số vấn đề về lý thuyết hội thoại……………………………………..........11
1.3. Vai giao tiếp…………………………………………………….......................14
1.4. Nhà văn Vũ Trọng Phụng và tiểu thuyết Số đỏ………………….……………24
Tiểu kết chương 1.....................................................................................................27
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM VAI GIAO TIẾP TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ QUA
CÁCH XƯNG HÔ CỦA CÁC NHÂN VẬT...........................................................29
2.1. Các từ ngữ để xưng hô trong tiểu thuyết Số đỏ................................................ 29
2.1.1. Cách xưng và các từ ngữ dùng để xưng......................................................... 29
2.1.2. Cách hô và các từ ngữ dùng để hô..................................................................31
2.2. Chiến lược giao tiếp xưng hô của các nhân vật.................................................34
2.2.1 Chiến lược giao tiếp xưng hô trong phạm vi gia đình.....................................35



iii
2.2.2 Chiến lược giao tiếp xưng hô trong phạm vi xã hội.........................................41
2.3. Hiện tượng chuyển vai trong tiểu thuyết Số đỏ.................................................46
2.3.1. Vài nét khái quát về hiện tượng chuyển vai trong giao tiếp...........................46
2.3.2. Sự chuyển vai giao tiếp trong Số đỏ...............................................................47
Tiểu kết chương 2.....................................................................................................51
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VAI GIAO TIẾP TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG QUA CÁC HÀNH VI NGÔN NGỮ...................................53
3.1. Các hành vi ngôn ngữ thể hiện vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng..............................................................................................................53
3.1.1. Thống kê tần số xuất hiện...............................................................................53
3.1.2. Nhận xét..........................................................................................................54
3.2. Miêu tả một số hành vi ngôn ngữ.....................................................................54
3.2.1. Hành vi ra lệnh, khuyên, xin...........................................................................54
3.2.3. Hành vi hỏi......................................................................................................62
3.2.3. Hành vi nhờ.....................................................................................................64
3.2.3. Hành vi trần thuật............................................................................................69
Tiểu kết chương 3.....................................................................................................73
KẾT LUẬN………………………………………………………………………...75
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….....77


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoạt động giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người, trong tổ
chức và phát triển của xã hội. Thông qua hoạt động giao tiếp, con người chẳng những truyền
đạt những nhận thức, tư tưởng, tình cảm với nhau (truyền đạt từ nơi này sang nơi khác,
truyền đạt từ thế này sang thế hệ khác) mà còn tập hợp nhau, tổ chức thành các tập thể xã
hội. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người, ngôn ngữ giúp

con người giao tiếp với nhau và trao đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm với các sắc thái tinh
vi, tế nhị nhất.
Qua vai giao tiếp, vị thế xã hội, tính cách, suy nghĩ,.... của con người, đặc biệt là nhân
vật trong văn học được thể hiện một cách sinh động, rõ nét. Đồng thời, tư tưởng, tình cảm,
quan điểm của nhà văn được bộc lộ sâu sắc. Việc nghiên cứu vai giao tiếp trong tác phẩm
văn học sẽ góp phần khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt đó.
Vũ Trọng Phụng một nhà văn hiện thực lớn đầy tài năng, tiêu biểu cho “khuynh
hướng tả chân” trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Số đỏ là cuốn tiểu thuyết trào
phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa, phát huy cao độ tài năng châm
biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm, Vũ Trọng Phụng xây dựng
“hình ảnh thu nhỏ của một xã hội rộng lớn” với thế giới nhân vật đông đúc, phức tạp, đủ loại
quái thai: me Tây, nhà giàu hãnh tiến, bọn trí thức dâm uế vô liêm sỉ, bọn tu hành, gõ mõ giả
dạng, gái tân thời mất nết… Nhà văn vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng
người mang danh thượng lưu, quí phái, văn minh tân tiến nhưng thực chất là những cặn bã,
quái thai của cái xã hội dở Tây dở ta.
Với Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đặc biệt dụng công trong việc xây dựng ngôn ngữ đối
thoại làm nổi bật bản chất, tính cách của nhân vật. Qua đó, vai giao tiếp của mỗi nhân vật
cũng được hiện lên một cách đa dạng, sinh động thể hiện nét độc đáo trong cách xây dựng
nhân vật và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Những điều lí giải ở trên là cơ sở để chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu đề tài “Vai
giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng”.


2
2. Lịch sử vấn đề
Ngữ dụng học xuất hiện trên thế giới từ nửa đầu thế kỉ XX với nhiều nhà nghiên cứu
nổi tiếng: J.L.Austin, J.RSearle, JJKatz, Ballmer…Ở Việt Nam, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức
Dân, Nguyễn Thiện Giáp là những người có công mở đường cho ngành ngữ dụng học.
Ngữ dụng học nghiên cứu việc sử dụng ngôn ngữ của người nói, việc sử dụng này
không thể lí giải được bằng các lý thuyết ngữ nghĩa học tiền dụng học cũng như không thể lí

giải được bằng những tri thức về ngôn ngữ tách riêng. Theo một cách hiểu hẹp hơn, ngữ
dụng học quan tâm tới việc người nghe làm thế nào nắm bắt được ý nghĩa mà người nói có ý
định nói ra. Theo nghĩa rộng, nó quan tâm tới những nguyên tắc chung chi phối sự giao tiếp
giữa người với người. Một trong những yếu tố chi phối sự giao tiếp giữa các nhân vật giao
tiếp chính là vai giao tiếp.
Vai giao tiếp là một vấn đề quan trọng của dụng học luôn thu hút sự quan tâm của
nhiều người và nhiều ngành. Chuyên ngành xã hội học từng có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến vai giao tiếp như sau:
- “Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt” của tác giả Nguyễn Văn
Khang (1996)
- Ngữ dụng học, T.I của Nguyễn Đức Dân (1998 )
- “Vài nét về ngôn ngữ giao tiếp trong các cuộc nói chuyện giữa 3 thế hệ “Ông bà –
Cha mẹ - Con cháu” tại một số gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Phan Thị Yến
Tuyết & Lương Văn Hy (2000)
- “Phong cách giao tiếp của người lớn với trẻ em: giới, giai tầng xã hội và vùng địa
lý” của Lương Văn Hy (2000)
- “Hệ thống từ xưng gọi trong tiếng Việt hiện đại” của tác giả Lý Toàn Thắng (2012)
Chuyên ngành Ngữ dụng học, vấn đề vai giao tiếp đề cập đến trong các công trình
nghiên cứu như sau:
- Giáo trình “Ngữ dụng học” của Đỗ Thị Kim Liên (2005)
- “Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt” (Tạp chí Ngôn ngữ số 1, 2005 - Tạ
Thị Thanh Tâm)


3
- “Đại cương ngôn ngữ học”, tập 2 của GS.TS. Đỗ Hữu Châu ( 2007)
- “Dụng học Việt Ngữ” của Nguyễn Thiện Giáp (2007)
- “Giao tiếp, Diễn ngôn và Cấu tạo” của văn bản của Diệp Quang Ban (2012)
- “Giáo trình Ngữ dụng học” của Nguyễn Thị Thuận (2014)...
Có thể nói, những cuốn sách, bài viết của các tác giả nêu trên là cơ sở lí thuyết căn

bản của giao tiếp ngôn ngữ. Các công trình nghiên cứu về những vấn đề cụ thể của vai giao
tiếp đến nay chưa nhiều, chủ yếu là các luận án Tiến sĩ và một số luận văn Thạc sĩ. Những
luận văn này, bước đầu ứng dụng lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ để nghiên cứu những vấn đề
cụ thể của vai giao tiếp.
Tạ Thị Thanh Tâm đã nghiên cứu sâu về vai giao tiếp trong bài viết “Vai giao tiếp và
phép lịch sự trong tiếng Việt” ( Tạp chí Ngôn ngữ số 1, 2005) và trong Luận án Tiến sĩ “Lịch
sự trong một số nghi thức giao tiếp tiếng Việt”, tác giả cũng có bàn đến lịch sự và vai giao
tiếp. Lê Ngọc Hòa khảo sát về “Đặc điểm cách xưng hô của các vai giao tiếp trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan” (Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Vinh, năm 2006). Bùi Khánh Chi đã
chọn “Vai giao tiếp trong truyện ngắn của Nam Cao” làm đề tài Luận văn thạc sĩ (Đại học
Hải Phòng, 2011). Tác giả đã vận dụng lí thuyết về hội thoại, về giao tiếp để tìm hiểu những
đặc điểm của vai giao tiếp trong truyện ngắn của Nam Cao thể hiện qua hai phương diện là
từ xưng hô và hành vi ngôn ngữ. Hoàng Thị Tưới tìm hiểu “Đặc điểm ngôn ngữ giới tính
trong phát ngôn và hồi đáp hỏi qua tác phẩm của Nam Cao”( Luận văn thạc sĩ – Đại học Hải
Phòng 2011); Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Bích Thơm (Đại học Hải Phòng, 2014)
nghiên cứu về “Vai giao tiếp trong Kính vạn hoa và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của
Nguyễn Nhật Ánh. Luận văn đi sâu làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lí thuyết giao tiếp, đặc
biệt là mối quan hệ giữa vai giao tiếp và phép lịch sự.
Bên cạnh đó, có một số luận văn đã nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ, các hành vi
ngôn ngữ cũng góp phần thể hiện rõ vai giao tiếp trong hội thoại. Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Ngận, Lê Thị Thu Hoa, Đinh Thị Hà bảo vệ năm 1996 đã nghiên cứu về cấu
trúc ngữ nghĩa của một số nhóm động từ nói năng biểu thị các hành vi ngôn ngữ như: nhóm
"bàn", "cãi", "tranh luận", nhóm "khen", "tặng", "chê" … thành công của các luận văn này là
đã xây dựng được cấu trúc ngữ nghĩa cho mỗi động từ thuộc một nhóm cụ thể.


4
Năm 1997, Nguyễn Thị Thái Hòa đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ với đề tài
"Cấu trúc nghĩa của động từ nói năng nhóm "Khuyên", "Ra lệnh", "Nhờ", trong luận văn này
Nguyễn Thị Thái Hòa đã vận dụng lí thuyết ngữ dụng học và tìm ra được các điều kiện thỏa

mãn của từng hành vi ngôn ngữ do động từ nói năng biểu thị ý nghĩa của nội dung mệnh đề
(dictum).
Đến năm 2000, ba tác giả Vũ Tố Nga, Nguyễn Thị Hoàng Yến, Hà Thị Hải Yến đã
thành công khi nghiên cứu về hành vi ngôn ngữ, biểu thức ngữ vi, phát ngôn ngữ vi ở ba
nhóm lớn là hành vi "cam kết", hành vi "chê" và hành vi "cảm thán".
Năm 2007, luận án tiến sĩ của Dương Tuyết Hạnh nghiên cứu “Hành vi nhờ và sự
kiện lời nói nhờ trong giao tiếp bằng tiếng Việt”. Năm 2014, luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi
Thị Hường (học viên Cao học, K4, Đại học Hải Phòng) với đề tài “Hành động cầu khiến
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”. Và đề tài “Hành vi nhờ và sự kiện lời nói nhờ trong
tác phẩm Vũ Trọng Phụng”, trong luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Hương Mai (Đại học Hải
Phòng, 2014) giúp chúng ta hiểu thêm một nét đẹp trong truyền thống ứng xử của người
Việt: "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".
Về tác giả Vũ Trọng Phụng và những sáng tác của ông, đặc biệt tiểu thuyết Số đỏ đã
có nhiều bài viết và sách nghiên cứu như sau:
- Vũ Trọng Phụng về tác giả, tác phẩm ( Nguyễn Ngọc Thiện (CB) , NXB GD, HN, 2001)
- Bản sắc hiện đại trong tác phẩm Số đỏ (Viện văn học, NXB Văn học, HN, 2003)
- Tiếng cười Vũ Trọng Phụng ( NXB Văn hóa Thông tin, HN, 2003)
- Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ( Đinh Trí Dũng – NXB KHXH,HN 2005)
- Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng ( T.S Đinh Lựu – NXB Thông tin và truyền
thông, 2010)
- Vũ Trọng Phụng - Tác phẩm và lời bình. ( Nhà xuất bản văn học 2012)…
Những công trình nghiên cứu trên đã cho chúng ta cái nhìn hệ thống về giá trị hiện
thực, giá trị nghệ thuật trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Cuốn “Vũ Trọng Phụng về tác
giả, tác phẩm” tập trung một số bài viết tiêu biểu, sâu sắc nhất về cuộc đời và sự nghiệp văn
học của ông. Đặc biệt, cuốn “Tiếng cười Vũ Trọng Phụng” đã đi sâu nghiên cứu nghệ thuật


5
trần thuật mang tính hài của Vũ Trọng Phụng, gắn với hệ thống ngôn ngữ và giọng điệu trào
phúng, tạo ra một loại văn bản độc đáo vừa thống nhất vừa đa dạng. Chuyên khảo “Nhân vật

tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng” tác giả đã có một số phát hiện mới trong quan niệm nghệ thuật
về con người, đề cập đến những biện pháp nghệ thuật chủ yếu trong xây dựng nhân vật kí
họa chân dung, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật.
Qua các công trình nghiên cứu Vũ Trọng Phụng, chúng tôi nhận thấy, ở những chặng
đường trước, các nhà nghiên cứu, phê bình tập trung khám phá và có những phát hiện sâu
sắc về tư tưởng, nội dung trong sáng tác của nhà văn. Càng về sau, các nhà nghiên cứu càng
có ý thức hơn và tập trung khám phá nghệ thuật, phong cách, thi pháp của nhà văn.
Tìm hiểu về Vũ Trọng Phụng, các nhà nghiên cứu đã có những con đường và khám
phá khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nhìn nhận, nghiên cứu vai giao tiếp trong
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Trên cơ sở thừa nhận và tiếp nối những thành quả nghiên
cứu của các tác giả nêu trên, đồng thời mong muốn góp phần hoàn thiện mảng đề tài về Vai
giao tiếp với thể loại tiểu thuyết - một hướng đi khá mới mẻ, chúng tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “Vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu Vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng, luận văn muốn góp phần vào nghiên cứu các chiến lược hội thoại của người Việt,
trong đó có chiến lược giao tiếp của các vai giao tiếp khác nhau.
Để đạt được mục tiêu nói trên, chúng tôi xác định nhiệm vụ của luận văn như sau:
- Giới thiệu lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài.
- Khảo sát và phân loại các vai giao tiếp qua cách sử dụng từ ngữ xưng hô trong tiểu
thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
- Nghiên cứu các đặc điểm của vai giao tiếp thể hiện trong hành vi ngôn ngữ, từ đó
xác định vị thế giao tiếp của các nhân vật trong hội thoại có ảnh hưởng tới việc lựa chọn từ
xưng hô, chỉ ra đặc điểm ngôn ngữ nhân vật khi tham gia giao tiếp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là vai giao tiếp của các nhân vật
trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã phối hợp sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê – phân loại: để khảo sát vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số
đỏ của Vũ Trọng Phụng. Dựa trên nguồn ngữ liệu thu thập được, luận văn tập trung phân
tích, miêu tả ngữ liệu để rút ra những nhận xét và kết luận về vai giao tiếp của các nhân vật
trong việc xây dựng hình tượng nhân vật của nhà văn.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu: phương pháp này được dùng để đối chiếu các
vai giao tiếp quyền lực và kết liên.
5.3. Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp nghiên cứu này được dùng để
phân tích lời thoại, tổng kết các kết quả nghiên cứu.
5.4. Các thao tác xử lí tư liệu
- Thống kê các cuộc hội thoại trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
- Phân loại vai giao tiếp trong các cuộc hội thoại trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng.
- Phân loại hành vi ngôn ngữ của các nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng.
6. Đóng góp luận văn
Nghiên cứu những vấn đề nêu trên là một công việc có ý nghĩa cả về lí luận lẫn thực
tiễn.
- Về mặt lí luận: Luận văn góp phần làm rõ vai trò, tác dụng của lí thuyết ngữ dụng
học trong nghiên cứu tác phẩm văn học. Đồng thời, góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của
ngành Ngôn ngữ : Nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong giao tiếp bằng tiếng Việt qua việc
vận dụng các lí thuyết cơ bản của Ngôn ngữ học, đặc biệt là lí thuyết Ngữ dụng học.… Hơn
nữa, luận văn có giá trị thúc đẩy sự tìm kiếm những phương thức biểu hiện mới, vừa giúp
người nghiên cứu nhận diện, đánh giá một cách thỏa đáng những hiệu quả đích thực của sự
cách tân về ngôn ngữ trong văn xuôi Việt Nam hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm sáng
tỏ thêm một số vấn đề khi nghiên cứu về vai giao tiếp; nâng cao hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ



7
trong cuộc sống. Đồng thời, luận văn còn góp phần khẳng định văn tài của Vũ Trọng Phụng
trong lĩnh vực sáng tạo ngôn ngữ tiếng Việt.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Nguồn ngữ liệu, nội
dung luận văn bao gồm ba chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lí thuyết và một số vấn đề liên quan
CHƯƠNG 2: Đặc điểm vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng qua
cách xưng hô của các nhân vật
CHƯƠNG 3: Đặc điểm vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng qua
hành vi ngôn ngữ của các nhân vật


8
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. Khái quát về giao tiếp
1.1.1. Định nghĩa
Giao tiếp quá trình trao đổi thông tin giữa ít nhất hai chủ thể giao tiếp, diễn ra trong
một ngữ cảnh và tình huống nhất định, bằng một hệ thống tín hiệu nhất định.
Theo Các Mác “Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”, và các mối quan
hệ này được biểu hiện rõ nhất trong giao tiếp. Chính vì vậy, giao tiếp không chỉ là một hoạt
động xã hội cơ bản, mà nó còn đánh dấu sự phát triển vượt bậc của xã hội. Chính nhờ có
giao tiếp mà con người mới hoàn thiện và phát triển. Trong giao tiếp bao giờ cũng có 2 nhân
tố: người phát / người nói và người nhận / người nghe.
Thực ra trong nhiều hoạt động của con người, mỗi thành viên (người phát ngôn và
người nhận) luôn có quan hệ tương tác. Người nói vừa giữ vai trò chủ động, vừa bị chi phối
bởi người nghe. Nghĩa là người nói phải phụ thuộc người nghe để lựa chọn nội dung,
phương tiện, cách thức biểu đạt...
Người nghe cũng không hoàn toàn thụ động so với người nói, người nghe chi phối

nội dung, cách thức của người nói, đồng thời còn tham gia điều chỉnh nội dung và cách thức
của người nói, nhìn thái độ của người nghe mà nói. Như thế, hai nhân vật giao tiếp không
những có sự đổi vai cho nhau, mà còn luôn luôn tương tác, để có thể điều chỉnh hoạt động
nói, hoạt động nghe. Ngoài ra, mỗi nhân vật giao tiếp đồng thời vừa đóng vai trò của người
nói, vừa đóng vai trò của người nghe.
Đáng chú ý là quan niệm nổi tiếng của R. Jakobson về giao tiếp. Ông đã xem xét vấn
đề giao tiếp dưới góc độ chức năng khu biệt của các đơn vị ngôn ngữ. Theo ông, mỗi hành vi
giao tiếp ngôn ngữ bao gồm 6 nhân tố: người phát, thông điệp, người nhận, ngữ cảnh tiếp
xúc và mã. Ông đã khái quát hoạt động giao tiếp qua mô hình sau:
Ngữ cảnh
Người phát ----->

Thông điệp
Tiếp xúc


----->

Người nhận


9
Mô hình giao tiếp của ông được xem là đầy đủ nhất và phản ánh một cách bản chất
nhất cơ chế của một quá trình giao tiếp.
1.1.2. Nhân tố giao tiếp
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu “Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào cuộc
giao tiếp bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác
động vào nhau. Đó là những tương tác bằng ngôn ngữ”. [10, tr.15]. Nhân vật giao tiếp đóng
vai trò quan trọng trong quá trình giao tiếp, có thể thúc đẩy hoặc tự kết thúc cuộc thoại; chính
đó là linh hồn của cuộc thoại.

Hoàn cảnh giao tiếp: Những hiện thực bên ngoài diễn ngôn, tạo nên môi trường cho
cuộc giao tiếp, gồm hoàn cảnh giao tiếp rộng (tiền giả định bách khoa của các thoại nhân),
thoại trường, hiện thực được nói tới trong diễn ngôn.
Ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp, gồm ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, các biến thể
ngôn ngữ (theo phương ngữ và theo ngữ vực).
Diễn ngôn (ngôn bản/văn bản): là đơn vị ngôn ngữ được dùng trong lời nói gồm phát
ngôn (dạng hiện thực hóa của câu trong giao tiếp) hay chuỗi các phát ngôn theo một đề tài,
chủ đề chung nào đó trong cuộc giao tiếp.
Tình huống giao tiếp (ngữ huống) và ngôn cảnh. Tình huống giao tiếp: là trạng thái
trực tiếp, cụ thể của ngữ cảnh ở một thời điểm nhất định nào đó của cuộc giao tiếp do tác
động tổng hợp của các nhân tố ở thời điểm đó. Ngôn cảnh: là hoàn cảnh ngôn ngữ, gồm tiền
ngôn cảnh và hậu ngôn cảnh
1.1.3. Chức năng giao tiếp
Chức năng của giao tiếp là vai trò, nhiệm vụ mà giao tiếp phải thực hiện, phải đảm
nhiệm trong đời sống cộng đồng. Cụ thể nó có các chức năng sau:
- Chức năng thông tin:
Khi giao tiếp, phát ngôn của mỗi bên tham gia đều chứa đựng thông tin. Không có
phát ngôn nào là không chứa đựng thông tin.
- Chức năng tạo lập quan hệ:
Giao tiếp không chỉ có chức năng thông báo mà còn có vai trò, nhiệm vụ thiết lập,
củng cố, phát triển các mối quan hệ giữa các đối tượng, làm cho quan hệ đó tốt đẹp lên hoặc
xấu đi. Chức năng này góp phần hình thành vai giao tiếp cho mỗi cá nhân trong cộng đồng.
- Chức năng tự biểu hiện.


10
Trong cuộc thoại, con người luôn tự ý thức về bản thân mình thông qua sở thích, tình
cảm, khuynh hướng, trạng thái tâm lí... bộc lộ với người đối thoại.
- Chức năng giải trí.
- Chức năng hành động.

Các chức năng này đan xen phối hợp nhau. Tùy trong từng cuộc giao tiếp cụ thể mà
chức năng nào được coi là chính yếu. Xét về việc xác lập “vai” trong giao tiếp thì chức năng
“tạo lập quan hệ” và “tự biểu hiện” là quan trọng nhất.
1.1.4. Sự kiện giao tiếp
Khi nhắc tới lí thuyết về vai giao tiếp, không thể không nói tới sự kiện giao tiếp. Theo
tác giả D.Hymes, để nói lên bản chất của quá trình này chỉ có thuật ngữ SPEAKING (gồm
tám chữ cái viết tắt để chỉ tám yếu tố tham gia vào sự kiện giao tiếp) mới miêu tả đầy đủ toàn
bộ hoạt động giao tiếp. Dưới đây là sự cụ thể hóa thuật ngữ này.
SPEAKING: Sự kiện giao tiếp
(1)

S: Chu cảnh và bối cảnh

(2)

P: Người tham gia giao tiếp

(3)

E: Mục đích giao tiếp

(4)

A: Chuỗi hành vi

(5)

K: Kênh hoặc phương thức truyền tin

(6)


I: Công cụ để truyền tin

(7)

N: Chuẩn tương tác và chuẩn giải thích

(8)

G: Thể loại

Khi giao tiếp trong bất kể tình huống nào đều phải tuân thủ theo quy tắc nhất định.
Và để đạt được mục đích cũng như hiệu quả giao tiếp, con người cần phải chấp hành theo
tám yếu tố có liên quan đến sự kiện giao tiếp như trên.
1.1.5. Quan hệ giao tiếp
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là sự tác động lẫn nhau thông qua các diễn ngôn
của những người tham gia giao tiếp. Trong một cuộc giao tiếp, các vai giao tiếp được đặt vào
các mối quan hệ, và những mối quan hệ này đóng vai trò chi phối cả nội dung lẫn hình thức
hoạt động giao tiếp. Trong cuốn “Ngôn ngữ học xã hội - những vấn đề cơ bản”, tác giả


11
Nguyễn Văn Khang đã viết: “Để có thể giao tiếp được với nhau, giữa những người tham gia
giao tiếp phải có một mối quan hệ qua lại nhất định, đó chính là quan hệ giao tiếp.” [34, tr .198]
Quan hệ giao tiếp được tác giả chia thành hai loại chính: quan hệ quyền thế và quan
hệ kết liên.
Quan hệ quyền thế (quan hệ theo trục dọc) là “quan hệ trên - dưới, sang - hèn, tôn khinh”. [34, tr.199]. Quan hệ này thể hiện vị thế xã hội giữa những người tham gia giao tiếp.
Sự không bình đẳng về vị thế, trước hết là những vấn đề của ngữ cảnh: tuổi tác, giới tính, địa
vị, vai trò trong hội thoại, sự làm chủ ngôn ngữ…
Trong gia đình, đó là những người bậc trên và những người bậc dưới (ông bà - cháu

chắt; bố mẹ - con cái; chú, dì, cô, bác - cháu...); là quan hệ giữa người sinh trước và sinh sau
trong cùng một thế hệ như anh / chị - em.
Trong quan hệ xã hội, đó là quan hệ giữa thủ trưởng - nhân viên, giữa người ít tuổi
với người nhiều tuổi và ngược lại... Nhìn chung, loại quan hệ này căn cứ chủ yếu vào các
yếu tố: tuổi tác, địa vị, thứ bậc để phân vai.
Quan hệ kết liên (quan hệ theo trục ngang) là “quan hệ ngang bằng, là một sự sẻ chia
giữa mọi người ở mức độ gần gũi, thân mật.”[ 34, tr.199 - 200]
Sự thân tình hay xa lạ tồn tại ở nhiều mức độ khác nhau. Chẳng hạn quan hệ giữa bố
mẹ - con cái thường gắn bó, gần gũi hơn quan hệ ông bà - cháu chắt.
Vị thế xã hội và mức độ thân cận có ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung, hình thức và
cả quá trình giao tiếp. Vị thế xã hội không đồng nhất với vị thế giao tiếp (vai trò, vị thế của
nhân vật tham gia hội thoại). Trong giao tiếp, quan hệ quyền thế và quan hệ kết liên có sự
hòa trộn vào nhau một cách mật thiết chứ không hề tách rời nhau. Cùng một quan hệ quyền
thế (người nói ở vị thế cao, người nghe ở vị thế thấp) nhưng nếu mức độ thân - sơ giữa họ
khác nhau thì cách sử dụng ngôn từ biểu thị quan hệ vai cũng khác nhau.
Chúng tôi sẽ vận dụng lí thuyết này để xem xét các mối quan hệ liên nhân giữa các
nhân vật trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, từ đó định dạng vai giao tiếp của các
nhân vật dựa trên sự xác lập từ cặp vai tương ứng với đối tượng giao tiếp.
1.2. Một số vấn đề về lý thuyết hội thoại
1.2.1. Khái niệm hội thoại
Hội thoại là một vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu trên thế giới và hiện nay ngôn ngữ
học của hầu hết các quốc gia đều bàn đến hội thoại. Ở Việt Nam, kế thừa những thành quả


12
của ngôn ngữ học thế giới hội thoại trở thành vấn đề nghiên cứu quan trọng của ngôn ngữ
học ứng dụng.
Nguyễn Thiện Giáp: “Giao tiếp hội thoại là hình thức cơ bản của ngôn ngữ. Giao tiếp
hội thoại luôn có sự hồi đáp giữa người nói và người nghe, chẳng những người nói và người
nghe tác động lẫn nhau mà lời nói của từng người cũng tác động lẫn nhau.”

Theo Đỗ Hữu Châu “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của
ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác”. [ 10, tr.15 ]
1.2.2. Vận động hội thoại
Trong bất cứ cuộc thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu:
1.2.2.1. Sự trao lời
Chuỗi đơn vị ngôn ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến
lúc chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình là một lượt lời. Nếu dùng kí
hiệu Sp để chỉ người tham gia vào hội thoại, Sp1 là vai nói, Sp2 là vai nghe. Sp1, Sp2 và Spn
là các đối tác hội thoại thì trao lời là vận động mà Sp1 nói lượt lời của mình ra và hướng lượt
lời của mình về phía Sp2 nhằm làm cho Sp2 nhận biết được rằng lượt lời được nói ra đó là
dành cho Sp2.
1.2.2.2. Sự trao đáp (exchange)
Cuộc hội thoại chính thức hình thành khi Sp2 nói ra lượt lời đáp lại lượt lời của Sp1.
Vận động trao đáp, cái lõi của hội thoại sẽ diễn ra liên tục, lúc nhịp nhàng, lúc khúc mắc, lúc
nhanh, lúc chậm với sự thay đổi liên tục vai nói, vai nghe.
Cũng như sự trao lời, sự hồi đáp có thể thực hiện bằng các yếu tố phi lời hoặc bằng
lời, thông thường thì hai loại yếu tố này đồng hành với nhau.
1.2.2.3. Sự tương tác (interaction)
Trong hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hưởng lẫn nhau, tác động qua lại với nhau,
làm biến đổi lẫn nhau. Trước cuộc hội thoại giữa các nhân vật có sự khác biệt, đối lập, thậm
chí trái ngược về các mặt (hiểu biết, tâm lí, tình cảm, ý muốn...) không có sự khác biệt này
thì giao tiếp thành thừa. Trong hội thoại và qua hội thoại những khác biệt này giảm đi hoặc
mở rộng ra, căng lên có khi thành xung đột.
Trong một cuộc hội thoại, sự trao lời, sự trao đáp và sự tương tác gắn bó chặt chẽ với
nhau. Đây là ba vận động đặc trưng cho một cuộc thoại, những quy tắc, cấu trúc và chức
năng trong hội thoại đều bắt nguồn từ ba vận động trên, chủ yếu là vận động tương tác.


13
1.2.3. Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự

Trong các quy tắc hội thoại thì quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân (phép lịch sự) có
tác động rõ rệt đến đặc điểm của các vai giao tiếp.
Giao tiếp là hành vi mang tính xã hội, chịu sự chi phối rất lớn của yếu tố lịch sự và
văn hóa. Lịch sự trong tương tác được G,Yule định nghĩa: “ Những phương thức được dùng
để tỏ ra rằng thể diện của người đối thoại với mình được thừa nhận và tôn trọng”.
Lịch sự là sự thể hiện cái văn minh tiến bộ của loài người. Không có người nào lại
thích những lời lẽ và cử chỉ thiếu lịch sự. Lịch sự bao gồm hai phương diện: kính và khiêm.
Trên thực tế, hai phương diện này luôn luôn hỗ trợ cho nhau. Người biết kính trọng người
khác thì tất phải biết tự hạ mình. Người biết tự hạ mình tức là biết tôn trọng người khác.
[13, tr.36]
Dáng vẻ, cử chỉ, lời nói là ba mặt thể hiện cụ thể của tính lịch sự. Ba phương diện này
tuy có khác biệt nhưng lại liên hệ mật thiết với nhau. Trong đó, lời lẽ đặc biệt là cách xưng
hô như thế nào để phù hợp với vai giao tiếp, phù hợp với quy phạm đạo đức xã hội là vấn đề
cần quan tâm hàng đầu trong giao tiếp ngôn ngữ. Trong quan hệ giao tiếp, các đối tượng
tham gia đối thoại thuộc những nhóm xã hội riêng biệt, vì thế đặc điểm ngôn ngữ của nhóm
này có thể khác với các nhóm xã hội khác. Tuy nhiên, từ những góc độ khác nhau, mỗi
người lại thuộc về một số nhóm xã hội khác nhau. Trong một quá trình giao tiếp ngôn ngữ
cụ thể, hai bên đối thoại có thể sắm vai thành viên của một hoặc một vài nhóm xã hội nào đó.
Do vậy, quan hệ giữa hai bên tham gia giao tiếp không đơn giản là quan hệ giữa nhóm xã hội
thuộc về người phát ngôn và người nhận phát ngôn. Có khi nó tổng hòa của những nhóm xã
hội mà người tham gia giao tiếp là đại diện.
Quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân – phép lịch sự chi phối cả tiến trình giao tiếp,
cả nội dung và hình thức diễn ngôn, cũng như hội thoại và xưng hô. Do đó, các từ xưng hô
trong tiếng Việt chịu áp lực rất mạnh của quan hệ cá nhân. Qua các từ xưng hô, vai người
nghe có thể nhận biết được vai người nói đã xác định quan hệ dọc hay quan hệ ngang trong
giao tiếp như thế nào để hồi đáp cho phù hợp. Qua việc sử dụng từ xưng hô mà vai nghe
biết được vai nói xác định quan hệ vị thế và quan hệ xã hội với mình như thế nào.Từ xưng
hô cũng phần nào phản ánh đặc điểm tính cách, văn hóa giao tiếp của các vai giao tiếp.
Ngoài ra, quan hệ liên cá nhân cũng chi phối việc lựa chọn hành vi ngôn ngữ của các vai
giao tiếp để đạt được mục đích giao tiếp nhất định.



14
Qua nghiên cứu tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi nhận thấy đặc điểm
của các vai giao tiếp trong truyện của ông gắn bó mật thiết với phép lịch sự. Với ánh sáng
của lí thuyết lịch sự, ta có thể nhận thấy tài năng của nhà văn trong việc khắc họa cá tính của
từng vai giao tiếp trong những ngữ cảnh cụ thể.
1.3. Vai giao tiếp
1.3.1. Một số quan điểm về vai giao tiếp
Khi cá nhân tham gia vào hoạt động giao tiếp thì mang theo các vai xã hội vào quá
trình giao tiếp, được gọi là vai giao tiếp. Vai giao tiếp là một trong hai mối quan hệ của nhân
vật giao tiếp: quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân. Trong đó, quan hệ vai giao tiếp là
quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp đối với chính sự phát, nhận trong giao tiếp.
Tác giả Đỗ Hữu Châu quan niệm trong một cuộc giao tiếp luôn có sự phân vai. Ông
dùng kí hiệu Sp để chỉ người tham gia vào hội thoại. Sp1 là vai người nói, Sp2 là vai người
nghe. Cuộc đối thoại thông thường là sự luân chuyển giữa hai vai với nhau. (Sp1 <--> Sp2)
trong đó Sp1 và Sp2 có thể tồn tại ở hai dạng. Sp1 gồm chủ ngôn, thuyết ngôn và Sp2 gồm
đích ngôn, tiếp ngôn. Đôi khi người nói trực tiếp không phải là người nói thực sự và người
nghe trực tiếp cũng không phải người tiếp nhận thông tin thực sự. Nhưng dù thế nào đi
chăng nữa, Sp1 và Sp2 đều phải cùng hướng vào mục đích giao tiếp chung và có niềm tin
vào chính cuộc giao tiếp đó. Thông qua hình ảnh tinh thần về người đối thoại mà cá nhân có
thể hình thành ‘vai giao tiếp’ cho phù hợp với vị thế của người cùng tham gia giao tiếp.
Để tiến hành giao tiếp các thành viên tham gia giao tiếp phải xác lập vị thế giao tiếp
của mình, nghĩa là phải nhận thức được đầy đủ về đối tượng tham gia giao tiếp ( về tuổi tác,
nghề nghiệp, địa vị xã hội, mục đích giao tiếp, vốn sống…) và về chính bản thân mình. Nếu
giao tiếp mới là sự gặp gỡ, tiếp xúc lần đầu thì các thì các thành viên tham gia giao tiếp phải
có bước thăm dò đối tượng thông qua cách giao tiếp, trình độ văn hóa ứng xử của mình để
thể thu thập thông tin về đối phương. Vai giao tiếp chính là cương vị xã hội của một cá nhân
nào đó trong một hệ thống các quan hệ xã hội. Vai được hình thành trong quá trình xã hội
hóa cá nhân. Mỗi lần chuyển vai là thực hiện chuyển mã ngôn ngữ cho phù hợp với địa vị

mới. Quá trình giao tiếp sẽ giúp cho mỗi bên xác lập nên các quan hệ, xác lập được tư cách
vai của mình và đối tượng giao tiếp, từ đó sẽ có đủ cơ sở để lựa chọn từ xưng hô và cách
xưng hô sao cho phù hợp để tiếp tục duy trì cuộc thoại một cách hiệu quả nhất. Trong quá


15
trình giao tiếp, nếu hai bên chưa tìm được từ xưng hô và cách xưng hô phù hợp thì có thể tự
điều chỉnh dần dần từ xưng hô và cách xưng hô sao cho phù hợp với vị thế của mỗi bên tham
gia giao tiếp để làm tăng hay kéo dài cuộc thoại có hiệu quả cao.
Ví dụ: Cuộc đối thoại giữa Xuân Tóc Đỏ và cô Tuyết
- Tôi phải làm gì?
- Phải giả vờ chim tôi..., chúng ta giả vờ chim nhau, mê nhau... Cho hắn bỏ tôi, mình
hiểu chưa? Ta giả vờ với nhau thôi mà! Tôi cần mang tiếng hư hỏng lắm mới được.
- Thế sao nữa ạ?
- Anh thì anh cũng phải mang tiếng là làm hại một đời tôi mới xong!
- Nếu em hứa là sau này đừng làm anh mọc sừng là anh xin làm hại một đời em thật
sự, chứ không còn “mang tiếng” gì nữa.
Trong cuộc hội thoại trên Xuân Tóc Đỏ đã dần dần điều chỉnh cách xưng hô, từ cách
xưng hô xa cách, khách sáo “tôi” đã chuyển dần sang “anh, em” thân mật. Cách xưng hô
được thay đổi phù hợp với mức độ tình cảm thân thiết đang dần tăng tiến của hai nhân vật.
Mỗi cá nhân trong xã hội có thể thuộc về một nhóm nhỏ xã hội nhất định, đồng thời
cũng có thể tham gia với tư cách là thành viên vào nhiều nhóm xã hội khác nhau về địa vị xã
hội, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, học vấn, uy tín xã hội. Các thành viên trong một nhóm
xã hội bao giờ cũng ở vào một địa vị nhất định với các quan hệ xã hội nhất định theo các quy
tắc thiết chế và chuẩn mực xã hội của từng nhóm. Chính cái vị trí hay chức trách và các quan
hệ xã hội ấn định cho một cá nhân nào đó trong một nhóm xã hội được gọi là vai xã hội của
cá nhân đó. Trong quan hệ vai, mỗi thành viên của nhóm được ấn định cho một bộ hành vi
cá nhân phù hợp với vai của mình. Bộ hành vi này nói chung là ổn định, lặp đi lặp lại, phù
hợp với chuẩn mực ứng xử xã hội và để lại dấu ấn đậm nét, rõ ràng trong cách ứng xử ngôn
ngữ của con người. Do đó, chúng ta mới thường nghe thấy những lời nhận xét kiểu như:

"giọng như giọng bà chủ", "giọng kẻ cả", "giọng như ông cụ non", "nói như ông tướng",
v.v… Mỗi cá nhân luôn có một bộ vai xã hội phản ánh quan hệ ứng xử xã hội của cá nhân
đó. Mỗi vai được xác lập từ một cặp vai, như: mẹ - con, bố - con, anh - em, vợ - chồng, bệnh
nhân - bác sĩ, giáo viên - học sinh, thủ trưởng - nhân viên, người mua - người bán, v.v…
Quan hệ xã hội của cá nhân càng phong phú thì số lượng vai càng lớn, do đó bộ vai của cá
nhân đó sẽ càng lớn. Ví dụ: trong quan hệ gia đình, một cá nhân thường có các cặp vai: là bà
đối với các cháu, là mẹ đối với các con và là con đối với cha mẹ mình, là vợ đối với chồng,


16
là chị đối với các em, v.v… Trong quan hệ xã hội thường có các cặp vai: là thủ trưởng đối
với nhân viên cấp dưới và là nhân viên đối với thủ trưởng cấp trên của mình ở cơ quan/công
ti; là thầy giáo đối với học sinh và là học sinh đối với thầy giáo cũ của mình; là bệnh nhân
đối với bác sĩ và là bác sĩ đối với bệnh nhân của mình; là khách hàng đối với chủ cửa hàng
khi mua bán… Mỗi cặp vai có một ngôn ngữ riêng trong ứng xử xã hội, tương ứng với một
biến thể ngôn ngữ cá nhân của vai đó. Mỗi bộ vai có một bộ các biến thể ngôn ngữ đặc trưng
cho vai. Trong quan hệ vai, mỗi cá nhân có một số ngôn ngữ cá nhân tương ứng với từng
quan hệ vai của mình. Khi cá nhân chuyển từ cương vị này sang cương vị khác, tức là
chuyển vai, thì cá nhân ấy đồng thời cũng chuyển mã ngôn ngữ, nghĩa là chuyển sang một
biến thể ngôn ngữ cá nhân khác phù hợp với quan hệ vai mới. Chẳng hạn, khi một người là
thủ trưởng phát biểu ở cơ quan sẽ không giống như cách nói năng với vợ con của ông ta khi
ở gia đình. Một người vợ nói chuyện với chồng sẽ khác với cách nói năng ở lớp với học sinh
của mình v.v…
Mỗi con người bao giờ cũng có một “bộ vai xã hội” theo từng cặp đối xứng phản ánh
quan hệ ứng xử xã hội của cá nhân đó. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ học xã hội, tác giả Nguyễn
Văn Khang cho rằng để có thể giao tiếp được với nhau, giữa những người tham gia giao tiếp
phải xác định “vai” cho mình dựa trên mối quan hệ qua lại nhất định nào đó. Quan hệ giao
tiếp này được xây dựng trên cơ sở hệ thống các mối quan hệ xã hội chung, trên cơ sở cấu
trúc của xã hội đó. “Mỗi ngôn ngữ nói chung và trong một ngôn ngữ nói riêng đều chịu sự
chi phối của nhiều nhân tố như truyền thống dân tộc, cấu trúc xã hội, ý thức cộng đồng và

tương ứng với khoảng cách về nhân thân cũng như mức độ thân sơ giữa những người giao
tiếp.” [ 34, tr.201 - 202]
Bất kì một sự kiện nói năng nào, người nói và người nghe phải lựa chọn câu hỏi và
câu trả lời phù hợp với vị thế xã hội của mình. Muốn có sự lựa chọn đúng đắn thì bắt buộc
người tham gia giao tiếp phải tính đến mối quan hệ giữa bản thân với đối tượng giao tiếp.
1.3.2. Các phương tiện thể hiện vai giao tiếp
Vai giao tiếp được hình thành từ quan hệ liên nhân và thể hiện thông qua các phương
tiện sau:


17
1.3.2.1. Phương tiện phi ngôn ngữ
Yếu tố phi ngôn ngữ bao gồm: các cử chỉ, điệu bộ, khoảng cách không gian, tiếp xúc
cơ thể, tư thế cơ thể, vẻ mặt, ánh mắt... Tùy thuộc vào mối quan hệ với đối tượng giao tiếp
mà người nói có thể chọn cho mình tư thế giao tiếp phù hợp với vai đảm nhiệm.
Chẳng hạn, khi giao tiếp với bề trên, người dưới có tư thế cúi đầu, khoanh tay... nhằm
thể hiện sự lễ phép, còn khi nói chuyện với bạn bè cùng trang lứa thường có những cử chỉ đi
kèm như: khoác vai, bá cổ, bắt tay... tạo sự thân thiện. Thông qua phương tiện phi ngôn ngữ
mà thái độ, tình cảm của người tham gia giao tiếp được bộc lộ.
1.3.2.2. Phương tiện ngôn ngữ
a. Yếu tố kèm lời
Yếu tố kèm lời là các yếu tố mặc dầu không có đoạn tính như âm vị và âm tiết nhưng
đi kèm với các yếu tố đoạn tính. Không một yếu tố đoạn tính nào được phát âm ra mà không
có yếu tố kèm lời đi theo. Được kể vào những yếu tố kèm lời là những yếu tố như ngữ điệu,
trọng âm, cường độ, độ dài, đỉnh giọng. Các yếu tố này được cụ thể hóa bằng một thuật ngữ
mang tính chất thông dụng - giọng điệu.
Trong đối thoại, tùy theo từng đối tượng giao tiếp khác nhau mà giọng điệu có sự thay
đổi cho phù hợp: có khi nhỏ nhẹ, trầm ấm, cũng có khi gắt gỏng, rin rít...
b. Yếu tố ngôn ngữ
Yếu tố ngôn ngữ được coi là hạt nhân của lời nói. Yếu tố này được bộc lộ chủ yếu

qua việc sử dụng từ xưng hô, sử dụng hành vi ngôn ngữ và sử dụng từ tình thái. Vì vậy, từ
xưng hô và hành vi ngôn ngữ sẽ được phân tích kĩ càng hơn thành các mục riêng và lấy đó
làm cơ sở khảo sát vai giao tiếp trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
1.3.3. Từ xưng hô
1.3.3.1. Khái niệm về xưng hô
Để cuộc thoại có thể tiến hành, đầu tiên chủ thể giao tiếp phải đưa mình và đối tượng
diễn ngôn bằng cách lựa chọn những từ ngữ xưng hô thích hợp. Khái niệm phạm trù xưng
hô cũng được hiểu và lí giải theo nhiều cách khác nhau.
Diệp Quang Ban cho rằng: “Đại từ xưng hô dùng thay thế và biểu thị các đối tượng
tham gia quá trình giao tiếp.” [ 2, tr.111 ]


18
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang, xưng hô là thuật ngữ dùng để chỉ việc tự gọi mình
(xưng) và gọi người khác (hô) khi giao tiếp. [ 34, tr.204 ]
Xưng hô là một hiện tượng ngôn ngữ học xã hội bởi đó là sự tương tác giữa vai xã hội
và vai giao tiếp, phản chiếu các mối quan hệ đa chiều từ gia đình đến xã hội của các cá nhân
trong cộng đồng giao tiếp. Đối với giao tiếp tiếng Việt, xưng hô giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Từ ngữ xưng hô tiếng Việt đã tường minh hóa các vai xã hội của người Việt, đồng
thời thể hiện vị thế xã hội, thể hiện mức độ thân cận, bảo đảm sự lịch sự của người nói đối
với những người cùng giao tiếp. Hơn nữa, đây cũng là yếu tố để đánh giá về khả năng ứng
xử và trình độ văn hóa của mỗi người.
1.3.3.2. Một số nhân tố chi phối việc dùng từ xưng hô trong giao tiếp
Các nhà nghiên cứu chỉ ra các yếu tố chi phối từ xưng hô bao gồm:
- Xưng hô phải thể hiện vai giao tiếp (vai nói, nghe).
- Xưng hô phải thể hiện cho được quan hệ quyền uy.
- Xưng hô phải thể hiện cho được quan hệ thân cận.
- Xưng hô phải phù hợp với ngữ vực.
- Xưng hô phải thích hợp với thoại trường. Yêu cầu này cho thấy, cùng một từ xưng hô
nhưng ở trong những hoàn cảnh khác nhau lại mang nghĩa khác nhau. Do đó, từ xưng hô

cũng phải biến đổi linh hoạt cho thích nghi với hoàn cảnh giao tiếp.
- Xưng hô phải thể hiện cho được thái độ, tình cảm của người nói với người nghe. Để tỏ
sự tôn trọng, người ta thường sử dụng cách xưng hô nâng bậc và để tỏ thái độ coi thường,
khinh bỉ, người ta sử dụng lối hô hạ bậc. Đáng ở bậc trên mà dùng từ bậc dưới để hô, đáng ở
tuổi trên nhưng lại dùng ở tuổi dưới mà gọi.
1.3.3.1. Các phương tiện xưng hô
Xưng hô không phải là yếu tố cố định, bất biến mà có sự thay đổi theo lịch sử, theo
diễn biến của cuộc giao tiếp. Trong tiếng Việt, hệ thống từ xưng hô rât đa đạng, phong phú.
Lớp từ ngữ xưng hô được chia thành hai loại lớn: từ xưng hô chuyên dụng và từ xưng hô
lâm thời. Sau đây là các phương tiện xưng hô cụ thể:
+ Xưng hô bằng đại từ nhân xưng
+ Xưng hô bằng từ chỉ quan hệ thân tộc
+ Từ xưng hô phỏng theo xưng hô thân tộc


19
+ Xưng hô bằng họ tên
+ Xưng hô bằng từ chỉ nghề nghiệp, chức danh
1.3.4. Hành vi ngôn ngữ
Với ngôn ngữ, theo những cách thức khác nhau, chúng ta nói ra (viết ra)
những phát ngôn nhằm những mục đích nhất định: trần thuật, miêu tả, hỏi, xin, sai, hứa,
khuyên, mời, chào, xin lỗi,… Hành động ngôn ngữ đòi hỏi phải có điều kiện, thao tác, cách
thức tổ chức thao tác và quan trọng nhất là đích như mọi hành động khác của con người có ý thức.
1.3.4.1. Ba loại hành vi ngôn ngữ
Trong mọi cuộc giao tiếp, một phát ngôn (diễn ngôn) được tạo ra thường do ba loại
hành động.
Thứ nhất là hành động tạo lời. Đó là hành động vận động các cơ quan phát âm (hoặc
cử động tay để tạo ra các nét chữ) vận dụng các từ và kết hợp các từ theo các quan hệ cú
pháp thích hợp thành các câu, rồi tổ chức các câu thành diễn ngôn (văn bản)… Nhờ hành
động tạo lời, chúng ta hình thành nên các biểu thức có nghĩa. Nếu gặp một trở ngại nào đó ở

cơ quan phát âm hoặc không tìm ra từ thích hợp, hoặc không rành về các quan hệ cú pháp,
về cách tổ chức các biểu thức thành văn bản, thành diễn ngôn thì chúng ta không thực hiện
được hoặc thực hiện không hoàn chỉnh hành động tạo lời, không tạo ra được các biểu thức
có nghĩa để phục vụ cho đích giao tiếp chúng ta đặt ra. Sản phẩm của hành động tạo lời là
đối tượng nghiên cứu của cú pháp tiền ngữ dụng.
Thứ hai là hành động mượn lời là khi thực hiện một phát ngôn là hành động nhằm
gây ra những biến đổi trong nhận thức, trong tâm lý, trong hành đông vật lý có thể quan sát
được, gây ra một tác động nào đấy đối với ngữ cảnh. Ví dụ:
< 1 > Đến Tết rồi.
Nghe phát ngôn này, có người háo hức, vui vẻ vì được nghỉ ngơi, vui chơi, có người
lo lắng vì không có tiền mua sắm, đón Tết, có người đưa ra những dự định công việc để sắm
Tết, đón Tết….Đó là những hiệu quả mượn lời của phát ngôn < 1 >. Hiệu quả mượn lời là
những hiệu quả ngoài ngôn ngữ (đúng hơn là ngoài diễn ngôn) và phân tán, không có tính
quy ước và khó tìm ra cơ chế chung.
Thứ ba là hành động ở lời (trong lời, ngôn trung). Đây là hành động mà đích của nó
nằm ngay trong việc tạo nên phát ngôn được nói ra (viết ra). Chính cái đích này phân biệt các


20
hành động ở lời với nhau. Hành động ở lời hỏi có đích là bày tỏ mong muốn được giải đáp
điều người nói chưa rõ nên khác hành động ở lời hứa vì hứa có đích là (người nói) tự ràng
buộc mình vào một hành động sẽ thực hiện trong tương lai.
Ví dụ: Lời hứa nhân vật Xuân Tóc Đỏ với cô Tuyết
- Xin lấy danh dự ra mà làm hại một đời em.
Ở ví dụ trên, ngay lúc hứa, Xuân Tóc Đỏ đã bị ràng buộc vào trách nhiệm thực hiện
được lời hứa làm hại đời cô Tuyết và người nghe là cô Tuyết có quyền lợi chờ đợi, được
hưởng kết quả của lời hứa đó như mong muốn.
Ba loại hành động : Hành động tạo lời, hành động ở lời, hành động mượn lời đựơc
thực hiện theo cách thống hợp khi tạo ra một diễn ngôn. Ngữ dụng học nghiên cứu chủ yếu
các hành động ở lời.

Trong đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm hành vi ở lời bởi lẽ chỉ có loại hành
vi ở lời mới có hiệu lực thay đổi quyền lực và trách nhiệm của người hội thoại. Đồng thời,
qua sự thay đổi đó người ta có thể nhận ra vai giao tiếp của cả người nói và người nghe.
1.3.4.2. Điều kiện sử dụng các hành động ở lời
Con người khi muốn thực hiện một hành động vật lý nào đấy, không phải cứ muốn là
làm được, phải hội đủ điều kiện thì mới làm được hành động đó hoặc hành động của mình
mới có hiệu qủa. Vì cũng là hành động, hơn nữa lại hành động xã hội, nên hành động ở lời
cũng phải có điều kiện thích hợp mới thực hiện được và hành động mới có hiệu quả. Mỗi
hành động ở lời như chào, kể, bác bỏ, từ chối, sai khiến, cầu xin, hứa, dặn dò…… đều có
điều kiện riêng. Những điều kiện nếu có chúng thì hành động ở lời mới thực hiện được và
mới thực hiện có hiệu quả được gọi là điều kiện sử dụng của hành động ở lời.
Tuy điều kiện sử dụng ở mỗi hành động ở lời khác nhau nhưng vẫn có thể tìm ra
những cái chung trong những điều kiện riêng. Searle đã cho rằng có bốn loại điều kiện sử
dụng hành vi ở lời sau đây:
* Điều kiện nội dung mệnh đề
Đây là điều kiện liên quan tới cấu trúc quan hệ ngữ nghĩa của nội dung mệnh đề. Điều
kiện này chỉ ra nội dung của hành động ở lời.
* Điều kiện chuẩn bị
Đây là điều kiện liên quan tới những hiểu biết của người thực hiện hành động về
những tri thức nền của người tiếp nhận hành động, về quyền lợi, về các trách nhiệm, về năng


×