Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn thạc sĩ Từ Hán Việt trong sách giáo khoa ngữ văn 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 91 trang )

Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
___________________________________

TỪ HÁN VIỆT TRONG SÁCH GIÁO KHOA
NGỮ VĂN 7

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Kim Hoa

HẢI PHÒNG – 2017


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

i



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
khảo sát, điều tra, kết luận trong luận văn này là trung thực và chưa từng công
bố ở bất kì công trình nào khác.
Hải Phòng ngày 20 tháng 12 năm 2016
Tác giả


Edited with the trial version of
Foxit Advanced PDF Editor
To remove this notice, visit:
www.foxitsoftware.com/shopping

ii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trong trường
Đại học Hải Phòng..
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô trong tổ bộ môn
Ngôn ngữ khoa Ngữ văn trường Đại Hải Phòng, đặc biệt là những thầy cô đã
tận tình dạy bảo cho tôi suốt thời gian học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Kim Hoa đã dành
rất nhiều thời gian và tâm huyết để nhiệt thành hướng dẫn nghiên cứu và
giúp tôi hoàn thành luận văn.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại
học Hải Phòng, Phòng sau đại học đã tạo rất nhiều điều kiện để tôi học tập
và hoàn thành tốt khóa học.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn quý anh, chị học viên cùng lớp, các đồng

nghiệp đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học và
làm luận văn.
Đặc biệt, hoàn thành được luận văn không thể không kể đến sự động
viên, giúp đỡ của những người thân trong gia đình tôi.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng hoàn thiện luận văn bằng tất cả sự nhiệt
tình và năng lực của mình, tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Hải Phòng, tháng 12 năm 2016
Tác giả


iii
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG.................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ........ 8
1.1. Một số vấn đề về từ Hán Việt ........................................................................ 8
1.1.1. Quá trình tiếng Hán du nhập vào tiếng Việt và cách đọc Hán Việt ............ 8
1.1.2. Khái niệm từ Hán Việt .............................................................................. 11
1.1.3. Đặc điểm của từ Hán Việt ......................................................................... 13
1.1.4. Vai trò của từ Hán Việt trong tiếng Việt ................................................... 20
1.2. Giới thiệu chung các văn bản khảo sát từ Hán Việt trong sách giáo khoa
Ngữ văn 7 ............................................................................................................ 22
1.2.1. Thống kê các văn bản ................................................................................ 22
1.2.2. Nhận xét chung về các văn bản ................................................................. 23
1.3. Tiểu kết chương 1......................................................................................... 24
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TỪ HÁN VIỆT TRONG SÁCH GIÁO

KHOA NGỮ VĂN 7 ........................................................................................... 27
2.1 Từ Hán Việt trong các văn bản sách giáo khoa Ngữ văn 7 .......................... 27
2.2 Đặc điểm từ Hán Việt đơn tiết trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 .................. 29
2.2.1.Khảo sát và thống kê từ Hán Việt đơn tiết ................................................. 29
2.2.2. Nhận xét về từ Hán Việt đơn tiết trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 .......... 38
2.4. Đặc điểm từ Hán Việt song tiết .................................................................... 41
2.4.1 Khảo sát thống kê từ Hán Việt song tiết .................................................... 41
2.4.2. Nhận xét về cấu tạo từ Hán Việt song tiết ................................................ 48


iv
2.5. Tiểu kết chương 2......................................................................................... 52
CHƯƠNG 3. GIÁ TRỊ PHONG CÁCH TỪ HÁN VIỆT TRONG CÁC VĂN
BẢN SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 7 .......................................................... 55
3.1. Sắc thái cổ .................................................................................................... 55
3.1.1. Từ dùng trong xưng hô.............................................................................. 55
3.1.2. Từ chỉ chức vụ, vị trí xã hội ...................................................................... 57
3.1.3. Từ chỉ kiến trúc, đơn vị hành chính thời cổ .............................................. 58
3.1.4. Từ mang dấu ấn sinh hoạt văn hóa cổ xưa ................................................ 58
3.2 Sắc thái trang trọng ....................................................................................... 62
3.2.1. Tính trang trọng trong văn bản viết .......................................................... 62
3.2.2 Từ thể hiện sự trang trọng khi phản ánh sự kiện........................................ 64
3.3. Sắc thái khái quát, trừu tượng ...................................................................... 69
3.4. Sắc thái tao nhã ............................................................................................ 74
3.5. Tiểu kết chương 3......................................................................................... 76
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 81


v

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. 1. Danh sách văn bản khảo sát từ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ
văn lớp 7 .............................................................................................................. 22
Bảng 2. 1 Thống kê số lượng từ Hán Việt trong 25 văn bản .............................. 27
Bảng 2. 2. Tổng kết theo cấu tạo từ Hán Việt trong 25 văn bản......................... 29
Bảng 2. 3. Thống kê từ Hán Việt đơn tiết ........................................................... 29
Bảng 2. 4. Bài “Cổng trường mở ra” .................................................................. 31
Bảng 2. 5. Bài “Mẹ tôi” ....................................................................................... 31
Bảng 2. 6. Bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” ....................................... 31
Bảng 2. 7. Bài “Những câu hát về tình cảm gia đình” ........................................ 32
Bảng 2. 8. Bài “Những câu hát về tình yêu quê hương ...................................... 32
Bảng 2. 9. Bài “Những câu hát than thân” .......................................................... 32
Bảng 2. 10. Bài“Những câu hát châm biếm” ...................................................... 32
Bảng 2. 11. Bài “Sau phút chia li” ...................................................................... 32
Bảng 2. 12. Bài “Qua đèo Ngang” ...................................................................... 33
Bảng 2. 13. Bài “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” .............................................. 33
Bảng 2. 14. Bài “Cảnh khuya” ............................................................................ 33
Bảng 2. 15. Bài “Tiếng gà trưa” .......................................................................... 33
Bảng 2. 16. Bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm” .............................................. 33
Bảng 2. 17. Bài “Sài Gòn tôi yêu” ...................................................................... 34
Bảng 2. 18. Bài “Mùa xuân của tôi” ................................................................... 34
Bảng 2. 19. Bài “Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất” ........................ 34
Bảng 2. 20. Bài “Tục ngữ về con người và xã hội” ............................................ 34
Bảng 2. 21. Bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” ...................................... 35
Bảng 2. 22. Bài “Sự giàu đẹp của tiếng Việt”..................................................... 35
Bảng 2. 23. Bài “Đức tính giản dị của Bác Hồ” ................................................. 35
Bảng 2. 24. Bài “Ý nghĩa văn chương”............................................................... 35
Bảng 2. 25. Bài “Sống chết mặc bay” ................................................................. 36
Bảng 2. 26. Bài “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”...................... 36
Bảng 2. 27. Bài “Ca Huế trên sông Hương” ....................................................... 36

Bảng 2. 28. Bài “Quan Âm Thị Kính” ................................................................ 37


vi
Bảng 2. 29. Thống kê từ loại từ Hán Việt đơn tiết trong các bài ........................ 37
Bảng 2. 30. Thống kê từ Hán Việt song tiết........................................................ 41
Bảng 2. 31. Bài “Cổng trường mở ra” ................................................................ 43
Bảng 2. 33. Bài “Cuộc chia tay của những con búp bê” ..................................... 43
Bảng 2. 34. Bài “Những câu hát về tình cảm gia đình” ...................................... 43
Bảng 2. 35. Bài “Những câu hát về tình yêu quê hương .................................... 43
Bảng 2. 36. Bài “Những câu hát than thân” ........................................................ 44
Bảng 2. 37. Bài “Những câu hát châm biếm” ..................................................... 44
Bảng 2. 38. Bài “Sau phút chia li” ...................................................................... 44
Bảng 2. 39. Bài “Qua đèo Ngang” ...................................................................... 44
Bảng 2. 40. Bài “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” .............................................. 44
Bảng 2. 41. Bài “Cảnh khuya” ............................................................................ 44
Bảng 2. 42. Bài “Tiếng gà trưa” .......................................................................... 45
Bảng 2. 43 Bài “Một thứ quà của lúa non: Cốm” ............................................... 45
Bảng 2. 44. Bài “Sài Gòn tôi yêu” ...................................................................... 45
Bảng 2. 45. Bài “Mùa xuân của tôi” ................................................................... 45
Bảng 2. 46. Bài “Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất” ........................ 45
Bảng 2. 47. Bài “Tục ngữ về con người và xã hội” ............................................ 46
Bảng 2. 48. Bài “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” ...................................... 46
Bảng 2. 49. Bài “Sự giàu đẹp của tiếng Việt”..................................................... 46
Bảng 2. 50. Bài “Đức tính giản dị của Bác Hồ” ................................................. 46
Bảng 2. 51. Bài “Ý nghĩa văn chương”............................................................... 46
Bảng 2. 52. Bài “Sống chết mặc bay” ................................................................. 47
Bảng 2. 53. Bài “Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu”...................... 47
Bảng 2. 54. Bài “Ca Huế trên sông Hương” ....................................................... 47
Bảng 2. 55. Bài “Quan Âm Thị Kính” ................................................................ 47

Bảng 2. 56. Thống kê các loại cấu tạo từ Hán Việt song tiết trong 25 văn bản lớp
7 ........................................................................................................................... 48


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
1.1. Vay mượn từ vựng là hiện tượng ngôn ngữ học xã hội phổ biến của
mọi ngôn ngữ, tiếng Việt cũng không tách khỏi quy luật này. Các từ mượn là
nguồn bổ sung quan trọng cho vốn từ tiếng Việt cả về số lượng lẫn chất lượng.
Trong lớp từ vay mượn, từ ngữ Hán Việt có số lượng lớn nhất và cũng có vị trí,
vai trò quan trọng nhất. Từ Hán Việt đã được được sử dụng như một phương
thức biểu hiện hữu hiệu của các nhà văn, nhà thơ trong các tác phẩm của mình.
Việc đọc - hiểu văn bản nghệ thuật để khám phá ra các giá trị chân - thiện mĩ,
không thể bỏ qua việc lí giải ngôn ngữ được sử dụng, đặc biệt là các từ Hán
Việt.
1.2. Từ Hán Việt là một hiện tượng phức tạp. Nó là kết quả của quá trình
giao lưu và tiếp xúc ngôn ngữ giữa hai dân tộc Hán và Việt trong nhiều thế kỷ.
Do những nguyên nhân lịch sử và địa lý đặc biệt, cuộc tiếp xúc ngôn ngữ của
hai thứ tiếng này có những đặc trưng riêng khó tìm thấy ở các cuộc tiếp xúc
ngôn ngữ khác. Bởi thế, tính chất, đặc điểm và cách sử dụng của từ Hán Việt
cũng khác với các loại từ như Hán- Nhật, Hán - Hàn, Hán - Triều...cũng do các
tiếp xúc ngôn ngữ mà xuất hiện. Sự khác biệt ấy thể hiện là ở phương diện khối
lượng từ Hán Việt trong kho từ vựng tiếng Việt là rất lớn (Theo các kết quả
thống kê từ vựng học, trong một số phong cách chức năng, chẳng hạn, trong
phong cách hành chính, số lượng các từ Hán Việt lên tới 80-85%) nhưng chỉ
dừng lại ở việc mượn âm chứ không mượn chữ viết. Thứ hai, quá trình xử lý
các yếu tố gốc Hán (các từ gốc Hán) trong tiếng Việt cũng hoàn toàn khác với
các ngôn ngữ khác trong khu vực cùng có quan hệ tiếp xúc với tiếng Hán. Đây
là những lý do khiến cho các nhà nghiên cứu không chỉ của Việt Nam mà ngay

cả của Trung Quốc cũng phải thừa nhận: Từ Hán Việt là một loại từ đặc biệt
trong vốn từ vựng tiếng Việt. Nó thuộc lớp từ vay mượn nhưng đã hòa nhập,
thẩm thấu vào tiếng Việt. Tuy nhiên cho đến nay, khái niệm từ Hán Việt dường


2
như mới chỉ được xác định về mặt lí thuyết và còn nhiều điều bỏ ngỏ trong thực
tế.
1.3. Hiểu biết và sử dụng tốt vốn từ Hán Việt là việc khó khăn và phức
tạp. Trong nhà trường, đối với người học cũng như người dạy, từ Hán Việt
là loại từ khó bởi vì nguồn gốc ngoại lai. Do vậy cần khảo sát vai trò và hoạt
động của lớp từ này trong hoạt động xã hội nói chung, hoạt động dạy - học
nói riêng ở nhà trường phổ thông ở nước ta hiện nay.
Việc dạy - học từ Hán Việt trong các cấp học phổ thông đã được đẩy
mạnh. Từ Hán Việt vừa được giảng dạy trong tất cả các cấp học, đặc biệt là
môn Ngữ văn của khối Trung học cơ sở. Chúng ta đều nhận thức rõ vai trò quan
trọng của nhà trường trong việc nâng cao trình độ hiểu biết về từ ngữ Hán Việt
cho học sinh.
Trong các văn bản sách Ngữ văn trung học cơ sở, từ Hán Việt xuất hiện
với số lượng lớn, nhưng số từ được sách chú giải chỉ chiếm một tỉ lệ thấp. Chính
điều đó làm cho giáo viên dạy môn Ngữ văn trung học cơ sở tự thấy có trách
nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn sự hiện diện của lớp từ này trong tiếng
Việt. Đó cũng là một cách dạy văn theo hướng tích hợp và có như vậy thì mới
đạt được mục đích trang bị tri thức và rèn luyện kĩ năng công cụ cho học sinh.
Đặc biệt, chương trình Ngữ văn trung học cơ sở lớp 7 có chứa dung lượng từ
Hán Việt khá lớn. Chúng tôi nhận thấy rằng công việc khảo sát, nghiên cứu từ
Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 là một đề tài hoàn toàn mới mẻ, trước
đó chưa có công trình nghiên cứu nào thực hiện đề tài này.
Từ những lí do trên cùng với lòng say mê, yêu thích khám phá vẻ đẹp của
lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này để

thực hiện nhằm bước đầu có một số kiến giải nhất định cho việc dạy học từ Hán
Việt ở nhà trường trung học cơ sở.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Từ Hán Việt một sản phẩm độc đáo của quá trình giao lưu và tiếp xúc
ngôn ngữ. Ngày nay từ Hán Việt là một bộ phận lớn nhất trong từ vựng tiếng


3
Việt. Lớp từ này có mặt ở mọi cấp độ, trong mọi hoạt động của đời sống ngôn
ngữ tiếng Việt. Đặc biệt, đóng một vai trò quan trọng trong ngôn ngữ văn học.
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về từ Hán Việt, mỗi công
trình lại có hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi khái quát thành
các hướng nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất là nghiên cứu từ Hán Việt gắn với nguồn gốc, lịch sử tiếng
Việt. Như chúng ta đã biết, tiếng Việt và tiếng Hán đã có một quá trình tiếp xúc
lâu dài, chính vì vậy nghiên cứu từ Hán Việt gắn với nguồn gốc lịch sử tiếng
Việt là một hướng được rất nhiều giới quan tâm. Tiêu biểu nhất cho hướng
nghiên cứu này là công trình Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán
Việt (Nguyễn Tài Cẩn, NXB ĐHQG HN, 2000)[5]. Trong công trình này, tác
giả đã chỉ ra cho chúng ta biết những nhân tố ảnh hưởng đến việc tiếp xúc lâu
dài, liên tục và sâu rộng giữa tiếng Việt và tiếng Hán, cách đọc Hán Việt. Công
trình Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử (Nguyễn Ngọc San, NXB ĐHSP, 2003) [43]
tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về ngữ âm lớp từ Hán Việt trong mối
quan hệ với lịch sử phát triển của tiếng Việt.
- Thứ hai là nghiên cứu từ Hán Việt ở mặt cấu trúc – hệ thống như: đặc
điểm cấu tạo, ngữ pháp, ngữ nghĩa và phong cách. Đây là hướng được rất nhiều
tác giả lựa chọn khi nghiên cứu về từ Hán Việt. Với hướng nghiên cứu này
chúng ta phải kể đến công trình Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt (Phan Ngọc, NXB
Đà Nẵng, 1984) [23]. Trong công trình này, tác giả tập trung nghiên cứu về cấu
tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt, chỉ ra hai loại yếu tố Hán – Việt xét về mặt

hoạt động và khả năng sản sinh. Đồng thời tác giả còn chỉ ra các quan hệ về
nghĩa bằng cách quy ra thành công thức và những quy tắc, làm cho những người
không có vốn kiến thức Hán học cũng có thể nhận diện được âm tiết Hán Việt.
Năm 1983, Giáo sư Phan Ngọc - nhà ngôn ngữ học của Việt Nam đã có báo
cáo nghiên cứu về “Tiếng Việt - Tiếng Hán và những hệ quả của nó”[24]. Tác
giả đã nêu ra những vấn đề về sự tiếp xúc Hán-Việt đã kéo dài hàng nghìn năm
nên những đơn vị Hán-Việt đã có sự thay đổi gì về nghĩa so với nghĩa trước


4
đây của nó trong tiếng Hán cũng như so với những từ đồng nghĩa với nó trong
tiếng Việt. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra việc xác định những đặc điểm và cấu
trúc ngữ nghĩa của từ Hán-Việt trên phương diện đồng đại.
Ngoài công trình trên, chúng ta không thể không kể đến các giáo trình từ
vựng học tiếng Việt, như: Từ vựng học tiếng Việt của Nguyễn Thiện Giáp [20],
Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu [11] cũng đã đề cập đến lớp từ
Hán Việt.
- Thứ ba là nghiên cứu từ Hán Việt với tư cách là đối tượng dạy học
trong nhà trường phổ thông.
Hiện nay trong chương trình học tập các môn Ngữ văn ở các trường phổ
thông từ Tiểu học đến Trung học phổ thông, số lượng từ ngữ Hán Việt được
đưa vào giảng dạy tương đối nhiều. Trong khi đó vốn từ Hán Việt của học sinh
thì rất hạn chế. Chính vì vậy, nghiên cứu từ Hán Việt theo khuynh hướng này
càng ngày càng nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và đã có
rất nhiều các công trình, tiêu biểu là: Dạy và học từ Hán -Việt ở trường phổ
thông (Đặng Đức Siêu, NXB Giáo dục, 2000) [46]; Rèn luyện kỹ năng sử dụng
tiếng Việt và mở rộng vốn từ Hán -Việt (Nguyễn Quang Ninh (chủ biên) [31],
Từ Hán Việt và việc dạy học từ Hán Việt ở tiểu học (Hoàng Trọng Canh, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2009) [7], Giải thích từ Hán Việt trong sách giáo khoa văn
học hệ phổ thông (Lê Anh Tuấn, NXB ĐHQG HN, 2005) [39] và bên cạnh

những công trình này, còn có các bài viết nghiên cứu từ Hán -Việt gắn liền với
vấn đề giảng dạy tiếng Việt, như các bài: Từ Hán -Việt và vấn đề dạy học từ
Hán -Việt trong nhà trường Phổ thông (Nguyễn Văn Khang, Tạp chí Ngôn ngữ,
số 1/ 1994)[18]; Dạy và học từ Hán -Việt ở trường phổ thông (Trương Chính,
Tiếng Việt, số 7/1989)[12]; Xung quanh vấn đề dạy và học từ ngữ Hán -Việt ở
trường Phổ thông (Lê Xuân Thại, Tạp chí Ngõn ngữ, số 4/ 1990)[33]. Đáng
chú ý hơn là tác giả Lê Xuân Thại với bài “Xung quanh vấn đề dạy và học từ
Hán-Việt”. Tác giả đã nhấn mạnh việc tìm hiểu từ, vai trò của các yếu tố cấu
tạo từ đối với việc lý giải nghĩa của từ Hán-Việt. Từ các yếu tố, chúng ta có thể


5
hiểu được nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa phát sinh của từ. Sau mỗi yếu tố cấu
tạo từ là một hình ảnh sinh động, phong phú góp phần làm nên giá trị thẩm mỹ,
tăng khả năng biểu cảm của từ Hán-Việt.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu kể trên với những giới thuyết, giải
pháp đưa ra cũng đã ít nhiều giúp cho người dạy cũng như người học hoàn
thiện hơn kĩ năng sử dụng từ Hán-Việt. Tuy nhiên, thực tế giáo dục hiện nay,
hiện tượng học sinh mắc lỗi về hiểu nghĩa và dùng từ Hán-Việt còn khá phổ
biến.
Có thể nhận thấy, các vấn đề nghiên cứu đã được đặt ra vừa có phạm vi
rộng, vừa có những nội dung chi tiết, ở những phạm vi ứng dụng cụ thể. Nhìn
chung, các nhà nghiên cứu đã giải quyết và đi đến thống nhất một số vấn đề cơ
bản sau đây:
- Khẳng định vai trò, ý nghĩa văn hoá, học thuật quan trọng của vốn từ
gốc Hán nói chung và vốn từ Hán Việt nói riêng trong việc hình thành nên tiếng
Việt ngày nay.
- Từ Hán-Việt về mặt lý thuyết đã được nghiên cứu tương đối toàn diện,
tuy nhiên trên thực tiễn sử dụng vẫn chưa được khảo sát một cách đầy đủ.
Mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu đưa ra vừa có nội dung rộng,

vừa có nội dung chi tiết, những phạm vi ứng dụng cụ thể nhưng việc khảo sát
từ Hán Việt, phong cách từ Hán Việt trong sách Ngữ văn 7 chưa ai từng làm.
Chính vì vậy, kế thừa ưu điểm của những công trình đi trước, thông qua kiến
thức về từ Hán Việt chúng tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài “ Từ Hán Việt
trong sách giáo khoa Ngữ văn 7” với mong muốn góp môt phần nhỏ bé vào
việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc khảo sát từ ngữ Hán Việt qua một số văn bản trong sách giáo khoa
Ngữ văn 7, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu vốn từ Hán Việt trong tiếng Việt về
đặc điểm cấu tạo và giá trị phong cách. Góp phần giúp người dạy và người học


6
thuận tiện trong việc giảng dạy và học tập môn Ngữ văn 7.
3.2 Nhiệm vụ
Từ mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lí thuyết về từ Hán Việt.
- Khảo sát và đưa ra bảng thống kê từ Hán Việt trong một số văn bản
sách giáo khoa Ngữ văn 7.
- Đưa ra giá trị phong cách từ Hán Việt trong một số văn bản văn học
sách giáo khoa Ngữ văn 7.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này sẽ tiến hành khảo sát từ Hán Việt đơn tiết và đa tiết xuất hiện
trong một số văn bản văn học trong sách giáo khoa Ngữ văn 7.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Sách Ngữ văn 7 (Tập 1 và 2, nhà xuất bản Giáo dục, 2012) được sử dụng
làm tài liệu chính để chúng tôi tiến hành nghiên cứu và khảo sát từ Hán Việt.
5. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp và thủ pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp lịch sử: Để tìm hiểu về từ Hán Việt trong sách giáo khoa
Ngữ văn 8, đồng thời thấy được những đặc trương giá trị sử dụng từ Hán Việt,
trước hết luận văn tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử hình thành của từ Hán Việt,
quan niệm về từ Hán Việt, cơ sở và tiêu chí nhận diện từ Hán Việt, cũng như
vị trí của chúng trong kho từ vựng tiếng Việt.
5.2. Thủ pháp thống kê, phân loại: Dựa vào các văn bản trong sách Ngữ
văn 7 để khảo sát các từ Hán Việt, sau đó đưa ra bảng thống kê các từ Hán Việt
đơn tiết, đa tiết được sử dụng theo một số tiêu chí nhất định.
5.3. Phương pháp miêu tả: Được dùng khi miêu tả giá trị ngữ nghĩa của các
từ Hán Việt được thể hiện trong các tiết học của phân môn Ngữ văn 7.


7
5.4.. Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đã giúp chúng tôi phân tích, cắt
nghĩa, lí giải giá trị của từ Hán Việt trong các tác phẩm thuộc chương trình Ngữ
văn 7 tổng hợp khái quát để đưa ra những kết luận chính xác.
5.5.. Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng nhằm
phân tích đối chiếu các từ loại Hán Việt về nghĩa được dạy trong sách giáo khoa
với nghĩa trong từ điển sau đó đánh giá hiệu quả của chúng và rút ra nhận xét.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
Góp phần làm rõ giá trị sử dụng của lớp từ ngữ Hán Việt trong chương
trình Ngữ văn 7 nói riêng, chương trình trung học cơ sở nói chung. Đồng thời
người viết hi vọng sẽ có những đóng góp nhất định trong việc hệ thống hóa cơ
sở lí thuyết về từ Hán Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thực hiện đề tài này người viết mong muốn có những đóng góp trong
việc:

- Khảo sát và đưa ra bảng thống kê từ Hán Việt trong sách Ngữ văn 7.
- Làm rõ đặc điểm cấu tạo của từ Hán Việt trong các văn bản lớp 7
- Làm rõ giá trị phong cách của từ Hán Việt trong sách Ngữ văn 7.
7. Kết cấu của luận văn:
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận,
ngoài ra còn có thư mục tham khảo và phụ lục. Cấu trúc luận văn gồm các
chương:
CHƯƠNG 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề có liên quan
CHƯƠNG 2: Đặc điểm cấu tạo từ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 7.
CHƯƠNG 3: Giá trị phong cách của từ Hán Việt trong các văn bản trong sách
giáo khoa 7.


8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN

1.1. Một số vấn đề về từ Hán Việt
1.1.1. Quá trình tiếng Hán du nhập vào tiếng Việt và cách đọc Hán Việt
1.1.1.1. Quá trình tiếng Hán du nhập vào tiếng Việt
Theo các cứ liệu lịch sử, quá trình tiếp xúc này đã bắt đầu vào khoảng
trước sau đầu Công nguyên, cách đây trên dưới 2000 năm. Trong quá trình tiếp
xúc giữa hai ngôn ngữ, ban đầu tiếng Việt tiếp nhận từ ngữ Hán chỉ mang tính
lẻ tẻ, rời rạc, chủ yếu bằng con đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc của người Việt
với người Hán. Đến đời Đường, các trường lớp dạy chữ Hán mở ra nhiều nơi.
Do đó, tiếng Hán đời Đường đã du nhập vào nước ta một cách có hệ thống bằng
con đường sách vở. Khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc
lập (năm 938), người Hán không còn cai trị nước ta nhưng các triều đại phong
kiến Việt Nam vẫn lấy chữ Hán làm ngôn ngữ chính thống của Nhà nước, phát
triển học hành, thi cử bằng chữ Hán. Vào thời kì đó, người Việt truyền thụ cho
nhau chữ Hán, không tiếp thu trực tiếp từ người Hán. Tiếng Hán trải qua các

thời đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đã biến đổi rất nhiều, thì ở Việt Nam,
chữ Hán vẫn được đọc như dạng ngữ âm của tiếng Hán đời Đường.
Trải qua một thời gian dài bị nô lệ, đồng thời nước ta lại không có thứ chữ
viết riêng nên chữ Hán được sử dụng để làm phương tiện ghi chép trong mọi
lĩnh vực sinh hoạt xã hội: sử liệu, văn chương, văn thư hành chính, thi cử, vv...
Người Việt phải đọc và học chữ Hán thông qua thư tịch Hán đặc biệt là sách
lịch sử và văn học của người Hán, dẫn đến nhiều người Việt giỏi chữ Hán và
uyên thâm về văn hóa Hán.
Song, Việt Nam là một nước nông nghiệp, sống định cư thành cộng đồng
làng, và có truyền thống “phép vua thua lệ làng”. Ngôn ngữ và văn hóa do
người Hán áp đặt và được tiếp tay bởi chính quyền đương thời không thẩm thấu
hoàn toàn xuống tất cả làng xã Việt Nam, nơi mà tiếng Việt và nếp sống Việt
vẫn còn được bảo tồn mãi mãi.
Do đó trong suốt thời gian bị đô hộ, người Việt đã tiếp thu từ người Hán


9
những kiến thức về mọi lĩnh vực, mà ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng, sau
đó chọn lọc và sử dụng chữ Hán “theo tinh thần Việt” để trở thành tài sản riêng
của người Việt. Sau hàng chục thế kỷ dưới sự cai trị và đồng hóa của người
Hán, người Việt vẫn giữ được tiếng nói và nhiều phong tục riêng của mình.
Tuy vậy, vẫn có sự ảnh hưởng nhất định về văn hóa, thể chế chính trị của Trung
Quốc đối với xã hội người Việt, kể cả trong tư tưởng triết học và ngôn ngữ.
Do không có chữ viết riêng (theo truyền thuyết thì người Việt cổ có chữ
viết riêng nhưng bị người Hán hủy bỏ, cấm đoán dẫn đến mất hẳn), trước khi
chữ quốc ngữ ra đời, người Việt phải dùng chữ Hán để viết nhưng họ đọc theo
âm Việt (chữ Nôm cũng dựa vào chữ Hán nhưng phức tạp hơn và chưa được
chuẩn hóa nên cũng không được phổ cập). Cùng với tâm lý ngưỡng mộ văn hóa
Trung Hoa, xem đó là mẫu mực, văn hóa Trung Quốc cũng ảnh hưởng một
phần tới văn hóa Việt. Tổ chức chính quyền phong kiến các triều đại đều theo

mô hình Trung Quốc. Các nghi lễ "hôn, quan, tang, tế" cũng ảnh hưởng của
kiểu Trung Quốc.
Hệ quả của quá trình giao lưu tiếp xúc ngôn ngữ - văn hoá Việt - Hán trong
một thời kì lịch sử lâu dài đã để lại trong tiếng Việt một bộ phận quan trọng, đó
chính là lớp từ gốc Hán. Từ gốc Hán trong tiếng Việt bao gồm lớp từ Tiền Hán
Việt, lớp từ Hán Việt, lớp từ Hán Việt Việt hoá, các từ thuộc phương ngữ của
tiếng Hán hiện đại du nhập vào tiếng Việt gần đây.
Sở dĩ có nhiều lớp từ gốc Hán như thế trong tiếng Việt là vì quá trình du
nhập ngôn ngữ và văn hoá Hán xảy ra đối với xã hội Việt Nam qua nhiều giai
đoạn khác nhau. Ở mỗi một thời kì, ngôn ngữ Hán du nhập vào tiếng Việt lại
chịu ảnh hưởng bởi các giai đoạn ngữ âm Hán khác nhau. Lớp từ Tiền Hán Việt
chịu ảnh hưởng của ngữ âm Hán Thượng Cổ, Hán Việt chịu ảnh hưởng bởi ngữ
âm đời Đường – tương ứng với ngữ âm Hán Trung Cổ; và về sau, trong vốn từ
Hán Việt lại có một bộ phận từ ngữ tiếp tục được biến đổi cho phù hợp với cơ
cấu phát âm và thói quen sử dụng của người Việt cho nên gọi là lớp từ Hán Việt
Việt hoá – tức là Việt hoá từ Hán Việt, hay còn hiểu là Việt hóa hai lần từ Hán.


10
Trong từ gốc Hán, từ Hán Việt chiếm số lượng nhiều nhất.
1.1.1.2. Sự ra đời của cách đọc Hán Việt
Các nhà sử học Việt Nam thường coi thế kỉ X vừa là cái mốc đánh dấu
vừa là để “phân đôi” lịch sử Việt Nam thành hai giai đoạn: giai đoạn trước thế
kỉ X là thời kì nước Việt chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc và giai đoạn
từ thế kỉ X trở đi là kỉ nguyên độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Có thể
coi đây là cơ sở lịch sử − xã hội quan trọng để xem xét, lí giải tiếp xúc Hán –
Việt trong mối quan hệ với việc vay mượn từ vựng tiếng Hán trong tiếng Việt.
Giai đoạn trước thế kỉ X
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn cho rằng : “Trong suốt chín thế kỉ sau Công
nguyên, cách đọc chữ Hán ở Việt Nam luôn luôn gắn liền với những sự biến

đổi xảy ra ở trong tiếng Hán”. [5, 315] Tuy nhiên, vì tồn tại bên cạnh tiếng
Việt, chịu sự tác động của cách nói người Việt, tiếng Hán có thể bị cải biến đi
ít nhiều nhưng nhìn chung thời kì này vẫn gắn liền mật thiết với tiếng Hán ở
Trung Quốc. Những từ tiếng Hán đi vào hệ thống từ vựng tiếng Việt thời kì này
thường được gọi là từ Tiền Hán Việt (hay còn gọi là từ Cổ Hán Việt, từ Hán
Việt cổ). Nhưng những cách đọc này không tạo thành hệ thống và hiện không
được người Việt dùng khi đọc các văn bản Hán nữa, ví dụ :beo,bùa, buồn,
buồng, chè, chữ, chuộc, giá…
Từ thế kỉ VIII, IX đến 938 (cuối đời Đường, Ngũ Đại), sự tiếp xúc Hán –
Việt đã có ảnh hưởng rất sâu đậm và tồn tại đến ngày nay. Sự tiếp xúc này đã
để lại cho chúng ta một cách đọc Hán Việt có hệ thống. Những từ tiếng Hán ở
giai đoạn này gia nhập vào tiếng Việt không phải trực tiếp như ở giai đoạn đầu
mà gián tiếp qua quá trình dạy chữ Hán ở Việt Nam lúc bấy giờ. Tác giả Nguyễn
Văn Khang nhận định: “Cách đọc Hán Việt là sản phẩm của sự tiếp xúc giữa
tiếng Việt với tiếng Hán và nền văn tự Hán xảy ra vào đời Đường, theo hệ thống
ngữ âm tiếng Hán mà cụ thể là hệ thống Đường âm dạy ở Giao Châu (khoảng
thế kỉ VIII – X).[19, 102].


11
Giai đoạn từ thế kỉ X (938) về sau
Từ khoảng đầu thế kỉ X thì Việt Nam giành được độc lập tự chủ, không
còn trực tiếp lệ thuộc nhà Hán. Người Việt đã sử dụng chữ Hán hầu như không
khác người Hán sử dụng ở Trung Quốc. Nhưng về mặt ngữ âm, người Việt đọc
chữ Hán theo lối của người Việt, khác hẳn cách đọc của người Hán. Từ đây,
cách đọc chữ Hán ở giai đoạn cuối Đường − Ngũ Đại ở Việt Nam phát triển
theo một hướng riêng, theo quỹ đạo của sự phát triển ngữ âm tiếng Việt. Từ
Tống, Nguyên, Minh trở về sau, những gì xảy ra đối với tiếng Hán ở Trung
Quốc đều không ảnh hưởng tới tiếng Hán ở Việt Nam, không xóa nhòa được
cách đọc mà ta đã học được ở giai đoạn cuối Đường, Ngũ Đại và chúng không

thể gây ảnh hưởng đến quá trình diễn biến về sau của cách đọc này. Theo GS.
Nguyễn Tài Cẩn, “từ thế kỉ XI trở đi thì cách đọc Hán Việt mới tách hẳn ra
thành một lối đọc độc lập với cách đọc ở Trung Nguyên, và tồn tại độc lập với
tư cách là hệ thống đọc riêng biệt của người Việt.” [5, tr. 317].
Trong giai đoạn này nước ta vẫn còn sự tiếp xúc với tiếng Hán, tiếp xúc
trực tiếp, tự nhiên qua khẩu ngữ của người Hán thông qua tầng lớp Hoa kiều ở
tại Việt Nam ; hay sự tiếp xúc trực tiếp bị bắt buộc mấy chục năm, giai đoạn
nhà Minh chiếm đóng ; hoặc tiếp xúc gián tiếp thông qua sách vở : vận đồ, vận
thư, từ điển…
Có thể khẳng định rằng : chỉ có giai đoạn tiếp xúc cuối Đường – Ngũ Đại
mới là giai đoạn có ảnh hưởng quyết định nhất đối với việc hình thành cách đọc
chữ Hán ở Việt Nam hiện nay – cách đọc Hán Việt. Cách đọc Hán Việt chính
là sản phẩm bắt nguồn từ giai đoạn tiếp xúc này.
1.1.2. Khái niệm từ Hán Việt
Xuất phát từ nhiều quan niệm khác nhau về cái gọi là cách đọc Hán Việt,
cho nên cũng có nhiều ý kiến khác nhau nhằm giải đáp cho câu hỏi “từ Hán
Việt là gì?” hay “thế nào là từ Hán Việt?”
Bàn về từ Hán Việt, tác giả Nguyễn Văn Khang đã nhận định rằng: “Cho
đến nay, khái niệm “từ Hán Việt” dường như mới chỉ được xác định về mặt lí


12
thuyết mà vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ trong thực tế và đó cũng là lí do giải thích
vì sao việc xác định một danh sách từ Hán Việt cụ thể vẫn chưa thể thực hiện
được” [18; tr.99]. Thật vậy, từ ngữ Hán Việt thường được hiểu chung là từ ngữ
vay mượn của tiếng Hán, nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt, lối
phát âm riêng của người Việt.
Tác giả Nguyễn Như Ý “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003 đã giải thích về từ gốc Hán trong đó có từ Hán
Việt như sau: “…Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập vâo hệ

thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp
và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi là từ Việt gốc Hán…”. [48, tr 369]
Tác giả Nguyễn Văn Khang trong cuốn “Từ ngoại lai trong tiếng Việt”,
Nxb Giáo dục, 2007 khẳng định rằng: “…Tất cả những từ Hán có cách đọc
Hán Việt đã có ít nhất một lần sử dụng trong tiếng Việt như một đơn vị từ vựng
trong văn cảnh giao tiếp thì đều được coi là từ Hán Việt…”. [19, tr 131]
Tác giả Phan Ngọc “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả”,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000 đưa ra ý kiến: “…Xét về mặt lịch sử, một từ
Hán Việt là một từ được viết ra bằng chữ khối vuông của Trung Quốc nhưng
lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt, người Việt vẫn dùng để đọc mọi văn
bản viết bằng chữ Hán, dù đó là của người Hán hay của người Việt. Xét về chữ,
thì chỉ có chữ Hán mà không có chữ Hán Việt. Hán Việt chỉ là cách phát âm
riêng của người Việt về chữ Hán…”. [23, tr 11].
Tác giả Đặng Đức Siêu viết trong cuốn “…Dạy và học từ Hán Việt ở
trường phổ thông” có viết: “Từ Hán Việt là kết quả của quá trình giao lưu tiếp
xúc ngôn ngữ văn hóa Việt Hán diễn ra hàng ngàn năm, trong đó chủ trương
“chủ động” và “Việt hóa” là đường hướng chủ đạo, bộc lộ rõ tài trí thông
minh sáng tạo của tổ tiên ta…”. [46; tr. 6]
Cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005
của tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến viết rằng: “Từ
Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn 2 (từ đời


13
Đường trở về sau) mà người Việt đã đọc âm chuẩn (Trường An) của chúng theo
hệ thống ngữ âm của mình”. [13; tr.214]
Như vậy có rất nhiều quan điểm khác nhau về từ Hán Việt. Trước hết,
tác giả luận văn hoàn toàn nhất trí với những quan điểm trên, tuy nó được xuất
phát từ những khía cạnh, góc nhìn và cách giải quyết khác nhau. Những định
nghĩa trên có những khác nhau nhưng tựu trung có điểm giống nhau là từ gốc

Hán mà có âm đọc đời Đường (âm Trường An) làm gốc và chịu sự chi phối
của quy luật ngữ âm tiếng Việt, được tiếp nhận và sử dụng trong từ vựng tiếng
Việt thì sẽ là từ Hán Việt. Từ đó, chúng ta có thể phát biểu một cách khái quát
về khái niệm chung từ Hán Việt như sau:
Từ Hán Việt là một loại từ gốc Hán, được đọc theo cách đọc Hán Việt
và được tiếp nhận vào kho từ vựng tiếng Việt.
1.1.3. Đặc điểm của từ Hán Việt
1.1.3.1. Đặc điểm về cấu tạo của từ Hán Việt
Căn cứ vào số lượng âm tiết từ ngữ Hán Việt được chia thành 2 loại từ
đơn âm tiết và từ đa âm tiết. Về từ đa âm tiết chúng tôi chủ yếu tập trung vào
đặc điểm từ song tiết Hán Việt bởi từ song tiết Hán Việt xuất hiện với số lượng
lớn trong các văn bản trong sách giáo khoa Ngữ văn 7.
a) Đặc điểm cấu tạo từ Hán Việt đơn âm tiết
Từ đơn Hán Việt là những từ có một từ tố, do một âm tiết có nghĩa, độc
lập tạo nên và chúng có khả năng hoạt động độc lập trong câu. Do đặc điểm
loại hình mà trong tiếng Việt nhiều từ đơn tiết Hán Việt thường có ranh giới
trùng với âm tiết (tiếng), do đó chúng vừa là từ vừa là đơn vị cấu tạo từ và cấu
tạo câu. Chẳng hạn, những từ như: nhân, nghĩa, đạo, tình, hiếu, hòa, trung,
khuyết, sinh, sầu v.v.
Những từ Hán Việt đơn âm tiết thường có nghĩa từ vựng gọi tên những
sự vật, đặc điểm, tính chất mà tiếng Việt chưa có, nên khi đi vào kho từ vựng
tiếng Việt chúng vẫn giữ được khả năng hoạt động tự do. Những từ Hán Việt
đơn tiết khi vào tiếng Việt, tuy cũng gặp những xung đột đồng âm và đồng


14
nghĩa với từ tiếng Việt, nhưng vẫn trở thành từ hoạt động tự do bên cạnh từ
thuần Việt là không nhiều và phần lớn các đơn vị đó đã có sự phân công hoặc
thay đổi ít nhiều về nghĩa để tạo ra giá trị riêng.
Đại bộ phận từ Hán Việt đơn tiết trong tiếng Việt là danh từ như: danh

từ chỉ người: quan, dân, binh...; danh từ chỉ động vật: hạc, báo, phượng... ;
danh từ chỉ thực vật: tùng, trúc, cúc, mai...; danh từ chỉ đồ vật: quần, áo, sách,
bút...
…Anh cởi áo ra, em vá lại cho. Em vá khéo, mẹ không biết được đâu…(
Khánh Hoài - Cuộc chia tay của những con búp bê) [49, 21]
Ngoài ra còn tính từ và động từ đơn âm tiết Hán Việt, những từ này khi
đi vào tiếng Việt cũng có khả năng hoạt động độc lập nhưng số lượng không
nhiều bằng danh từ.
…Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy, cái mùi thơm
phức của lúa mới… ( Một thứ quà của lúa non: cốm- Thạch Lam) [49,160]
Những từ Hán đơn tiết trên là những từ hoạt động tự do trong tiếng Việt.
Nhìn chung chúng rất quen thuộc, gần gũi cho nên cảm thức tự nhiên của người
Việt thường cho các từ đó là thuần Việt.
b) Đặc điểm cấu tạo từ Hán Việt song tiết
Trong lớp từ Hán Việt xét về mặt số lượng các yếu tố cấu tạo, từ song
tiết chiếm số lượng lớn hơn hẳn so với từ đơn tiết.
Dựa vào phương thức cấu tạo, từ song tiết Hán Việt được chia thành hai
loại từ ghép và từ láy.
* Từ ghép: Từ ghép Hán việt song tiết có: Từ ghép chính phụ, từ ghép
đẳng lập, từ ghép chủ vị, từ ghép trùng lặp, từ ghép phụ gia.
- Từ ghép chính phụ
Đây là loại từ ghép mà nghĩa của thành tố này quy định, hạn chế, bổ sung
nghĩa cho thành tố kia để tạo nên một nghĩa hoàn chỉnh. Các nét nghĩa của hai
thành tố gắn bó hữu cơ với nhau.
Từ ghép chính phụ gồm hai loại: Yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ


15
đứng sau và yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau.
+ Từ ghép có yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau như: ái quốc,

thất vọng, tận tâm, tận lực...
Những từ ghép loại này có số lượng ít, yếu tố chính có các tính chất từ loại
như:
Yếu tố chính là tính từ: nhiệt tình, yên thân, khổ tâm, khốn cực,...
Yếu tố chính là động từ: tận tâm, khai sinh, thưởng thức,...
+ Từ ghép có yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau như: thanh
niên, sinh vật, hải quân, đại thắng, cô lập...
Những từ ghép loại này có số lượng rất lớn, yếu tố chính có các tính chất
từ loại như:
Yếu tố chính là danh từ: học sinh, lễ đường, quảng trường, quốc ca, quốc
kỳ...
Yếu tố chính là tính từ: đại hàn, thượng thọ, công ích, thậm tệ, dạ hương,..
Yếu tố chính là động từ: cao hứng, hoan nghênh, lợi dụng, bình phục, du
kích,...
- Từ ghép đẳng lập
Các yếu tố trong từ ghép đẳng lập Hán Việt có vai trò ngữ pháp ngang
nhau. Các yếu tố hoặc là đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc là trái nghĩa hoặc là cùng
có liên quan với nhau trong một trường hợp nhất định.
Trong từ Hán Việt cấu trúc đẳng lập các yếu tố kết hợp tạo nên từ có thể
mang tính chất danh từ, động từ hoặc tính từ. Các yếu tố tạo từ có tính danh từ
như: thảo mộc, nhi đồng, phụ nữ, gia thất, phụ mẫu…; Các yếu tố tạo từ có tính
chất động từ như: tiêu diệt, chế tạo, đấu tranh, đình chỉ, cung cấp…; Các yếu
tố tạo từ chỉ tính chất như: vĩ đại, dũng mãnh, cùng khổ, kì quái, độc ác…
Trật tự của các yếu tố trong từ ghép đẳng lập Hán Việt là cố định, vững
chắc, nếu thay đổi vị trí các yếu tố sẽ dẫn đến sự thay đổi về nghĩa của từ. Ví
dụ như: lai vãng - vãng lai… Tuy trật tự các yếu tố khó thay đổi nhưng có một


16
số ít trường hợp đảo lộn vị trí các yếu tố cho nhau thì ý nghĩa của các từ vẫn

giữ nguyên như: chung thủy – thủy chung, giản đơn – đơn giản…
- Từ ghép chủ vị
Từ ghép chủ vị là loại từ ghép mà hai yếu tố kết hợp trong cấu trúc có
mối quan hệ mang tính chất chủ vị. Một yếu tố là chủ ngữ, chủ thể trong cấu
trúc đứng trước. Yếu tố thứ hai đứng sau có tính chất vị ngữ chỉ hoạt động,
trạng thái, tính chất, đặc điểm… của chủ thể - yếu tố đứng trước. Ví dụ như:
dân chủ, nhân tạo, pháp định, nhật thực, địa chấn, dân lập…
- Từ ghép trùng lặp Hán Việt là loại từ ghép được cấu tạo bởi hai yếu tố
Hán Việt có kết cấu âm tiết và ý nghĩa hoàn toàn giống nhau. Loại từ ghép này
trong tiếng Hán rất phổ biến như: nhân nhân, gia gia, xứ xứ, niên niên, thời
thời… Trong tiếng Việt từ ghép Hán Việt trùng lặp có số lượng không nhiều.
Ví dụ như: trùng trùng, song song, xa xa...
- Từ ghép phụ gia
Từ ghép phụ gia là loại từ ghép trong cấu trúc kết hợp một yếu tố có khả
năng cấu tạo từ cao kết hợp với một yếu tố khác.
Yếu tố có khả năng cấu tạo từ cao đứng trước như: bán, bất, vô, phi,
siêu… Ví dụ: bán cầu, bán kính, bán dẫn, vô lí, vô học, vô can, phi nghĩa, phi
pháp, phi thường, siêu thực, siêu trường, siêu trọng…
Yếu tố có khả năng cấu tạo từ cao đứng sau như: trưởng, viên, tính, giả,
sĩ… Ví dụ: bộ trưởng, hiệu trưởng, cơ trưởng, nhân viên, giáo viên, đoàn viên,
đảng tính, nhân tính, thú tính, tác giả, học giả, độc giả, chiến sĩ, họa sĩ, thi sĩ…
* Từ láy
Những từ được gọi là từ láy Hán Việt phải thỏa mãn một điều kiện trước
tiên là: các thành tố tạo nên từ láy là yếu tố Hán Việt như : đinh ninh, lâm li,
lam lũ, khang trang, tư lự, do dự,…
Hầu hết những từ láy Hán Việt mà cả hai thành tố là Hán Việt thì đều là
những từ mượn nguyên khối từ tiếng Hán. Đối với những từ láy này: về mặt
ngữ âm có thể thấy có một sự tương ứng khá rõ giữa các từ láy Hán Việt với



17
bản thân chúng ở trong nguyên ngữ; về mặt ngữ nghĩa, các thành tố đều có
nghĩa và nghĩa của từ láy Hán Việt trong nguyên ngữ tiếng Hán là do chính các
thành tố này tạo thành.
1.1.3.2. Đặc điểm về ngữ nghĩa từ Hán Việt
Các từ Hán Việt khi được mượn vào tiếng Việt trở thành một bộ phận của
từ vựng tiếng Việt và chúng hoạt động theo quy luật tiếng Việt. Vì vậy nghĩa
của từ Hán Việt có thể thay đổi so với nghĩa từ trong tiếng Hán.
- Sự mở rộng nghĩa, phát triển thêm nghĩa mới
Rất nhiều những từ ngữ Hán Việt khi đi vào hoạt động hành chức bên cạnh
nghĩa gốc trong tiếng Hán còn phát triển thêm nghĩa mới. Ví dụ như:
Từ hắc có nghĩa là đen tối. Vào tiếng Việt, ngoài nghĩa trên còn có thêm
hai nghĩa nữa: có mùi xông mạnh lên mũi, gây cảm giác khó chịu và tỏ ra
nghiêm, cứng rắn đến mức có thể cứng nhắc trong việc giữ nguyên tắc, làm
người dưới quyền phải nể sợ một cách khó chịu.
Từ đầu có các nghĩa sau: phần trên hết của thân mình (Cái đầu). Vào tiếng
Việt, ngoài nghĩa trên còn có các nghĩa sau: Phần có điểm xuất phát của một
khoảng không gian của thời gian đối lập với cuối (đầu mùa thu, nhà ở đầu sông,
những ngày đầu năm), phần ở tận cùng, giống nhau ở hai phía đối lập trên chiều
dài của một vật (hai bên đầu cầu, nắm hai đầu dây), vị trí hoặc thời điểm thứ
nhất, trên hoặc trước tất cả những vị trí, thời điểm khác (lần đầu, hàng ghế đầu,
tập đầu của bộ phim).
- Sự thu hẹp nghĩa
Đây là sự phát triển theo hướng: các yếu tố gốc Hán khi đi vào tiếng Việt
thì tiếng Việt không tiếp nhận tất cả các nghĩa vốn có của nó mà chỉ tiếp nhận
phần nào một số nghĩa, hoặc bớt các nét nghĩa, hoặc hạn chế phạm vi sử dụng
từ Hán Việt với nghĩa cụ thể. Ví dụ như:
Từ thổ: trong tiếng Hán mang nghĩa chỉ đất nói chung. Nhưng khi vào
tiếng Việt lại mang nghĩa chỉ một loại: đất để xây dựng nhà ở, làm vườn hay
để trồng trọt, nhưng không phải là ruộng để trồng lúa (thổ canh, thổ cư).



18
- Sự biến đổi nghĩa
quyền môn Bên cạnh hai khuynh hướng mở rộng và thu hẹp nghĩa thì một số từ trong
→ khi trở thành
cửa quyền
tiếng Hán
yếu tố (hoặc từ) Hán Việt thì có xu hướng: chúng

hoặcnổi
thay đổi hẳn nghĩa. Ví dụ như:
phù vânchuyển→nghĩa rất xa mây
Từ khốn nạn vốn có nghĩa là khó khăn. Vào tiếng Việt từ này lại có nghĩa
là hèn mạt, không còn chút nhân cách, đáng khinh bỉ, nguyền rủa.
1.1.3.3. Đặc điểm về phong cách từ Hán Việt
Tu từ học nghiên cứu những thuộc tính biểu cảm của các phương tiện ngôn
ngữ. Sự vận dụng các kết quả nghiên cứu đó sẽ giúp cho lời văn hay hơn, đẹp
hơn. Trải qua quá trình lựa chọn, thay đổi và vận dụng kéo dài hàng ngàn năm,
lớp từ Hán Việt đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong kho tàng di sản văn hoá
của dân tộc ta và được chúng ta sử dụng để thể hiện sắc thái tu từ trong các
phong cách chức năng khác nhau. Từ Hán Việt là nguồn chất liệu đáng kể trong
văn học bác học và văn chương bình dân. Các tác phẩm văn học kinh điển của
dân tộc ta, như: Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều... đều sử
dụng từ Hán Việt với mật độ rất cao.
Ngày nay, trong kho từ ngữ tiếng Việt còn tồn tại hàng loạt cặp từ Hán
Việt và thuần Việt có nghĩa tương đương nhau về sắc thái ý nghĩa, về mặt biểu
cảm và được dùng song song với nhau. Trong đó, từ Hán Việt thường mang sắc
thái cổ kính, trang trọng, tao nhã, khái quát và trừu tượng.
- Sắc thái trang trọng

Nhiều trường hợp người dùng sử dụng từ Hán Việt ví nó mang sắc thái
trang trọng hơn từ thuần Việt, đặc biệt trong các trường hợp giao tiếp, lễ nghi.
Ví dụ trong văn bản Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu [50, tr 89]
có câu: “Do sức ép của công luận ở Pháp và ở Đông Dương, ông Va- ren đã
nửa chính thức hứa sẽ chăm sóc vụ Phan Bội Châu…” nếu trong đoạn văn bản
trên từ công luận ta thay bằng ý kiến chung của mọi người thì chắc chắn không
đạt được hiệu quả mong muốn.


×