Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Khoá luận tốt nghiệp tiếp nhận tiểu thuyết số đỏ của vũ trọng phụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.24 KB, 58 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

•••

KHOA NGỮ VĂN
--------soCIca----------

CHU THỊ HẰNG

TIẾP NHẬN TIẺU THUYÉT SÔ ĐỎ
m

CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG Ở VIỆT NAM


••

KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC


•••

Chuyên ngành: Lí luận văn học
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

•••

KHOA NGỮ VĂN
--------soCIca----------



CHU THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2015


TIẾP NHẬN TIẺU THUYÉT SÔ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG
PHỤNG Ở VIỆT NAM
•••

KHÓA LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học
ThS. MAI THỊ HỒNG TUYẾT

HÀ NỘI - 2015


Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Mai Thị Hồng
Tuyết. Cô đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập nghiên cứu cũng như luôn động viên khuyến khích tôi thực hiện đề tài
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Lí luận văn
học, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận này.

LỜI CẢM ƠN

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm

2015 Tác giả khóa
luận

Kết quả nghiên cứu này là của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của
Thạc sĩ Mai Thị Hồng Tuyết. Khóa luận không trùng với kết quả
nghiên cứu của những tác giả khác. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Mọi tư liệu trích dẫn trong khóa luận là hoàn toàn trung thực.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu mọi trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05
năm 2015 Tác
giả khóa luận

MUC
LUC

•................................................................................................................................................................................................................................................................


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chu Thị Hằng






MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
1. Mĩ học tiếp nhận ra đời vào những năm 60 của thế kỉ 20 ở Đức,

gắn với nhân vật tiêu biểu là Hans Robert Jauss và Wolfwang Iser, hai
giáo sư trẻ trường đại học Konstanz. Trong khi văn học sử lúng túng với
việc giải quyết mâu thuẫn giữa yếu tố lịch sử và yếu tố thẩm mĩ, nghiên
cứu bản thể luận bộc lộ hạn chế khi tập trung nghiên cứu văn bản tách ròi
các liên hệ bên ngoài, Mĩ học tiếp nhận với việc đề cao vấn đề tiếp nhận,
đề cao vai trò của độc giả đã góp phần giải quyết bế tắc trong nghiên cứu
văn học thời kì đó. Mĩ học tiếp nhận hưng thịnh vào những năm 70, lan
tỏa ra nhiều nước trên thế giới và thu được những thành tựu nghiên cứu
quan trọng, tiêu biểu là ở Mĩ, chủ yếu chịu ảnh hưởng tư tưởng của Iser
đã hình thành nên khuynh hướng Phê bình theo phản ứng của người đọc.


Ở Việt Nam, lí thuyết này xuất hiện khá sớm (1985). Sự xuất

hiện của mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong
việc nghiên cứu văn học nước nhà, bởi lí thuyết tiếp nhận giúp giải quyết
những vấn đề văn học phức tạp gây tranh cãi.
2. Số đỏ là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu trong hệ thống
sáng tác của Vũ Trọng Phụng, và được coi là một trong những hiện tượng
văn học phức tạp, gây nhiều tranh cãi. Tác phẩm đã trải qua nhiều sóng
gió dư luận khác nhau, ở mỗi giai đoạn nó lại được độc giả tiếp nhận vói
những thái độ riêng.
3. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một tác phẩm nằm trong hệ thống
các tác phẩm giảng dạy trong nhà trường. Vì vậy, việc hiểu đúng được
nội dung, hình thức cũng như giá trị tác phẩm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng cho quá trình dạy học của giáo viên. Nghiên cứu đề tài “Tiếp nhận



tiểu thuyết số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam” mang lại ý nghĩa thực
tiễn lớn cho công việc giảng dạy văn học.


2. Lịch sử vấn đề


Vũ Trọng Phụng là một trong những cây bút tiêu biểu của

nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cuộc đòi ông tuy ngắn ngủi (1912 1939) nhưng khối lượng tác phẩm của ông để lại khá phong phú: hơn 50
tác phẩm trong đó có 28 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 8 phóng sự, 6 kịch
bản, 1 dịch thuật. Ngoài ra còn có một số bài viết tranh luận, phê bình
văn học và hàng trăm bài báo về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa...
Nghiên cứu về vũ Trọng Phụng đã có rất nhiều, nhưng mỗi đề tài lại có
những hướng nghiên cứu, tiếp cận khác nhau.


Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiếp cận được một

số bài viết và công trình nghiên cứu về số đỏ và Vũ Trọng Phụng đáng lưu
ý như:


về cuộc đời sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng có: Vũ Trọng

Phụng về tác gia và tác phẩm (2000) biên tập các bài viết của nhiều tác giả.

Chuyên luận Vũ Trọng Phụng nhà văn hiện thực (1957) của Văn Tâm. Vũ
Trọng Phụng (1912 -1930) (1988) của Nguyễn Hoành Khung.



Nghiên cứu về tác phẩm số đỏ của Vũ Trọng Phụng có các

công trình: Nhà văn tư tưởng và phong cách (1976) của Nguyễn Đăng Mạnh,
số đỏ (2000) của Trần Đăng Suyền hay Những lớp sóng ngôn từ trong số đỏ của
Vũ Trọng Phụng của Đỗ Đức Hiểu. Cuốn Nhà vãn Vũ Trọng Phụng với chúng ta

(Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1999) do Trần Hữu Tá sưu tầm - biên soạn - giới
thiệu ra mắt nhân dịp 60 năm Ngày Vũ Trọng Phụng qua đòi là một công
trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu nhằm “xem xét sơ lược vấn đề Vũ
Trọng Phụng trong non 70 năm qua” với hướng thể hiện “sự trân trọng


đúng mức của chúng ta hôm nay đối vói thành quả sáng tạo của ông cho
nền văn học Việt Nam hiện đại”.


Qua khảo sát, chúng tôi cũng nhận thấy vấn đề “Tiếp nhận

tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam” chưa được nghiên
cứu. Do đó, trong công trình này, chúng tôi cũng đặt ra và giải quyết vấn
đề trên cơ sở hệ thống tư liệu phong phú hiện có.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vỉ nghiên cứu
3.1.

Đối tượng nghiên cứu


Tìm hiểu về các khuynh hướng tiếp nhận tiểu thuyết số đỏ


của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam qua các thòi kì.
3.2.

Phạm vỉ nghiên cứu


Do điều kiện tìm tư liệu và khuôn khổ của một khóa luận,

chúng tôi chỉ đi vào những hướng tiếp cận chính đối vói tác phẩm số đỏ
của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
4. Phương pháp nghiên cứu


Trong quá trình thực hiện bài khóa luận này, chúng tôi thực

hiện một số phương pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích đối tượng theo quan điểm hệ thống
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
5. Nhiệm vụ và ý nghĩa của khóa luận
5.1.

Nhiệm vụ nghiên cứu


Đọc cuốn Lý luận văn học tập 1, đặc biệt là các chương:

Chương X: “Bạn đọc, chủ thể tiếp nhận văn học”; Chương XI: “quá trình
tiếp nhận” do Phương Lựu (chủ biên), bài viết “Mĩ học tiếp nhận” của

Dranov in trong cuốn Tạp chí Vẫn học, số 3 - 2002 để nắm được lý thuyết
về mỹ học tiếp nhận.




Tìm hiểu các bài phê bình, các công trình nghiên cứu Vũ

Trọng Phụng nói chung và tiểu thuyết số đỏ nói riêng. Tiếp nhận những ý
kiến đó để khái quát lại các khuynh hướng tiếp nhận tiểu thuyết sổ đỏ của
Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam.
5.2.

Ý nghĩa cửa khóa luận


Từ lí thuyết mỹ học tiếp nhận, vận dụng để tìm hiểu sự tiếp

nhận tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam. Từ đó góp phần
đánh giá đúng về tác phẩm, khái quát được các khuynh hướng tiếp nhận
tiểu thuyết số đỏ ở Việt Nam. Việc nghiên cứu đề tài “Tiếp nhận tiểu
thuyết số đỏ của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam” còn có ý nghĩa thực tiễn
lớn cho công tác giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông.
6.
Bổ cuc của khóa luân






Ngoài phần: mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về mĩ học tiếp nhận
Chương 2: Các khuynh hướng tiếp nhận tiểu thuyết sổ đỏ ở
Việt Nam







NHẬN
1.1.

NỘI DUNG

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VÈ MỸ HỌC TIẾP

Sự ra đời của mỹ học tiếp nhận


Mỹ học tiếp nhận là “một khuynh hướng trong nghiên cứu

và phê bình văn học, xuất phát tò ý tưởng theo đó, tác phẩm: “nảy sinh”,
“được thực hiện” chỉ trong quá trình “gặp”, xúc tiếp của tác phẩm văn
học với độc giả, và đến lượt mình, nhờ “liên hệ ngược”, độc giả lại tác
động đến tác phẩm, do vậy, độc giả quyết định tính chất lịch sử cụ thể
của việc tiếp nhận và tồn tại của tác phẩm. Như thế, đối tượng của nghiên

cứu chủ yếu của mỹ học tiếp nhận là sự tiếp nhận, tức là sự cảm nhận tác
phẩm văn học của độc giả hoặc thính giả.” [5; 81]




Hoạt động văn học từ xưa đến nay đều vận hành qua các

khâu: hiện thực - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cho nên, cũng như các
mối quan hệ giữa tác phẩm vói hiện thực, tác phẩm với nhà văn,... từ rất
lâu, người ta ít hoặc nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, toàn diện hoặc một vài
khía cạnh, đã chú ý đến mối quan hệ giữa tác phẩm vói bạn đọc, tức là sự
tiếp nhận tác phẩm văn học của bạn đoc.


Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại cũng đã chú ý đến vấn đề

tiếp nhận của bạn đọc, “như trong Thi học, Arixtốt cho rằng khi thưởng
thức tác phẩm người đọc cảm thấy thú vị, là vì vừa xem, họ vừa đoán
định được tác phẩm đang nói đến người và việc nào đó ở ngoài đòi... Rải
rác về sau vẫn thấy không ít những ý kiến càng nhấn mạnh vai trò của
người đọc” [11; 326]. Tuy nhiên, quan niệm của nhà thi học này chủ yếu
là thuyết mô phỏng, tái hiện, nghĩa là chỉ tập trung vào mối quan hệ giữa
tác phẩm và hiện thực mà thôi.


Xét về nguồn gốc, mỹ học tiếp nhận là sự phản ứng đối với

mỹ học nội quan, đối với tư tưởng về tính tự tri của nghệ thuật, đối vói
kiểu nghiên cứu có định hướng phiến diện vào sự phân tích “tác phẩm tự

thân”. Mỹ học tiếp nhận đoạn tuyệt vói những ý niệm về tính độc lập của
nghệ thuật với văn cảnh xã hội lịch sử, nó gia nhập lĩnh vực nghiên cứu
độc giả và xã hội, nó trình bày văn bản văn học như sản phẩm của tình thế
lịch sử, phụ thuộc vào lập trường của độc giả lí giải. Do vậy, mỹ học tiếp
nhận đặc biệt chú ý đến các hiện tượng của văn hóa đại chúng (văn
chương giải trí tầm thường, các loại ấn phẩm báo chí, truyện tranh...), sự
nghiên cứu của chúng vói các nghiên cứu xã hội học, khoa học sư phạm,
các môn nghiên cứu khoa học ứng dụng.


Ngọn nguồn của mỹ học tiếp nhận có giải thích học

(hermeneutik) vốn dựa vào “triết học sự sống” của W.Dilthey và hiện


tượng học của E.Husserl, có chủ nghĩa cấu trúc trường phái Prague, có
chủ nghĩa hình thức Nga những năm 1 0 - 2 0 của thế kỉ XX. “Chủ nghĩa
hình thức Nga, phê bình mới rồi chủ nghĩa cấu trúc... chỉ tập trung vào

những mối quan hệ bên trong, nội tại của chính văn bản tác phẩm. Độc
tôn văn bản tác phẩm, Phê bình mói còn phủ nhận luôn sự tiếp nhận của
người đọc, cho đó đều là những “cảm thụ ngộ nhận”.


Một trong nhưng bậc tiên phong chủ chốt của mỹ học tiếp

nhận hiện đại là Ingarden (1893 - 1970, triết gia Ba Lan), người đề xuất
một loạt quan niệm đã trở thành nền tảng cho các nhà nghiên cứu hiện
đại. Ông “coi trọng vai trò tiếp nhận của người đọc”. Ông cũng là người
đã tu chỉnh (trong công trình về việc nhận thức tác phẩm văn học nghệ thuật)

hai khái niệm cụ thể hóa và tái lập làm thành hai mặt của việc người nhận
(Adressat) tiếp nhận tác phẩm. Trong lí thuyết của ông về cấu trúc tác
phẩm nghệ thuật, Ingarden đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hiện tượng học
của Husserl. Đó trước hết là ý tưởng về tính chủ định (intentional), sau
đó trở thành ý tưởng cơ sở cho tất cả những ai tiếp tục chủ trương mỹ học
tiếp nhận. Chính ý tưởng này là sự luận chứng triết học cho bản chất giao
tiếp của nghệ thuật, giải thích tính chất tích cực, sáng tạo của sự tiếp
nhận ở độc giả. Chính ý tưởng ấy về vai trò sáng tạo của cá nhân trong
việc nhận thức thế giới đã được mỹ học tiếp nhận tiếp thu, đặt vào trung
tâm chú ý vấn đề sự tồn tại của tác phẩm như là kết quả giao tiếp giữa tác
phẩm và độc giả, như là việc tạo ra “hàm nghĩa của tác phẩm” bởi độc
giả.


Đầu những năm 40, ở các công trình của một đại diện chủ

nghĩa cấu trúc trường phái Prague là Felix Vodicka thấy có một hướng
khắc phục hiện tượng siêu hình của R.Ingarden. Có vai trò đáng kể ở đây
là những tư tưởng của J.V.Mukarovsky, trên cơ sở định nghĩa giao tiếp


mà ông xác lập còn khiếm khuyết. Felix Vodicka cho rằng, không phải tất
cả những sự cụ thể hóa có thể xét từ góc độ những ý đồ của cá nhân độc
giả, đều có thể trở thành mục tiêu nghiên cứu, mà chỉ có những sự cụ thể
hóa nào cho thấy có diễn ra sự “gặp gỡ” cấu trúc tác phẩm và cấu trúc các
chuẩn mực văn học do thời đại lịch sử cụ thể quy định, những chuẩn mực
mà người tiếp nhận là đại diện. Theo cách hiểu của nhà khoa học, người
tiếp nhận như thế, người đảm bảo cho chuẩn mực văn học hiện hành - là
nhà phê bình văn học, vồn có quy chế là “người bảo trợ các chuẩn mực
văn học”.



Một phần cốt yếu của mĩ học tiếp nhận là các vấn đề của giải

thích học, chúng tựa như những chiếc cầu nhỏ bắc từ cấu trúc tác phẩm
sang người tiếp nhận, người sẽ hiểu cấu trúc ấy. Ở công trình Lịch sử tác
động nghệ thuật của
H.

J.Gadamer, chân lí khoa học xã hội nhân văn (trong đó có

khoa học về văn học) được đem đối lập một cách dứt khoát với “tri thức
phương pháp” như là tổng số thông tin về sự kiện có được bỏi các khoa
học tự nhiên. Hiểu văn bản, theo Gadamer, nghĩa là “áp dụng”, “đặt để”
nó vào tình thế cùng với ngưòi lí giải (người tiếp nhận), cũng hệt như
người luật sư “áp dụng” (cụ thể hóa) bộ luật, nhà thần học áp dụng “Lời
Thiêng”.


Quan niệm của Gadamer mang tình chất hai mặt. Một mặt,

sự hiểu được ông xác định như sự tự biểu hiện của ngưòi lí giải vói sự hỗ
trợ của những bằng cứ tư liệu của tư liệu quá khứ, khác hẳn vói chủ nghĩa
lãng mạn.


Chống lại quan niệm về “sự thân thuộc bí ẩn giữa những tâm hồn”

tác giả và người lí giải tác giả, Gadamer yêu cầu cả hai cùng tham dự
công việc chung: cùng chìm ngập vào “hàm nghĩa chung” và trên cơ sở

ấy sẽ nảy sinh sự tự hiểu. Mặt khác, đối với Gadamer, “hàm nghĩa”


không trở thành đối tượng của một sự phân tích thực sự khoa học, bải vì
các nhà nghiên cứu bác bỏ dứt khoát các phương pháp nghiên cứu khoa
học, lí thuyết và siêu ngôn ngữ của khoa học.


Biểu hiện hoàn chỉnh nhất của các nguyên tắc mỹ học tiếp

nhận, tính đến nay, là ở công trinh của các nhà nghiên cứu thuộc trường
phái Konstanz ra đời ở Cộng hòa liên bang Đức những năm 60. Đại diện
là H. R. Jauss, w. Iser, R. Warning... “Họ phê phán thuyết văn bản trung
tâm của Phê bình mói và chủ nghĩa cấu trúc và khẳng định rằng ý nghĩa
của tác phẩm được sản sinh trong sự tương tác giữa văn bản với người
đọc.... Trên cơ sở đó, Mỹ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí trung tâm từ
văn bản sang người đọc và lịch sử văn học, do đó, không phải là lịch sử
của tác giả vói những tác phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc”
[11; 329]. Mỹ học tiếp nhận của trường phái này đặt mục tiêu cách tân và
mở rộng sự phân tích của nghiên cứu văn học bằng cách đưa vào lược đồ
quá trình văn học sử một bậc độc lập mới, đó là độc giả. Luận đề trung
tâm là: giá trị thẩm mỹ, tác động thẩm mỹ và tác động văn học sử một
bậc độc lâp mới, đó là độc giả. Luận đề trung tâm là: giá trị thẩm mỹ, tác
động thẩm mỹ và tác động văn học sử của các tác phẩm đều dựa trên cơ
sở sự khác biệt giữa tầm chờ đợi (tầm đón nhận) của tác phẩm và độc giả,
được thực hiện dưới dạng kinh nghiệm thẩm mỹ và kinh nghiệm sống thực
tế mà người đọc có được, về sau, dưói ảnh hưởng các cuộc thảo luận xung
quang tư tưởng của trường phái Konstanz, Juus đã biến điệu quan niệm
của mình, đặt lên hàng đầu quá trình giao tiếp giữa tác phẩm và người
tiếp nhận nó trong khuôn khổ kinh nghiệm thẩm mĩ, ở đó có các chức

năng tạo chuẩn mực và khẳng định chuẩn mực có vai trò đặc biệt.


Kết hợp phân tích đồng đại và lịch đại về sự tiếp nhận, H. R.

Jauss đã miêu tả lịch sử tiếp nhận như là quá trình khai triển dần dần tiềm
năng nghĩa ở tác phẩm vốn được hiện thòi hóa trong các giai đoạn lịch sử


của sự tiếp nhận. Theo ông, chỉ có nhờ vào trung giói của độc giả, tác
phẩm mói hòa hợp vói tầm kinh nghiệm biến đổi của một truyền thống
nào đó mà trong khuôn khổ của nó liên tục diễn ra sự phát triển của tiếp
nhận và thụ động, đơn giản, đến hiểu một cách có phê phán, tích cực; từ
chỗ dựa vào các chuẩn mực thẩm mỹ được thừa nhận đến chỗ thừa nhận
các chuẩn mực mới.


Tác phẩm văn học không thể coi như cái hoàn toàn mói, dựa

vào những tín hiệu lộ liễu, hoặc ẩn dấu chứa đựng bên trong, nó tạo cho
công chúng một cách tiếp nhận hoàn toàn xác định, nó kích thích độc giả
nhớ lại những gì đã đọc, đưa độc giả vào một trạng thái xúc cảm nhất
định.


Theo H. R. Jauss, tương quan giữa tác phẩm và công chúng

không phải chỉ là một chiều mang tính chất quyết định luận. Có những tác
phẩm vào lúc xuất hiện không hướng vào một công chúng nào thật xác
định, nhưng những tác phẩm ấy phá hủy không thương tiếc tầm chờ đợi

văn học quen thuộc, đối với điều kiện đó cần phải có thời gian để sản
sinh một công chúng, một môi trường độc giả có khả năng coi tác phẩm
ấy là “của mình”. Tầm chờ đợi văn học khác với tầm chờ đợi thực tiễn
sống ở chỗ, nó không chỉ bảo lưu kinh nghiệm trước kia, mà còn dự báo
khả năng chưa có, mở rộng không gian hạn hẹp của hành vi xã hội, làm
nảy sinh những mong muốn, nhu cầu mới.


w. Iser trong quá trình cẩu trúc vẫy gọi của văn bản đã đưa ra các

phạm trù tính bất định của tác phẩm văn học do R. Ingarden nêu ra, cho
rằng kinh nghiệm thẩm mỹ được hình thành chính là nhờ có những “vùng
bất định” hoặc những “điểm trống” trong văn bản. Ông đã dày công soạn
thảo cả một danh mục những điều kiện và những thủ pháp sản sinh những
“điểm trống” của văn bản.




Tuy nhiều luận điểm và định nghĩa đã được luận chứng khá

kĩ, song mỹ học tiếp nhận với tư cách là hệ thống lí thuyết vẫn còn chưa
hoàn chỉnh. Như
G. Grimm nhận xét, những khó khăn gắn với việc xây dựng một lí thuyết
tiếp nhận thống nhất, có gốc rễ ở tính phức tạp và đa thành phần của
chính đối tượng nghiên cứu, đòi hỏi sự tiếp cận phân tích liên ngành và
đa ngành. Hiện tại các chuyên gia mới chỉ ghi nhận một số lĩnh vực và
khuynh hướng nghiên cứu của mỹ học tiếp nhận:



+ Mỹ học tiếp nhận nhận thức lý thuyết (giải thích học và

hiện tượng học) + Mỹ học tiếp nhận mô tả tái tạo (chủ nghĩa cấu trúc,
những người kế tục chủ nghĩa hình thức Nga)


+ Mỹ học tiếp nhận xã hội học thực nghiệm (xã hội học về

thị hiếu đọc) + Mỹ học tiếp nhận tâm lý (nghiên cứu tâm lý các thế
hệ độc giả)


+ Mỹ học tiếp nhận lý thuyết giao tiếp (nghiên cứu kí hiệu



+ Mỹ học tiếp nhận thông tin xã hội học (nghiên cứu vai trò

học)
xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng)
1.2.

Sự giới thiệu và vận dụng lí thuyết tiếp nhận ở Việt Nam.


o •







o

ư

MT

»



Mĩ học tiếp nhận là lí thuyết văn học từng gây ảnh hưởng

lớn trên thế giới suốt từ những năm cuối thập kỉ 60 đến cuối thập kỉ 80 ở
phương Tây và rầm rộ ở Trung Quốc từ những năm 80 của thế kỉ 20 đến
giữa thập niên đầu tiên của thế kỉ XXI. Ở Việt Nam, mặc dù lí thuyết này
xuất hiện khá sớm (1985), nhưng cho đến nay, dấu ấn của nó vẫn chưa
thật sự rõ ràng, có rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác, tận dụng. Tái
hiện chỉnh thể diện mạo của Mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam và lí giải


nguyên nhân dẫn đến diện mạo đó là cơ sở quan trọng để luận bàn về vấn
đề tiếp nhận lí thuyết ngoại lai.


Mang tính chất khởi động về vấn đề tiếp nhận văn học ở Việt

Nam, phải kể đến bài viết Ỷ kiến của Lênỉn về mối quan hệ giữa vãn học và đời
sổng của Nguyễn Văn Hạnh trên Tạp chỉ văn học số 4 năm 1971. Quan tâm


đến vai trò của “thưởng thức” đối với việc hình thành giá trị của tác phẩm
là hướng đi có tính chất tiên phong trong thời điểm bấy giờ. Nếu chúng ta
lưu ý tới một điều là trong thời gian này, nghĩa là vào những năm 70, lý
thuyết tiếp nhận mới bắt đầu thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới, thì
chúng ta sẽ thấy sự nhạy cảm của tác giả và ý nghĩa thời sự của vấn đề do
tác giả đặt ra. Rất tiếc, tư tưởng này ngay sau đó không có cơ hội để phát
triển. Cũng cần lưu ý rằng ở miền Nam, ngay những năm 60 Nguyễn Văn
Trung cũng nhắc đến vấn đề tiếp nhận văn học trong cuốn Lược khảo vãn
học tập 2, và cũng rất tiếc là do hoàn cảnh đặc thù lúc bấy giờ nên những

nghiên cứu của ông đã không được hưởng ứng rộng rãi.


Phải đợi đến năm 1980, giáo sư Hoàng Trinh mới nhắc đến

vấn đề tiếp nhận văn học, nhưng ông lại bàn tò góc độ nền văn học này
tiếp nhận một nền văn học khác, tức là nó thuộc về lĩnh vực của văn học
so sánh. Mặc dù những bài viết trên còn khá khiêm tốn, nhưng ít nhiều đã
đánh thức giới nghiên cứu ý thức đến một vấn đề lí thuyết không kém
phần quan trọng khi nghiên cứu văn học, đó chính là lí thuyết tiếp nhận.


Trên cơ sở đó, năm tháng 11 năm 1985 Mĩ học tiếp nhận của

trường phái Konstanz Đức lần đầu tiên được Nguyễn Văn Dân giới thiệu
ở Việt Nam trong bài Tiếp nhận “Mĩ học tiếp nhận ” như thế nào ?. Trong bài
này, ông giới thiệu một số tư tưởng của Jauss qua thuật ngữ “Tầm đón
đợi”, “Khoảng cách thẩm mĩ Đáng tiếc là tiếp sau đó, Mĩ học tiếp nhận ở
Việt Nam không được chính thức nghiên cứu với tư cách là một khuynh

hướng lí thuyết riêng, mà chủ yếu được hòa vào trong hướng nghiên cứu


chung - nghiên cứu vấn đề Tiếp nhận văn học. Chẳng hạn, cùng năm
1986 Hoàng Trinh viết một bài khá dày dặn về Giao tiếp văn học (Tạp chỉ
Vãn học số 4) nhưng không nhắc gì đến Mĩ học tiếp nhận. Sang thập niên

90, Nguyễn Lai viết Tiếp nhận văn học một vẩn đề thời sự (Báo Vẫn nghệ số 27,
ngày 7-7-1990), Nguyễn Thanh Hùng viết


Trao đổi thêm về tiếp nhận văn học (Báo Văn nghệ số 42, ngày 10-10-

1990) đều nhấn mạnh đến tính chất chủ quan năng động của người đọc.
Cũng cần lưu ý rằng, bài viết của Nguyễn Lai nghiên cứu vấn đề tiếp
nhận tò góc độ đa ngành, mà chủ yếu là từ góc độ kí hiệu học, còn bài
viết của Nguyễn Thanh Hùng, mặc dù liệt kê tên của khá nhiều nhà
nghiên cứu tiếp nhận văn học trên thế giới, nhưng đối tượng nghiên cứu
trung tâm vẫn không phải là Mĩ học tiếp nhận. Để đối thoại với việc nhấn
mạnh vai trò chủ quan của người tiếp nhận trong hai bài viết trên, Trần
Đình Sử viết một bài đăng trên Văn nghệ số 50 năm 1990 thừa nhận “kẻ
có quyền cắt nghĩa tác phẩm thuộc về lịch sử, thuộc về các thế hệ người
đọc hiện tại và mai sau”, nhưng bên cạnh “phần mềm là sự cảm thụ, giải
thích đời sống xã hội, phụ thuộc vào “lòng”người đọc thì tác phẩm vẫn
còn “phần cứng là văn bản, là sự khái quát đòi sống có chiều sâu, một hệ
thống ý nghĩa đã được mã hóa”. Thực chất trong bài viết này, Trần Đình
Sử hướng tới điều chỉnh giữa chủ quan và khách quan trong tiếp nhận,
phản đối khuynh hướng cực đoan, đề cao quá mức chủ quan của người
tiếp nhận.



Trước sự tương đối sôi động trong bàn luận về tiếp nhận văn

học từ năm 1985 đến 1990, năm 1991 Viện thông tin khoa học xã hội cho
xuất bản cuốn Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, nhưng trong đó chỉ có bài
viết của Trần Đình Sử {Mẩy vấn đề lí luận tiếp nhận văn học) và của Nguyễn
Văn Dân (Lý luận tiếp nhận văn học với sự tiếp nhận văn học - nghệ thuật thế giới
ở Việt Nam ta hiện nay), 10 bài còn lại đều là dịch, lược dịch, lược thuật


những bài viết của Schiíĩmet, Morar, Pascadi, Marian... Năm 1995
Trương Đăng Dung công bố bài viết Từ văn bản đến tác phẩm văn học và giả
trị thẩm mĩ tập trung nghiên cứu vấn đề “văn bản”, “tác phẩm” và sự tạo

nghĩa thông qua hành động đọc. Trong bài viết này, ông vận dụng quan
điểm của nhiều nhà nghiên cứu tiếp nhận văn học, trong đó có nhắc qua
đến Jauss.


Cuối thập niên 90, đáng chú ý nhất là cuốn giáo trình Tiếp

nhận văn học (1997) viết cho trung tâm Đào tạo từ xa Đại học Huế của

Phương Lựu, chuyên luận Từ vãn bản đến tác phẩm văn học (1998) của
Trương Đăng Dung và bài Lý thuyết tiếp nhận và phê bình vãn học (số 124
tháng 06-1999). Trong cuốn giáo trình của mình, Phương Lựu đã dành
một chương để giới thiệu về Tiền đề sinh thành, về tư tưởng của Hans
Robert Jauss và Wolfgang Iser, đồng thời sơ bộ đánh giá những điểm“khả
thủ” và “cực đoan phiến diện” của Mĩ học tiếp nhận. Tuy vậy, nhìn chung,
phần viết về Mĩ học tiếp nhận trong giáo trình của Phương Lựu mới dừng

lại ở “giới thiệu sơ lược” về khuynh hướng nghiên cứu này. Cuốn chuyên
luận Từ văn bản đến tác phẩm văn học của Trương Đăng Dung thực chất
không tập trung nghiên cứu tiếp nhận văn học, trong 14 bài, chỉ có 2 bài
nhắc đến tư tưởng của khuynh hướng này trong những luận bàn chung về
Văn bản - tác phẩm - bạn đọc, trong đó bài Từ văn bản đế tác phẩm vãn học
và giá trị thẩm mĩ thực ra đã được công bố vào năm 1995, còn bài Tác phẩm
văn học như là quá trình (tác giả đề là hoàn thành năm 1996) thực chất đã

dùng tiêu đề một bài viết của M.Markov viết năm 1970. Trong bài viết
này, ông cũng nhắc đến quan niệm về hoạt động tiếp nhận và vấn đề văn
bản của hai đại diện lớn của Mĩ học tiếp nhận là Jauss và Iser. Tuy nhiên,
Trương Đăng Dung chỉ nêu lên tư tưởng của Mĩ học tiếp nhận như một
căn cứ để chứng minh cho luận điểm khác của mình, ngay lời đề từ của
bài viết ông cũng dùng câu nói của đại diện tiêu biểu cho Hiện tượng học


- một trong những tiền thân của Mĩ học tiếp nhận - Roman Ingarden, chứ
không phải của Jauss hay Iser. Còn Trần Đình Sử, mặc dù không nhắc gì
đến Mĩ học tiếp nhận trong bài viết công bố năm 1999 của mình nhưng
cũng đã nhắc đến những vấn đề cơ bản của tiếp nhận, như vấn đề đồng
sáng tạo của người đọc, tuy vậy, ông vẫn theo đuổi quan điểm cho rằng ý
nghĩa của tác phẩm văn học vừa phụ thuộc vào tiếp nhận, vừa phụ thuộc
vào văn bản.
Có thể thấy, những năm 90 ở Việt Nam, vấn đề tiếp nhận văn học



đã trở thành chủ đề được bàn luận khá sôi nổi, tuy nhiên, một đặc điểm
rất dễ



nhận thấy là các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa trên những tri thức

tổng hợp về Tiếp nhận văn học nói chung trên thế giới, cùng với sự nhạy
bén khoa học của mình để bàn luận vấn đề một cách chung nhất, chưa có
những nghiên cứu sâu giúp người đọc thực sự hình dung cụ thể về một lí
thuyết tiếp nhận, ngoại trừ những bài mang tính giới thiệu sơ lược.


Sang đầu thế kỉ 21, bóng dáng của mĩ học tiếp nhận được

xuất hiện trong hai chuyên luận Đọc và tiếp nhận văn chương (2002) của
Nguyễn Thanh Hùng và Tác phẩm vãn học như là quá trình (2004) của
Trương Đăng Dung. Trong công trình của mình, Nguyễn Thanh Hùng có
một mục viết về Trường phái tiếp nhận Konstanz và ỷ nghĩa của tên gọi nêu lên
sơ lược về các khuynh hướng nghiên cứu tiếp nhận nói chung, trong đó
có mĩ học tiếp nhận. Mặc dù đây là chuyên luận trên cơ sở tiếp thu tổng
họp lí thuyết tiếp nhận nước ngoài kết hợp với thực tế văn bản văn học
trong nước đã trình bày khá sâu sắc về vấn đề “đọc và tiếp nhận văn
chương”, nhưng mĩ học tiếp nhận không phải là đối tượng nghiên cứu
trọng tâm mà chỉ là một ví dụ, một phần rất nhỏ. Trương Đăng Dung
trong chuyên luận lần này đã nhắc nhiều hơn đến tư tưởng của trường
phái Konstanz khi bàn đến vấn đề “Kinh nghiệm thẩm mĩ và tầm đón


đợi”, “Sự đọc và quá trình cắt nghĩa văn bản”, “Tính lịch sử của quá trình
tiếp nhận”. Nhưng có thể nhận thấy Trương Đăng Dung nhắc nhiều hơn
đến tư tưởng tiền thân của mĩ học tiếp nhận là giải thích học và hiện
tượng học với những tên tuổi như Husserl, Heideger, Gadamer, Ingarden.



Đáng ghi nhận nhất là năm 2002 Trương Đăng Dung đã dịch

tuyên ngôn của Jauss Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn
học, và cho đến nay, đây vẫn là văn bản duy nhất của mĩ học tiếp nhận
được dịch ra tiếng Việt và công bố ở Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của các
công trình trên, trong thập niên đầu tiên của thế kỉ mới cũng rải rác có
các bài viết của Phạm Quang Trung đăng trên website cá nhân
(pqtrung.com) như Lỷ thuyết tiếp nhận trong đời sổng vãn chương hiện nay
(2009), Chung quanh khái niệm “tầm đón nhận” của H.Jauss (2010), ngoài ra có

một xu hướng tương đối nổi trội là Vận dụng một sổ vẩn đề của lí thuyết tiếp
nhận vào việc giảng dạy và học môn văn trong nhà trườngi2009). Tuy nhiên,

những bài viết kiểu này không có đóng góp gì mới mẻ về mặt nghiên cứu
lí thuyết. Cuối thập niên đầu tiên của thế kỉ mới, đáng chú ý hơn cả là
cuộc tranh luận nhỏ giữa Đỗ Lai Thúy và Trần Đình Sử quanh bài viết
Khi người đọc xuất hiệncủa Đỗ Lai Thúy. Để phản đối tiêu chí phân loại “độc

giả cổ điển” và “độc giả hiện đại” của Đỗ Lai Thúy, Trần Đình Sử đã vận
dụng tri thức tổng hợp tri thức về tiếp nhận văn học, trong đó có tư tưởng
của mĩ học tiếp nhận, để viết thành bài Những luận lỉ khó tin, và sau khi Đỗ
Lai Thúy thanh minh yếu ớt bằng bài Người đọc như là... thì Trần Đình Sử
liền công bố bài cần cỏ tiêu chí khoa học để phân biệt người đọc hiện đại và người
đọc cổ điển (2010).


Qua những thống kê về tình hình nghiên cứu mĩ học của Việt

Nam từ những năm 1980 đến những năm đầu thế kỉ XXI, có thể thấy

rằng Trương Đăng Dung là một trong số những nhà nghiên cứu tiêu biểu,


ông có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, là một trong những
chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này. Đe khẳng định vị trí của Trương
Đăng Dung, Nguyễn Mạnh Tiến từng có bài ca ngợi Trương Đăng Dung
- chuyên gia về mĩ học tiếp nhận. Tác giả Trịnh Nữ trong bài viết Phê bình
hiện tượng luận ở Việt Nam cũng đã khẳng định Trương Đăng Dung có “các

công trình dịch thuật nhiều nhà lý luận kinh điển của mỹ học tiếp nhận”.


Gần đây nghiên cứu Mĩ học tiếp nhận đáng chú ý nhất là

những bài viết của Hoàng Phong Tuấn, năm 2010 anh đã công bố bài viết
về sự khác nhau giữa “Lý thuyết tiếp nhận ” và “Mỹ học tiếp nhận ” của Hans
Robert Jaub và 2012 công bố bài: Một sổ điểm chỉnh trong ỉỷ thuyết tiếp nhận
của Wolfgang Iser. Bốn bài tranh luận, hai bài viết, một chương trong giáo

trình lí luận văn học và một cuộc hội thảo cho thấy vấn đề tiếp nhận văn
học trong hai, ba năm gần đây trở nên khá sôi động.


Qua lược thuật ở phần trên, có thể nhận thấy, trong gần 30

năm, thành tựu nghiên cứu về mĩ học tiếp nhận ở Việt Nam vẫn vô cùng
khiêm tốn, trừ những bài mang tính chất giới thiệu sơ lược trực tiếp, phần
lớn giới nghiên cứu văn học Việt Nam chủ yếu nhắc đến mĩ học tiếp nhận
trong tổng thể chung về vấn đề Tiếp nhận văn học, các bài viết chủ yếu là
góp nhặt mồi nơi một chút, rất hiếm những bài viết lấy mĩ học tiếp nhận

làm đối tượng trung tâm, có nhiều ý tưởng vay mượn nhưng cội nguồn tư
tưởng của nó cũng không được ghi rõ ràng. Và hệ quả tất yếu là việc áp
dụng lí thuyết này vào nghiên cứu thực tiễn văn học nước nhà cũng vô
cùng khiêm tốn. Ngoài ra, bổ sung, điều chỉnh về mặt lí thuyết sao cho
thích hợp với thực tiễn Việt nam cũng rất hạn chế.


Không có tác phẩm văn học nếu không có người đọc, một

nền văn học không chỉ là phép cộng giản đơn của tác giả, tác phẩm mà
còn phải kể tói mối quan hệ tác giả - tác phẩm, đội ngũ dồi dào những
người tiếp nhận chúng cùng thòi cũng như thế hệ mai sau. Quá t rình tiếp


nhận tác phẩm chính là sự đối thoại liên tục vói tác giả trên mọi lĩnh vực,
độc giả cũng là người đồng sáng tạo. Lý luận tiếp nhận đã làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng trong lịch sử tác phẩm văn học. Theo dõi đời
sống lịch sử của các tác phẩm văn học, dễ nhận thấy tiếp nhận văn học
ngày càng chiếm lĩnh tác phẩm một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn, cụ
thể hơn trong nhiều tương quan và bình diện hơn. Tiếp nhận là một vấn
đề rất mói mẻ và hấp dẫn, nó mở ra những chiều sâu khám phá sức sống
nội tại của một tác phẩm văn học, đặc biệt là đối với những tác phẩm
kinh điển, có sức sống mạnh mẽ trong lịch sử văn học. Vì vậy, sự giới
thiệu và vận dụng mĩ học tiếp nhận vào nghiên cứu văn học đã tạo ra
những đóng góp vô cùng quan trọng. Nó mở ra một hướng nghiên cứu
mói, khách quan hơn, đa chiều hơn, mở ra vô vàn những cái nhìn khác lạ.
1.3.

Một số thuật ngữ cơ bản khỉ nghiên cứu mĩ học tiếp nhận




Kỉnh nghiệm thẩm mỹ: một trong số những phạm trù trung

tâm của mỹ học tiếp nhận do R. Ingarden nêu ra trong cuốn Cụ thể hóa và
tái lập. Khái niệm này được H. R. Jauss tu chính trong cuốn Vãn học sử như
là sự khiêu khích nghiên cứu vãn học hay cuốn Kinh nghiệm thẩm mỹ và giải thích
văn học. Kinh nghiệm thẩm mỹ cho phép người đọc đột phá về phía tương

lai, mở cho con người những khả năng mói, làm sống lại cái quá khứ bị
lãng quên; cho phép người đọc thâm nhập vai đối vói cái thế giới được
mô tả và biểu hiện, tạo cho người đọc khả năng tham dự trò chơi độc đáo,
đồng nhất mình vói những gì được hình dung là lý tưởng; nó cũng cho
phép người đọc thưởng thức những cái mà trong cuộc đời thực không thể
thực hiện được. H. R. Jauss cho rằng, bản chất sâu xa của kinh nghiệm
thẩm mỹ không phải ở sự tiếp nhận hay nhạy bén cái mói, không phải ở
cái ấn tượng sửng sốt chứa đựng trong sự làm quen vói thế giói khác; bản
chất ấy là ở việc quay lại thời gian đã mất, tiềm kiếm cái quá khứ đã bị


lãng quên từ lâu mà con đường đi đến phải qua “cánh cửa của sự nhận
biết lặp lại”.


Khoảng cách thẩm mỹ: khái niệm xác định mức độ bất ngờ của

của tác phẩm đối với độc giả, và theo quan niệm của mỹ học tiếp nhận,
nó xác định giá trị thi học của tác phẩm. Sự ngạc nhiên hay thất vọng
xâm chiếm người tiếp nhận khi gặp gỡ tác phẩm đã cám dỗ sự chờ đợi
của anh ta, theo H. R. Jauss, đó là tiêu chuẩn xác định giá trị thẩm mỹ của

tác phẩm. Khoảng cách giữa tầm chờ đọi của độc giả và tầm chờ đợi của
tác phẩm, tức giữa cái quen biết thuộc kinh nghiệm thẩm mỹ và sự tất
yếu “biến đổi tầm” mà sự tiếp nhận tác phẩm mới đòi hỏi, theo quan
niệm của mỹ học tiếp nhận, khoảng cách ấy xác định tính nghệ thuật của
tác phẩm văn học. Trong trường hợp khoảng cách thẩm mỹ được rút ngắn
lại, ý thức cảm thụ của người tiếp nhận không đòi hỏi tiếp xúc vói tầm
kinh nghiệm thẩm mỹ mói, thì tác phẩm tiếp cận phạm trù “tiêu dùng”.
Nghệ thuật đó không đòi hỏi thay đổi tầm chờ đọi của ngưòi tiếp nhận,
ngược lại nó hoàn toàn đáp ứng sự chờ đợi ấy, thỏa mãn nhu cầu của
người tiếp nhận là gặp lại các mẫu mực quen thuộc về thẩm mỹ.


Cụ thể hóa: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ quá trình

độc giả tái tạo tác phẩm nghệ thuật, đem ý niệm và xúc cảm của mình,
dựa trên cơ sở tầm chờ đọi của bản thân mình, lấp đầy nghĩa vào những
điểm trống, những vùng bất định trong khung cấu trúc nghệ thuật của tác
phẩm. Theo R. Ingarden, tác phẩm văn học mang tính nghệ thuật chỉ là
một thứ khung sườn, độc giả sẽ phủ da đắp thịt lên thứ khung sườn ấy.
Có vô số sự cụ thể hóa trong cùng một tác phẩm, mồi lần đọc lại tạo ra
một sự cụ thể hóa mói, khác vói sự cụ thể hóa cũ. Cùng với khái niệm cụ
thể hóa, R. Ingarden còn đề xuất khái niệm tái cấu trúc và giải thích nó


như là sự khách quan hóa nội dung đề tài tác phẩm mà độc giả thực hiện
sau khi cụ thể hóa.


Felix Vodicka cho rằng, không phải tất cả những sự cụ thể


hóa có thể có xét từ góc độ những ý đồ của cá nhân độc giả, đều có thể
trở thành mục tiêu nghiên cứu, mà chỉ những sự cụ thể hóa nào cho thấy
có diễn ra sự gặp gỡ cấu trúc tác phẩm và cấu trúc các chuẩn mực văn
học do thời đại lịch sử cụ thể quy định, những chuẩn mực mà người tiếp
nhận là đại diện.


Đồng thời hóa: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ sự tự

đồng nhất của độc giả vói các nhân vật văn học; viêc độc giả trải nghiệm
thế giới hư cấu của tác phẩm nghệ thuật như là thế giới cụ thể sống động
có thực, trải nghiệm này nảy sinh trên cơ sơ niềm tin của độc giả vào tính
thực tại của ảo giác nghệ thuật.


w. Iser xem quá trình đọc như là sự xung đột thường xuyên

của hai hướng: một mặt độc giả có nhu cầu đồng nhất hóa, tin vào ảo
giác, mặt khác là “mỉa mai văn bản”, đặt toàn bộ các liên hệ cấu trúc của
văn bản trước sự hoài nghi. w. Iser nhận xét rằng, trong quá trình đọc, có
sự này sinh hình thức tham gia của độc giả vào tác phẩm, khi anh ta bị lôi
kéo vào văn bản đến mức anh ta có cảm tưởng là bất cứ khoảng cách nào
giữa anh ta và những điều xảy ra trong tác phẩm, cũng đều đã mất đi. Kết
quả là diễn ra sự “tan” ranh giới giữa chủ thể và khách thể, đưa đến sự
tách vỡ cá nhân của bản thân độc giả.


Hiện thời hóa: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ việc độc

giả làm sống động, vật thể hóa các chi tiết hoặc các đoạn của tác phẩm

văn học, biến những cảnh thoáng qua thành bức tranh khai triển, làm nảy
nở một mạng lưới liên tưởng và cảm xúc. R. Ingarden quan niệm, hiện
thòi hóa là một trong những cách khách quan hóa và cụ thể hóa sự miêu
tả nghệ thuật, ở mức độ nhất định nó được lập chương trình bỏi bản thân


văn bản văn học. Độc giả nghe và tiếp nhận sau đó hiện thời hóa, tức là
vật thể hóa, làm sống động - nhờ khai triển và bổ sung bằng tưởng tượng
của bản thân - không phải bất cứ cái gì, mà chỉ những điều ám chỉ chứa
trong tác phẩm; các chi tiết, đường nét, ngôn từ, hình ảnh... Trong việc
hiện thời hóa các mảng của văn bản, độc giả giữ lấy một sự tự do đáng kể
khỏi ý chí tác giả, nhưng không thể hoàn toàn lạ hóa khỏi tác phẩm. Theo
R. Ingarden, hiện thời hóa (cũng như cụ thể hóa) các chi tiết nội dung là
phần khó thực hiện nhất trong sự tiếp nhận của độc giả. Ở đây nảy sinh
sự lệch lạc đáng kể nhất khỏi chủ định của tác giả, ở đây độc giả đươc
độc lập nhiều nhất. Các hình ảnh thị giác thường được hiện thòi hóa
nhiều hơn so vói các hình ảnh âm thanh và nhịp điệu. Các bức tranh được
hiện thòi hóa trong quá trình tiếp nhận hầu như không bao giờ hoàn tất
hoàn chỉnh; chúng hầu như rải rác trong tác phẩm và chỉ gắn độc giả
trong những mảng nhỏ, những chi thiết, chỉ xuất hiện một cách bất
thường, không rõ rệt theo quy luật.


Tầm chờ đợi: thuật ngữ của mỹ học tiếp nhận, chỉ sự đồng

bộ các ý niệm thẩm mỹ, xã hội chính trị, tâm lí... quy định quan hệ của
tác giả, và do vậy các tác phẩm, với xã hội (và vói những dạng công
chúng độc giả khác nhau), cũng như quan hệ của độc giả vói tác phẩm,
như vậy nó quy định cả tính chất sự tác động của tác phẩm đến xã hội lẫn
việc xã hội tiếp nhận tác phẩm.

H. R. Jauss phân thành tầm chờ đợi được mã hóa trong tác phẩm
và tầm chờ đợi của độc giả. Sự tiếp nhận tác phẩm và sự hình thành kinh
nghiệm thẩm mỹ của độc giả được thực hiện trong tiến t rình tương tác của
hai tầm chờ đợi ấy. H. R. Jauss nhận xét, tầm chờ đợi của tác phẩm là
bình ổn, khác với tầm chờ đợi của người tiếp nhận vốn luôn luôn biến
đổi.




Chương 2. CÁC KHUYNH HƯỚNG TIẾP NHẬN TIÊU
THUYẾT SÔ ĐỎ Ở VIỆT NAM



Lý thuyết tiếp nhận thừa nhận vai trò quan trọng của người

đọc trong việc làm phong phú những giá trị của tác phẩm văn học, khiến
cho tác phẩm luôn sống trong mọi thòi đại. Trong lịch sử văn học, tác
phẩm của những nhà văn tài năng thường tạo nên sự tiếp nhận phong
phú, đa dạng và cả sự phức tạp. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là một
trường hợp như thế.


Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận định “Vũ

Trọng Phụng là một hiện tượng phức tạp” [22; 5] nhưng nhà thơ Chế Lan
Viên lại cho rằng không phải Vũ Trọng Phụng phức tạp mà “chính chúng
ta phức tạp” [21; 369]. Đây là một khía cạnh của bình diện tiếp nhận văn
học. Sự phức tạp của người đọc quyết định sự phức tạp trong việc tiếp

nhận tác phẩm. Thế kỉ XX, do sự thay đổi xã hội và tiếp diễn các cuộc
đấu tranh ý thức hệ, nên tình hình tiếp nhận các hiện tượng văn học càng
phức tạp hơn.


Viết về Vũ Trọng Phụng - một trong những gương mặt tiêu

biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, tính đến nay đã có 3 tập chuyên
luận và hơn 200 bài báo. Trong đó có một số bài hoàn toàn phủ nhận,
nhiều bài hết sức ca ngọi thành tựu sáng tác của ông. số đỏ có thể nói là
một trường hợp đặc biệt được chú ý trong số những sáng tác của Vũ
Trọng Phụng.
2.1.


Thái độ hoài nghỉ
Lịch sử văn học Việt Nam có không ít những hiện tượng văn

học phức tạp, song phức tạp, sóng gió như Vũ Trọng Phụng thì thật hiếm
có. Sự nghiệp văn chương của nhà văn trẻ này có số phận thăng trầm thật
lạ lùng. ít có nhà văn nào gây được sự chú ý đặc biệt của giới văn học,


giói lãnh đạo và công chúng rộng rãi, hơn hết nhiều nhà văn cùng thòi, và
cũng có lúc, bị vùi sâu dưới đất đen, như chưa có nhà văn nào bị vùi dập
như thế. “Vấn đề Vũ Trọng Phụng đã từng gây nhiều tranh cãi, có lúc nảy
lửa, song vẫn cứ treo lơ lửng không được giải quyết và một nghi án kéo
dài, kiểu như khiêu khích dư luận suốt nhiều thập niên. Vũ Trọng Phụng
có thể nói thành “vấn đề” văn học ngay từ khi vừa xuất hiện trên diễn
đàn.” [1 ; 19]



Trước 1945, dư luận nêu và phê phán việc miêu tả "cái dâm"

trong số đỏ của Vũ Trọng Phụng, trong khi tác giả tự bảo vệ mình đã nhấn
mạnh định hướng "tả chân xã hội", định hướng tố cáo xã hội của ngòi bút
mình. Nhưng tựu chung lại, thái độ tiếp nhận của giới nghiên cứu và độc
giả về tác phẩm đôi khi là sự hoài nghi, và sự hoài nghi đó được nhìn
nhận từ góc độ lịch sử - xã hội và góc nhìn phân tâm học.
2.1.1.


Tiếp cận Sơ đỏ từ góc nhìn lịch sử, xã hội
Tiếp cận tác phẩm từ góc nhìn lịch sử, xã hội là kiểu tiếp cận

tác phẩm từ tác giả. Đây chính là phương pháp phê bình văn hóa - lịch sử.
Vậy phương pháp phê bình văn hóa - lịch sử là gì? Trong cuốn Phê bình
văn học, con vật lưỡng thê ẩy (xuất bản năm 2011), PGS. văn học Đỗ Lai

Thúy cho rằng: “Phê bình văn hóa - lịch sử ra đời vừa như một tiếp tục
vừa như một đối lập với phê bình tiểu sử học. Bởi lẽ cả hai tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn: cách tiếp cận ngoại quan, lấy yếu tố bên
ngoài như một thứ nhân để giải thích quả tác phẩm. Có điều ở phê bình
tiểu sử học thì nguyên nhân ấy là tác giả, sát hơn con người xã hội và tâm
lí của tác giả. Còn phê bình văn hóa - lịch sử thì một trạng thái văn hóa,
văn minh của một dân tộc nào đó ở vào một thời điểm nào đó. Như vậy,
tác giả đầu là một cá thể, còn ‘Час giả” sau, xét cho cùng là một tập thể,
một cộng đồng cư dân, một dân tộc” [24; 126].



×