Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn thạc sĩ Đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du qua việc vận dụng điển cố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 119 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
___________________________________

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN
DU QUA VIỆC VẬN DỤNG ĐIỂN CỐ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.02

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Thuận

HẢI PHÒNG - 2016


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích
dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hải Phòng, ngày 21 tháng 12 năm 2016
Học viên


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian thực hiện luận văn này, em đã nhận được nhiều sự chỉ
bảo, động viên, giúp đỡ của thầy cô giáo, người thân và bạn bè đồng nghiệp.
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám
hiệu Trường Đại học Hải Phòng, Phòng Sau Đại học Trường Đại học Hải
Phòng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em có thể học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô Trường Đại học Hải Phòng, Viện
Ngôn ngữ đã trực tiếp giảng dạy em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đức
Thuận người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Hải Phòng, ngày 21 tháng 12 năm 2016
Học viên



iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU.................................... v
DANH MỤC CÁC BẢNG .............................................................................. vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .................................................................... 12
1.1. Khái quát về ngôn ngữ văn chương ......................................................... 12
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ văn chương .......................................................... 12
1.1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương .................................................... 12
1.2. Tổng quan về điển cố ............................................................................... 21
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 21
1.2.2. Phân loại điển cố ................................................................................... 23
1.2.3. Tính chất của điển cố ............................................................................ 23
1.3. Sơ lược về Nguyễn Du và Truyện Kiều................................................... 26
1.3.1. Một vài nét về tác giả Nguyễn Du ........................................................ 26
1.3.2. Khái lược về Truyện Kiều..................................................................... 28
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: VIỆC VẬN DỤNG ĐIỂN CỐ TRONG TRUYỆN KIỀU ....... 32
2.1. Khái quát về việc vận dụng điển cố trong văn chương trung đại ............ 32
2.2. Việc vận dụng điển cố trong Truyện Kiều ............................................... 34
2.2.1. Số lượng điển cố.................................................................................... 34
2.2.3. Phân loại và các phương thức vận dụng điển cố trong Truyện Kiều .... 36
2.2.4. Điển cố Truyện Kiều (Nguyễn Du) dưới góc nhìn ngôn ngữ học ........ 37
2.2.5. Nét đặc sắc của việc vận dụng điển cố trong Truyện Kiều................... 39
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NGÔN NGỮ TRUYỆN

KIỀU (NGUYỄN DU) QUA VIỆC VẬN DỤNG ĐIỂN CỐ ........................ 41


iv
3.1. Tính uyên bác, trang nhã .......................................................................... 41
3.1.1. Ngôn ngữ trang trọng ............................................................................ 41
3.1.2. Ngôn ngữ thanh nhã, lịch sự ................................................................. 42
3.2. Tính cô đọng, hàm súc ............................................................................. 47
Trong Truyện Kiều, tính hàm súc cô đọng được biểu hiện rõ trên một số
phương diện như sau: ...................................................................................... 48
3.2.1. Khả năng “dồn nén” nội dung thông báo .............................................. 48
3.2.2. Ngôn ngữ nhiều “khoảng trống” ẩn ý ................................................... 51
3.3. Ngôn ngữ đậm đà tính dân tộc ................................................................. 53
3.3.1. Dịch các từ ngữ Hán.............................................................................. 54
3.3.2. Điển cố được chuyển hóa từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt .............. 56
3.4. Điển cố làm giàu tính hình tượng............................................................. 58
3.5. Tính chính xác trong dụng điển ............................................................... 59
3.6. Dụng điển tạo tính linh hoạt, sáng tạo ..................................................... 62
3.6.1. Hình thức điển cố tự nhiên, sắc bén ...................................................... 62
3.6.2. Một nội dung ý nghĩa được “chứa đựng” trong nhiều “vỏ âm thanh”.. 62
3.6.3. Một điển cố được sử dụng nhiều lần ..................................................... 64
3.6.4. Mật độ điển cố dày đặc mà vẫn nhuần nhị, tự nhiên ............................ 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 76


v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU


Chữ viết tắt

Giải thích

NXB

Nhà xuất bản

THCS

Trung học Cơ sở

THPT

Trung học Phổ thông

Ghi chú: Các chữ viết tắt khác (có thể trùng với các chữ viết tắt trên) khi
sử dụng trong Luận văn sẽ được giải thích rõ trong từng trường hợp cụ thể.


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Trang

2.1


Bảng nguồn gốc điển cố

35

2.2

Bảng thống kê điển cố theo âm đọc

37

2.3

Bảng thống kê điển cố theo cú pháp

38

2.4

Bảng thống kê điển cố theo từ loại

38

3.1

Bảng số lượng âm tiết của điển cố trong Truyện Kiều

48

3.2


Tần suất xuất hiện của điển cố

64


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ trong tất cả tính thẩm mĩ của nó là công cụ, là chất liệu
làm nên các tác phẩm văn học. Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm
văn học (phi ngôn ngữ bất thành văn). M. Gorki đã khẳng định: “Ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học”. Tài năng và sức sáng tạo của một nhà văn thể
hiện ở trình độ sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt những nội dung tư tưởng, tình
cảm thẩm mĩ. Mỗi một nhà văn kiệt xuất đều được coi là một nhà ngôn ngữ
trác tuyệt. Cho nên, đến với bất kì một tác phẩm văn học nào cũng không thể
bỏ qua ngôn ngữ của tác phẩm. Hay nói khác đi, để khám phá vẻ đẹp của tác
phẩm văn chương phải bắt đầu từ việc khám phá ngôn ngữ tác phẩm.
1.2. Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đặc sắc của nền văn học
dân tộc. Tác phẩm Truyện Kiều đã đưa Nguyễn Du trở thành đại thi hào của
dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới. Người ta đã biết đến Truyện Kiều của
Nguyễn Du như biết về những gì bình dị nhất gần gũi nhất trong cuộc sống,
lại vừa như một tài sản quý giá, một “di sản văn hóa” của dân tộc. Bên cạnh
giá trị to lớn về nội dung nhân đạo, nội dung hiện thực còn là giá trị đặc sắc
về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm. Một trong những nét thành công của
Nguyễn Du trong Truyện Kiều đó là cách sử dụng tài hoa ngôn ngữ văn học.
Với ngôn ngữ Truyện Kiều, Nguyễn Du được xem là “bậc thầy ngôn ngữ dân
tộc”, là người đã nâng ngôn ngữ văn học của dân tộc, của thời đại lên một
đỉnh cao chói lọi. Qua bàn tay của thi hào Nguyễn Du, ngôn ngữ tiếng Việt
của chúng ta trở nên điêu luyện hơn, tinh tế và đặc sắc hơn, trở thành một thứ
“siêu ngôn ngữ”. Ngay từ thế kỷ XIX, cụ Đào Nguyên Phổ đã cho rằng:

Truyện Kiều “thật là một khúc Nam âm tuyệt xướng”[9,163].
Chính vì thế, khi tìm hiểu kiệt tác này chúng ta không thể không tìm hiểu
yếu tố ngôn ngữ đã dệt nên bức gấm hoa văn chương Truyện Kiều. Hiểu được
ngôn ngữ Truyện Kiều sẽ đem đến cho chúng ta một cách thưởng thức mới,
thú vị, sâu sắc và hấp dẫn hơn. Và cũng có thể coi việc hiểu ngôn ngữ Truyện


2
Kiều giống như một chiếc chìa khóa để “giải mã” thế giới nghệ thuật cùng với
những giá trị tuyệt vời của tác phẩm. Về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều
chúng ta có thể tìm hiểu trên nhiều phương diện, như nhà thơ đã sử dụng lớp
từ Hán Việt, lớp từ thuần Việt như thế nào? Các phương thức tu từ nghệ
thuật? Các từ láy, từ loại, vần, nhịp của câu thơ trong Truyện Kiều như thế
nào,… Song, một trong những đặc sắc làm nên giá trị ngôn ngữ nghệ thuật
của tác phẩm Truyện Kiều, chính là việc nhà thơ đã vận dụng điển cố để tạo
cho ngôn ngữ của tác phẩm tăng thêm vẻ đẹp và sự hàm súc, dư ba.
1.3. Vận dụng điển cố là một phương thức quen thuộc của các tác giả
văn chương trung đại. Việc vận dụng điển cố cho ta thấy tính chất uyên bác
của tác giả khi thể hiện nội dung văn chương và ngôn ngữ của tác phẩm. Tuy
nhiên, với thế hệ bạn đọc ngày nay, ngôn ngữ của các tác phẩm văn chương
trung đại, trong đó có việc sử dụng điển cố lại đã trở thành “hàng rào” ngăn
cách nhận thức người đọc đến với nội dung của tác phẩm đó. Vì thế, tìm hiểu
điển cố trong ngôn ngữ của tác phẩm văn chương trung đại nói chung và điển
cố trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du nói riêng,
trở thành một nhu cầu rất cần thiết khi đến với văn chương trung đại và đến
với kiệt tác Truyện Kiều.
1.4. Trong chương trình Ngữ văn THCS và THPT, Truyện Kiều của
Nguyễn Du chiếm một vị trí đặc biệt. Ngoài Truyện Kiều, không tác phẩm
nào của văn học trung đại Việt Nam được học trong nhiều tiết và với số đơn
vị văn bản (đoạn trích) phong phú như thế (5 đơn vị ở lớp 9 THCS, 4 đơn vị ở

lớp 10 THPT - kể cả “đọc chính” lẫn đọc thêm hay “tự học có hướng dẫn”).
Điều đó phần nào thấy được vị trí quan trọng của tác phẩm. Tuy nhiên, việc
dạy và học Truyện Kiều cho đến nay vẫn là một thách thức đối với cả giáo
viên và học sinh. Tác phẩm Truyện Kiều đúng là “rằng hay thì thật là hay”,
nhưng để hiểu được những giá trị to lớn về nội dung và nghệ thuật của kiệt tác
này quả thật không phải dễ! Có lẽ thực trạng đó là do hàng rào ngôn ngữ đã


3
một phần ngăn cản? Trong đó, có “màn sương” của lớp từ ngữ điển cố văn
chương ?
Xuất phát từ những lí do trên, cùng với sự đam mê Truyện Kiều, từ lòng
tôn kính và ngưỡng mộ trước tài năng và nhân cách của thi hào Nguyễn Du,
nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh của ông; đồng thời với mong muốn giúp bản
thân người viết, các bạn đồng nghiệp và học sinh hiểu thêm về những giá trị
và vẻ đẹp của ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi đã lựa chọn đề tài Đặc điểm
ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du qua việc vận dụng điển cố.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều
Theo dòng lịch sử, tác phẩm văn chương phải chịu sự thử thách khắc
nghiệt của thời gian. Có những tác phẩm đã chết yểu ngay từ khi vừa mới ra
đời. Có tác phẩm dần dần mới rơi vào sự lãng quên. Còn Truyện Kiều của
thiên tài Nguyễn Du lại mang một sức sống kì lạ. Đã hơn 200 năm trôi qua, kể
từ khi ra đời tới nay, Truyện Kiều vẫn có sức hấp dẫn và mới mẻ với độc giả
và vẫn không ngớt lời bàn luận, phẩm bình. Đã có rất nhiều trang viết, những
bài báo, công trình, chuyên khảo... về nhiều vấn đề của Truyện Kiều, đặc biệt
là vấn đề ngôn ngữ Truyện Kiều.
Tác giả Phan Ngọc trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều (1985) đã dành hẳn mục VII, chương 8 "Ngôn ngữ Truyện
Kiều". Tác giả viết: "Tìm mọi cách dịch tất cả các điển cố chữ Hán ra tiếng

Việt để cho ngôn ngữ gần gũi với nhân dân. Biện pháp này là tiếp tục truyền
thống của Nguyễn Trãi… Đây là một cố gắng thực sự của ông, chỉ khi nào do
đòi hỏi của quan hệ thanh điệu trong câu thơ, hay do hiệp vần không tài nào
dịch các điển từ chữ Hán sang chữ Việt được, lúc đó ông mới chịu dùng chữ
Hán còn thì nhất loạtt ông dịch ra chữ Việt hết" [28, 328-329].
Nhận xét của Phan Ngọc đã nói đúng một đặc sắc về nghệ thuật sử dụng
điển cố của Nguyễn Du đó là việc chuyển dịch nội dung điển cố từ chữ Hán
sang chữ Việt trong Truyện Kiều. Dùng điển cố là một đặc điểm trong phong


4
cách Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều. Phan Ngọc đã phát hiện ra điều đó và
đã đưa ra lý giải một cách khoa học.
Tác giả Trần Đình Sử trong công trình Thi pháp Truyện Kiều cũng đã
khẳng định tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ở
bài viết “Nguyễn Du - nghệ sĩ ngôn từ”, tác giả đã gọi Nguyễn Du là “nhà
nghệ sĩ ngôn từ” và còn khái quát lên “công việc” của nhà nghệ sĩ ấy: “Trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông đã đập vỡ cấu trúc ngôn
ngữ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật” [36, 308]. Chính sự gọt giũa
của bàn tay nghệ sĩ khéo léo ấy đã làm cho những trang Truyện Kiều trở thành
bất hủ.
Bài viết “Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều” của tác giả Nguyễn
Lộc cũng đã chỉ ra một số đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện
Kiều. Có khi đó là một ngôn ngữ có tính chất ước lệ - một nét đặc trưng của
văn chương trung đại - nhưng tràn đầy nội dung hiện thực, không công thức,
không giả tạo. Và có khi đó lại là một ngôn ngữ hiện thực chủ nghĩa, một
ngôn ngữ hàng ngày súc tích mà vẫn tự nhiên, sinh động tuyệt vời.
Tác giả Phạm Mai Hương trong Luận văn thạc sỹ của mình (Ngôn ngữ
hội thoại của các nhân vật trong Truyện Kiều) đã khảo sát ngôn ngữ hội thoại
của các nhân vật chính trong Truyện Kiều. Từ đó, tác giả đã bước đầu làm rõ

những nét độc đáo, đặc sắc trong ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều. Tác
giả Luận văn đã chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói trong Truyện Kiều và
vai trò của chúng trong việc khắc hoạ tính cách của nhân vật cũng như thể
hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả Truyện Kiều. Đồng thời trong Luận văn này,
tác giả Phạm Mai Hương đã nghiên cứu phương thức lập luận trong lời thoại
của các nhân vật trong Truyện Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của các
nhân vật từ đó chỉ rõ các quy tắc hội thoại làm tăng hiệu quả giao tiếp.
Nhìn chung, tìm hiểu về ngôn ngữ Truyện Kiều đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu. Các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều hướng vào
việc làm rõ các đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều trên nhiều bình diện như


5
ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, ngôn ngữ hội hoại của nhân vật trong
Truyện Kiều,... Và hầu như các tác giả đều ca ngợi vẻ đẹp ngôn ngữ Truyện
Kiều, chứng minh cho ngôn ngữ Truyện Kiều ở các khía cạnh “sự phong phú
về từ vựng, đa dạng về lớp từ; ngôn ngữ trong sáng giàu hình ảnh, giàu sức
gợi, truyền cảm; ngôn ngữ được sử dụng một cách cân nhắc có chọn lựa; cú
pháp câu thơ cũng mang tính chất thơ ca rõ rệt” [21, 85-86].
Vì thế, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài Tổ quốc bao giờ đẹp thế này
chăng? đã có một câu thơ khái quát đặc sắc của ngôn ngữ văn chương Truyện
Kiều như sau:
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn.
Ca ngợi vẻ đẹp ngôn ngữ Truyện Kiều cũng chính là ca ngợi tài năng
của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Chính điều đó đã góp một phần
lớn tạo nên sự thành công của tác phẩm. Việc sử dụng ngôn ngữ trong việc
miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật, trong việc xây dựng hình tượng nhân vật
hay trong cách giới thiệu nhân vật,… tất cả đều rất tài tình. Truyện Kiều đã
đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong lịch sử phát triển của tiếng Việt, nó
góp phần làm cho tiếng Việt thêm giàu đẹp, thêm uyển chuyển và trở nên

chính xác và súc tích lạ thường!
2.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu về điển cố trong Truyện Kiều
Hiện nay có rất nhiều bài viết, công trình tìm hiểu, nghiên cứu về điển cố
trong Truyện Kiều. Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây:
- Công trình Điển cố văn học - Đinh Gia Khánh (Chủ biên), NXB Văn
học, Hà Nội, 1975. Ở công trình nghiên cứu này, các tác giả đã thống kê được
một số lượng lớn các điển cố được sử dụng trong Truyện Kiều. Các tác giả đã
chú ý giải thích nghĩa đen, lí giải về nguồn gốc của điển cố và ghi lại những
câu trong Truyện Kiều có sử dụng điển cố để minh họa. Cũng theo tác giả,
ngoài các điển cố Hán học, “một số không nhỏ những điển cố ấy lại được sử
dụng cả ở những bộ phận khác của văn học Việt Nam, ở văn học truyền
miệng dân gian” [19, 7].


6
- Tác giả Trần Đình Sử trong trong chuyên luận Thi pháp Truyện Kiều
đã có những nhận định về việc sử dụng điển cố như sau: “Điển cố là một một
biện pháp tu từ cơ bản của văn chương cổ điển” gọi là “kê cổ” [36, 291].
“Điển cố trở thành biện pháp tu từ là do nó dẫn lời, dẫn việc, nói gọn, gợi
nhiều... Trong Truyện Kiều điển cố được sử dụng khá nhiều, song không phải
chỗ nào dẫn việc là dùng điển cố” [36, 291]. Về tác dụng của điển cố, tác giả
khẳng định: “phần lớn điển cố trong Truyện Kiều đều được dùng trong lời
thoại của nhân vật, đặc biệt là nhân vật cao quý bởi nó giúp nhân vật nói
những điều khó nói một cách ý nhị và văn vẻ” [36, 292].
- Công trình Khảo luận về truyện Thúy Kiều" của tác giả Đào Duy Anh
NXB Văn hóa thông tin - Hà Nội - 2007 (tái bản) là một công trình lớn. Đây
là một công trình chuyên khảo về Truyện Kiều được trình bày trong 9 chương.
Vấn đề Nguyễn Du sử dụng điển cố khi viết Truyện Kiều được Đào Duy Anh
đề cập đến trong chương thứ 6: Văn chương (II). Đào Duy Anh khẳng định:
"Sử dụng điển cố là một phép văn rất phổ thông trong văn giới ta xưa, mà lại

là lối sở trường đặc biệt của tác giả Đoạn trường tân thanh. Một điều tối diệu
trong nghệ thuật văn chương là dùng chữ ít mà hàm nghĩa nhiều, dùng điển cố
cũng như dùng ẩn dụ, thành ngữ, tục ngữ là cốt để đạt mục đích ấy,… Văn
Đoạn trường tân thanh dùng điển cố rất nhiều, toàn là những điển cố trong
Hán văn,… Dùng điển thay lời, mà chỗ khéo là hợp với cái mục đích dùng
điển, là ít lời mà nhiều nghĩa vậy,… Nghĩa ẩn dụ và điển cố ấy phần nhiều
Nguyễn Du dịch y theo nguyên văn, nhưng khi đọc nguyên văn thì ta thấy nó
nặng nề khó chịu, mà sau khi chuyển sang văn của Nguyễn Du thì nó hóa ra
nhẹ nhàng, thanh tao"[4, 139 - 142]. Như vậy, tác giả Đào Duy Anh đã có
nhận định bao quát và căn bản về việc Nguyễn Du sử dụng điển cố khi viết
Truyện Kiều. Đó là việc Nguyễn Du khai thác điển cố trong nguồn thi liệu,
văn liệu chữ Hán của Trung Quốc và đã nêu lên được chính xác hiệu quả của
việc dùng điển cố là "ít lời mà nhiều nghĩa". Có thể khẳng định đây là một ý


7
kiến rất có giá trị khoa học đã được nêu lên rất sớm (vì cuốn sách này của tác
giả Đào Duy Anh đã công bố vào năm 1943).
- Cuốn Tìm hiểu điển tích Truyện Kiều của tác giả Phạm Đan Quế lại chú
trọng vào việc phân tích cái hay, cái đẹp của các điển tích trong Truyện Kiều.
Tác giả đã đưa ra nhiều nhận xét về tác dụng của việc vận dụng điển cố trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du, như: “việc dùng điển trong Truyện Kiều vừa
đích đáng, tự nhiên, thích hợp lại nhuần nhuyễn, biến hóa” [33, 17]; “làm cho
câu văn trở nên gọn gàng ít lời mà nhiều ý,… đậm đà ý vị,… thanh nhã trang
trọng” [33, 21]; “Số câu chữ dành cho mỗi điển tích trong Truyện Kiều thì
càng linh động và đa dạng mà cũng thật thần tình.” [33, 23]. Trọng tâm của
cuốn sách, tác giả đã tìm hiểu, phân tích 61 điển cố trong Truyện Kiều mà ông
cho rằng có nhiều dị bản nhất.
- Tác giả Hoàng Hữu Yên trong “Cái hay, cái đẹp của tiếng Việt trong
Truyện Kiều” đã nhận định: “Đề cập đến vốn từ Hán - Việt trong Truyện

Kiều, chúng ta còn cần phải chú ý đến một bộ phận không kém phần quan
trọng là những điển tích, điển cố trong tác phẩm rất phong phú, đa dạng,...
Chí ít, Nguyễn Du cũng có đến gần 250 lần sử dụng điển tích, điển cố” [43,
67]. Cũng theo tác giả, việc dùng điển cố đã “khẳng định bút pháp kì tài khi
nhà thơ đưa vào tác phẩm của mình loại từ đặc biệt này”[43, 68].
- Tác giả Đoàn Ánh Loan với công trình Điển cố và nghệ thuật sử dụng
điển cố, nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Trong
chương 3, phần II “Phân loại và thống kê điển cố trong truyện thơ”, tác giả
Đoàn Ánh Loan đã chú ý làm rõ nguồn gốc của các điển cố trong một số câu
trong Truyện Kiều, nêu đặc tính của điển cố, các loại điển cố. Cũng trong
công trình này, tác giả Đoàn Ánh Loan đã xây dựng được một bảng thống kê
các điển cố được sử dụng trong Truyện Kiều (gồm 226 điển cố). Có thể nói,
đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về điển cố. Công trình hầu
như đã khái quát được các khía cạnh của điển cố và việc sử dụng nó trong văn
chương trung đại.


8
- Tác giả Trần Phương Hồ với công trình nghiên cứu “Điển tích trong
Truyện Kiều”, NXB Đồng Nai cũng hướng vào việc thống kê các điển tích
trong Truyện Kiều. Tác giả đã xác định 110 điển tích được sử dụng trong
Truyện Kiều và đã ghi chép lại những câu thơ trong Truyện Kiều có sử dụng
điển tích để minh chứng và cố gắng giải thích nguồn gốc của điển tích một
cách tỉ mỉ.
- Tác giả Nguyễn Tử Quang trong “Điển tích Truyện Kiều”, NXB Đồng
Tháp cũng đi theo cách của tác giả Trần Phương Hồ đã thực hiện trong “ Điển
tích trong Truyện Kiều”. Tuy nhiên, tác giả chỉ thống kê và giải thích về
nguồn gốc và nội dung của 75 điển tích.
Ngoài các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, vẫn còn rất nhiều
công trình nghiên cứu về điển cố trong Truyện Kiều. Qua tìm hiểu, chúng tôi

rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, tất cả các công trình nghiên cứu trên đều rất tỉ mỉ, công phu, là
những thành tựu đáng trân trọng trong việc nghiên cứu điển cố trong Truyện
Kiều, tạo nền tảng cho việc học tập và nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn
Du.
Thứ hai, hầu hết các công trình chủ yếu hướng vào việc thống kê, phân
loại điển cố và giải thích nghĩa, nguồn gốc, lai lịch của điển cố một cách tỉ mỉ
mà chưa chú trọng đến việc phân tích để làm nổi bật cái hay, cái đẹp của các
điển cố.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu điển cố ở góc
độ văn học, thi pháp học mà chưa xem xét điển cố ở góc nhìn ngôn ngữ học.
Phải thấy rằng, trong Truyện Kiều, điển cố được sử dụng như một
phương thức nghệ thuật đặc biệt, mang lại giá trị biểu đạt cao và thể hiện tài
hoa của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu
của chúng tôi, vấn đề đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều qua việc vận dụng các
điển cố hầu như chưa được chú ý nghiên cứu.


9
Trên cơ sở tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước,
trong phạm vi luận văn này, chúng tôi hướng tới việc tìm hiểu về “Đặc điểm
ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du qua việc vận dụng điển cố”.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về “Đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du qua việc
vận dụng điển cố” là việc làm vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực
tiễn. Đây thực sự là một vấn đề mới và khó! Thực hiện đề tài này, chúng tôi
hướng tới mục đích:
- Thấy được giá trị, ý nghĩa biểu đạt của điển cố trong Truyện Kiều.
- Giúp cho bản thân người viết, bạn bè đồng nghiệp và những ai yêu mến
Truyện Kiều thu nhận được một vốn hiểu biết sâu sắc hơn về đặc điểm ngôn

ngữ Truyện Kiều.
- Biết giải mã nội dung câu thơ trong Truyện Kiều có sử dụng điển cố, từ
đó có thể vượt qua được “hàng rào ngôn ngữ” ngăn cách người đọc ngày nay
với kiệt tác Truyện Kiều.
- Nhận ra được vị trí, tầm vóc của Truyện Kiều, cũng như sự sáng tạo và
đóng góp to lớn của thi hào Nguyễn Du đối với nền văn học cũng như sự phát
triển ngôn ngữ dân tộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm ngôn ngữ của Truyện Kiều qua việc vận dụng điển cố
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều được thể hiện ở rất nhiều khía cạnh, thể
hiện ở nhiều vẻ đẹp của tác phẩm,... Trong phạm vi của luận văn, chúng tôi
chỉ tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của Truyện Kiều qua việc vận dụng các điển
cố của Nguyễn Du.
Văn bản Truyện Kiều được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là cuốn
Văn bản Truyện Kiều của Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội,1975.


10
5. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu “Đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều của
Nguyễn Du qua việc vận dụng điển cố”, luận văn sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học
- Phương pháp phân tích
Đây là những phương pháp xuyên suốt luận văn. Chúng tôi sẽ sử dụng
những phương pháp này đề phân tích các điển cố trong Truyện Kiều, trên cơ
sở đó khái quát thành các đặc điểm của ngôn ngữ,, đồng thời khẳng định tài
năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du.

- Biện pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp chúng tôi sử dụng để cung cấp những số liệu các
điển cố được sử dụng trong Truyện Kiều, phân loại chúng về mặt nguồn
gốc, cơ sở hình thành, từ đó đưa ra những nghiên cứu tiếp theo.
- Thủ pháp đối chiếu so sánh
Trong quá trình nghiên cứu người viết sử dụng phương pháp này để đối
chiếu so sánh nhiều ý kiến của các tác giả, đối chiếu việc vận dụng điển cố
trong Truyện Kiều với các tác phẩm khác như Chinh phụ ngâm, Cung oán
ngâm... để có được những đánh giá chính xác nhất về đặc điểm ngôn ngữ qua
việc vận dụng điển cố.
- Phương pháp hệ thống
Số lượng điển cố được vận dụng trong Truyện Kiều khá nhiều. Người
viết không thể đi vào phân tích các giá trị của từng điển cố, cũng không thể
phân tích tất cả các điển cố cùng biểu hiện một đặc điểm ngôn ngữ. Do đó,
người viết phải hệ thống lại từng nhóm điển cố theo cách vận dụng của
Nguyễn Du.
- Phương pháp tổng hợp
Sau khi phân tích, chọn lọc, so sánh đối chiếu, người viết tổng hợp để
khẳng định lại vấn đề mà mình đã trình bày.


11
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương chính văn:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Vận dụng điển cố trong Truyện Kiều.
Chương 3: Một số đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ Truyện Kiều (Nguyễn
Du) qua việc vận dụng điển cố.



12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái quát về ngôn ngữ văn chương
1.1.1. Khái niệm ngôn ngữ văn chương
Về khái niệm ngôn ngữ, tác giả Bùi Minh Toán đưa ra quan niệm:
“ngôn ngữ vẫn được dùng và quan niệm là tiếng nói của con người (có thể ở
dạng nói hay dạng viết) dùng để con người tư duy, giao tiếp và sáng tạo
nghệ thuật”[ 41, 12].
Ngôn ngữ văn chương hay còn gọi là ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ
thuật, là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương. Nó không
chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.
Đó là thứ ngôn ngữ được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ
thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật - thẩm mĩ rất cao.
1.1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ văn chương
Ngôn ngữ với tư cách là chất liệu của nghệ thuật văn chương, có những
đặc điểm cơ bản sau:
1.1.2.1. Tính phổ biến, toàn dân
Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ là một công cụ mang tính toàn dân, phổ
cập cao. Mọi người, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, dân
tộc… đều sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp, tư duy, nhận thức…
hàng ngày của mình. Đó là tài sản chung của xã hội và ai cũng có khả năng sở
hữu. Sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu xây dựng tác phẩm văn chương, ngôn
ngữ trong tác phẩm văn chương cũng mang đặc tính phổ biến, toàn dân. Do
vậy, văn chương dễ đến với mọi người, dễ lĩnh hội và sáng tạo, dĩ nhiên là ở
mức độ khác nhau. Những người bình dân có thể sáng tác ra tác phẩm văn
học. Kho tàng văn học dân gian là một minh chứng cho điều đó. Một tác
phẩm uyên bác, đạt đỉnh cao nghệ thuật như Truyện Kiều của Nguyễn Du
nhưng những người bình dân (dù không biết chữ) vẫn có thể thuộc...
Chất liệu ngôn ngữ đi vào tác phẩm văn chương đều được chọn lọc, tinh

luyện. Tuy nhiên, điều quan trọng là chất liệu ngôn ngữ được tinh luyện hoặc


13
biến đổi theo chính những quy tắc, phương thức trong ngôn ngữ hàng ngày.
Trong nhiều tác phẩm, ngôn ngữ văn chương hầu như không có sự cách biệt
với ngôn ngữ đời thường, mà vẫn đạt giá trị nghệ thuật cao. Chẳng hạn, trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ của nhân dân:
“Con kia đã bán cho ta,

( 971)

Nhập gia thì cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề gớm sao.” ( 976)
Đây chính là lời của Tú Bà nguyền rủa, đay nghiến, sỉ nhục Thúy Kiều.
Cái cách gọi con kia, lão kia, mày - tao, cái cách nói “bài bây”, “văng vào
mặt”, ‘gái tơ”, “ngứa nghề” nó thực đời thường. Và điều quan trọng, nó lột
tả thật chân thực, thật sinh động bản tính của Tú Bà, vốn là chủ nhà chứa, là
gái “làng chơi đã trở về già hết duyên”: nó mới ngoa ngoắt, tục tĩu làm sao!
Xuân Diệu đã bình: “Trời ơi, cái con hổ cái. Nó nói chưa đầy nửa phút mà
nước bọt của nó văng mãi đến ngàn năm. Nó nói tưởng như đến rách cả trang
giấy Truyện Kiều”[7, 30].
Nhờ tính toàn dân, tính phổ biến của ngôn ngữ khiến nghệ thuật văn
chương trở thành loại hình nghệ thuật gần gũi với mọi người và mang tính
quần chúng rất cao. Điều này tạo ra sự khác biệt với các loại hình nghệ thuật
khác. Chỉ có một số người mới có thể sử dụng chất liệu của các loại hình nghệ
thuật khác để tạo thành tác phẩm. Chẳng hạn, không phải ai cũng có thể dùng

màu để vẽ tranh, dùng chất liệu đá, đồng, thạch cao...để tạo ra những bức
tượng, hoặc sử dụng những nốt nhạc để sáng tác ra tác phẩm âm nhạc,... Hay
nói khác đi, để có thể sáng tạo, lĩnh hội, cảm thụ tác phẩm của các ngành nghệ
thuật khác, cần phải có những điều kiện nhất định.


14
1.1.2.2. Ngôn ngữ có tính dân tộc
Chất liệu ngôn ngữ so với chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác nổi
bật ở tính dân tộc. Ngôn ngữ là một trong những đặc trưng rất riêng của mỗi
dân tộc. Xtalin đã định nghĩa: Dân tộc là khối cộng đồng người ổn định, hình
thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về
sinh hoạt kinh tế và về hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn
hóa.
Dân tộc nào cũng có ngôn ngữ của riêng mình. Ngôn ngữ là linh hồn của
một dân tộc. Bản sắc dân tộc của ngôn ngữ thấm đẫm và hòa tan trong toàn bộ
cơ cấu của ngôn ngữ. Tác giả Bùi Minh Toán đã dẫn lời của W. Humboldt:
“Ngôn ngữ của một dân tộc chính là linh hồn của dân tộc đó, linh hồn của một
dân tộc chính là ngôn ngữ của dân tộc đó”[41, 37]. Tính dân tộc của ngôn ngữ
thể hiện ở tất cả các bộ phận cấu thành của nó và ở cái cách mà mỗi dân tộc
sử dụng ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, thành phần tình thái từ như à,
ư, nhỉ, nhé,... là rất đặc trưng, mà các ngôn ngữ khác trên thế giới không có.
Hay cái cách mà người Việt sử dụng câu hỏi để chào nên đã tạo từ ghép chào
hỏi,…
Hoặc, dân tộc tính còn là ở phương diện ngữ pháp. Sự khu biệt giữa
tiếng Việt phân tiết tính với phạm trù tổng hợp tính (Anh, Pháp, Nga,....) khác
nhau về giống, số, cách. Sự thay đổi trật tự từ trong ngôn ngữ, với tiếng Việt
làm thay đổi nội dung thông báo; nhưng sự thay đổi trật tự trong ngôn ngữ
tổng hợp tính không làm thay đổi nội dung ngữ nghĩa. Cũng như vậy, hệ
thống ngôn ngữ tiếng Việt cũng có những từ mang nghĩa riêng mà từ trong

ngôn ngữ các dân tộc khác không có, đó chính là hệ thống ngữ nghĩa của nó.
Tính dân tộc của ngôn ngữ đem đến một hệ quả: chất liệu văn chương vì
vậy cũng mang tính dân tộc sâu sắc. Trong khi đó, nếu so sánh với nhiều loại
hình nghệ thuật khác, thì những chất liệu ấy không mang tính dân tộc. Những
chất liệu “đồng, thạch cao, nốt nhạc, màu sắc”,.... ở dân tộc nào cũng đều
mang những đặc tính giống nhau, không có gì khu biệt, nghĩa là không mang


15
tính dân tộc. Người ta có thể mang một bức tượng đồng, một bức tranh từ
nước này sang nước khác mà không phải nặn lại, vẽ lại. Nhưng, một tác phẩm
văn chương, muốn chuyển từ nước này sang nước khác phải thông qua dịch
thuật. Mà đã dịch thuật chuyển nghĩa thì có thể làm thay đổi ít nhiều giá trị
của tác phẩm (có thể hay hơn hoặc giảm bớt đi giá trị tác phẩm). Bởi vì mỗi
tác phẩm văn chương, bên cạnh hệ thống ngữ nghĩa, ngữ âm, từ vựng còn
phải gắn với ngữ cảnh, thời đại văn học. Đặc biệt hệ thống ngữ âm và thanh
điệu của tiếng Việt rất giàu có, tạo ra sự trầm bổng. Điều này đã “làm khó”
người nước ngoài khi họ học tiếng Việt Nam.
1.1.2.3. Tín hiệu ngôn ngữ là tín hiệu mang nghĩa
Các chất liệu của các ngành nghệ thuật khác như đồng, thạch cao,… bản
thân nó không mang nghĩa. Nghệ thuật múa lấy vóc dáng cơ thể, động tác, các
bộ phận cơ thể để xây dựng các điệu múa, nhưng bản thân các động tác hay
bộ phận cơ thể này không mang nghĩa. Còn chất liệu ngôn ngữ là một chất
liệu chứa đựng nội dung, ý nghĩa. Ngôn ngữ khi được sử dụng để sáng tạo
nghệ thuật đã là một phương tiện để biểu hiện ý nghĩa. Mỗi tín hiệu ngôn ngữ
luôn luôn có hai mặt hình thức và nội dung. Chẳng hạn, trong bài thơ Tây
tiến, Quang Dũng viết:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.
Khi đọc câu thơ ta có thể hình dung ra con đường hành quân của người
lính: gập ghềnh, lồi lõm, nhấp nhô. Khi tách từng từ trong câu thơ, bản thân

các từ đó đều mang nghĩa. Thậm chí, đối với câu thơ này, ngay cả thanh điệu
cũng mang nghĩa. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc, ta như cảm nhận được sự
trúc trắc trong bước đi, hơi thở nhọc nhằn, khó khăn của người lính.
Điều đáng nói, không có một nội dung, một khái niệm nào mà ngôn ngữ
không biểu đạt được. Từ những rung động tinh vi nhất của đời sống tình cảm,
những khó khăn, phức tạp của vấn đề triết học, những điều tế nhị, “khó nói”...
ngôn ngữ đều có thể biểu đạt được. Chẳng hạn, trong Truyện Kiều, thi hào
Nguyễn Du viết:


16
“Biết bao bướm lả ong lơi,

( 1229)

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.

( 1232)

Đoạn thơ miêu tả cảnh sống ê chề, đau đớn, nhục nhã của Thúy Kiều khi
phải tiếp khách làng chơi ở chốn lầu xanh. Nếu phải dùng ngôn ngữ thông
thường, sẽ rất khó khăn để diễn đạt, thậm chí phải sử dụng ngôn ngữ “thô lỗ”
mới có thể diễn đạt được.
Khi ngôn ngữ chuyển nghĩa, khả năng biểu đạt của nó càng lớn hơn. Ưu
thế này tạo ra tính đa nghĩa trong văn chương. Nguyệt Cầm của Xuân Diệu là
một minh chứng sống động:
“Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”

Nhờ phương thức ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (âm thanh tiếng đàn được
chuyển hóa thành “giọt”), Xuân Diệu đã đưa người đọc vào một thế giới
huyền diệu, đánh thức những cảm quan nghệ thuật của nhạc và của thơ.
Có thể nói, từ nội dung trừu tượng, khái quát của lí trí trong khoa học
đến những nội dung rất tế nhị trong thế giới vi mô, trong thế giới tình cảm
phức tạp của con người thì ngôn ngữ đều tìm đến một cách biểu đạt có hiệu
quả. Khả năng biểu hiện của ngôn ngữ là không giới hạn. Đó chính là sự kì
diệu của ngôn ngữ mà không phải bất cứ chất liệu nghệ thuật nào cũng có
được.
1.1.2.4. Tính võ đoán
Theo F. D. Saussure, quan hệ hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ: Cái biểu
hiện và cái được biểu hiện không có lý do, nghĩa là không có mối quan hệ tất
yếu, giữa hai mặt này chỉ có mối quan hệ do quy ước của xã hội, do vậy ngôn
ngữ mang tính võ đoán.
Trong thực tế, tính võ đoán có nhiểu mức độ biểu hiện khác nhau, mức
độ cao nhất là những từ thuộc lớp từ vựng cơ bản. Mức độ thấp là các thán từ


17
- những từ ghi lại âm thanh mà con người phát ra khi muốn bộc lộ một cảm
xúc nào đó: a, ô, ái chà,... Các từ tượng thanh: ầm ầm, róc rách,… Tính quy
ước nổi rõ hơn ở những từ được cấu tạo phái sinh, đối với tiếng Việt là những
từ láy hoặc từ ghép như xe máy, xe đạp,…
Những từ chuyển nghĩa: Nghĩa đen mang tính võ đoán, với nghĩa chuyển
mối quan hệ đó một phần có lý do. Ví dụ từ láy “nồng nặc” chỉ về mùi vị hơn
mức bình thường, khi ta dùng trong câu: “Giọng khê nồng nặc” nhằm biểu
hiện một giọng nói với tất cả âm sắc, cách sử dụng ngôn từ,… không được
như mức bình thường.
Chính vì vậy, tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ đã làm cho ngôn ngữ
trở thành một chất liệu mềm dẻo, linh hoạt, luôn chuyển hoá để biểu hiện nội

dung ý nghĩa vô cùng phong phú và phức tạp của con người. Khi đi vào tác
phẩm văn học, cả hai phương diện cái biểu hiện và cái được biểu hiện đều có
thể thay đổi để phục vụ cho mục đích nghệ thuật.
Cái biểu hiện là hình thức âm thanh, vừa phải cố định để trở thành
phương tiện chung của xã hội nhưng vừa biến đổi tuỳ thuộc vào ngữ cảnh.
Trong Việt Bắc của Tố Hữu: “Mình1 đi, mình2 lại nhớ mình3” thì mình1 và
mình2 là chủ ngữ, mình3 là bổ ngữ cho động từ “nhớ”. Không chỉ người dân
Việt Bắc nhớ người về xuôi mà bản thân người về xuôi cũng quyến luyến,
cũng thiết tha, cũng trân trọng, cũng nhớ về “mình” trong những tháng ngày ở
Việt Bắc. Câu thơ vì thế mà thấm thía, xúc động hơn.
Về phương diện tu từ, biểu hiện các sắc thái tình cảm, để đạt được hiệu
quả giao tiếp cao, hình thức âm thanh của tiếng Việt vẫn có thể được biến đổi
bằng cách tách âm tiết, chen các yếu tố khác vào giữa. Chẳng hạn, trong
Truyện Kiều:
“Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Các từ “dày dạn”, “gió sương”, “ong bướm”, “chán chường” được
tách ra đan cài vào nhau thành các cụm từ “dày gió dạn sương”, “bướm chán


18
ong chường” nhấn mạnh hơn tâm trạng ê chề, đau xót của Thúy Kiều trong
kiếp sống ở lầu xanh. Giá trị biểu đạt, cũng như giá trị biểu cảm của câu thơ,
vì thế cũng cao hơn so với cách nói thông thường.
Về mặt cái được biểu hiện thì đây là bình diện mà trong giao tiếp hàng
ngày từ cũng có thể biến đổi. Điều này thể hiện rõ nhất trong các tác phẩm
văn chương. Các tác giả văn học trung đại thường lấy hình ảnh cây “tùng”,
cây “thông” để thể hiện khí phách của người quân tử. Nguyễn Trãi đã có ba
bài thơ miêu tả cây tùng để thể hiện phẩm chất của người quân tử. Nguyễn
Công Trứ thì dõng dạc:

“Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Hay, trong Truyện Kiều, để diễn tả sự bạc tình, trơ tráo của Sở Khanh,
Nguyễn Du viết:
“Bạc tình nổi tiếng lầu xanh
Một tay chôn biết mấy cành phù dung”
“Phù dung” vốn là loài hoa đẹp, nhưng trong bối cảnh này, nó không
mang nghĩa thực mà được hiểu theo nghĩa chuyển: chỉ cô gái ở lầu xanh.
Có những trường hợp trong tác phẩm văn học, một câu thơ rất nhiều từ
được dùng với nghĩa chuyển, chúng trở thành những tín hiệu thẩm mỹ, mang
ý nghĩa mới, thích hợp với ý nghĩa chung của toàn bộ tác phẩm. Chẳng hạn,
khi Nguyễn Bính viết:
“Cách mấy mươi con sông sâu
Và trăm ngàn vạn dịp cầu chênh vênh”.
Hình ảnh “con sông sâu”, “dịp cầu chênh vênh” ngoài ý nghĩa thực, hai
hình ảnh này đã trở thành những tín hiệu thẩm mĩ - dụng ý chỉ những khó
khăn, cam go, cơ cực đang chờ đón người con gái phía trước. Ngay cả số từ
“trăm ngàn vạn” cũng chỉ là con số ước lệ biểu thị cho những khó khăn chồng
chất.


×